1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
***************************
PHẠM VĂN MẠNH
ĐỀ TÀI
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI THỜI KỲ
ĐỔI MỚI
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 602232
Người hướng dẫn khoa học:PGS-TS Lý Hoài Thu
HÀ NỘI,2011
2
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chu Lai là nhà văn trưởng thành trong và sau chiến tranh. Ông sáng tác
ở nhiều thể loại như: truyện ngắn, kịch bản phim, kịch bản sân khấu. Tuy
nhiên, theo các nhà nghiên cứu phê bình văn học và theo sự cảm nhận của
chính tác giả thì tiểu thuyết là thể loại sáng tác thành công nhất của Chu Lai
và tên tuổi của ông cũng được khẳng định ở chính thể loại này. Chu Lai là nhà
văn xuất thân từ người lính cho nên tác giả có vốn sống phong phú và điều
kiện lí tưởng để nhà văn phản ánh hiện thực vào trong tiểu thuyết của mình.
Nhưng tác giả không bao giờ bằng lòng với chính mình, ông luôn khao khát
làm mới chính mình để tạo nên nét riêng trong phong cách sáng tác.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi nhận
thấy những sáng tác của ông trong thời kỳ đổi mới đã có những đóng góp
nhất định cho tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Với cách nhìn nhận, khám phá
mới, nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, những cảnh đời, những số
phận của người lính khi trở về đời thường gặp rất nhiều trắc trở
trong cuộc sống.
Chu Lai không chỉ miêu tả người lính trở về sau chiến tranh mà hình
tượng người lính trong chiến trận cũng được tác giả khai thác trong bối cảnh
hiện thực chiến tranh khốc liệt. Người lính phải đối diện với những khó khăn
thử thách, giữa sự sống và cái chết. Có những người lính vẫn giữ được những
phẩm chất tốt đẹp, họ vào trận với ý chí quyết tâm đánh giặc trả thù cho đồng
đội, quê hương. Bên cạnh đó, những góc khuất của hiện thực chiến tranh còn
ít được các tác giả đề cập đến trong văn học trước 1975. Đó là sự hèn nhát,
yếu đuối, phản bội… Tất cả điều đó làm nên diện mạo riêng trong cách xây
dựng thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
3
Thời gian gần đây, chúng tôi nhận thấy có một số công trình, bài viết
về những sáng tác của Chu Lai như: “Nhân vật anh hùng và mĩ nhân”, “ Đề
tài chiến tranh trong tiểu thuyết Chu Lai”, “Mô tip anh hùng - mĩ nhân trong
tiểu thuyết Chu Lai…”. Các công trình được các nhà nghiên cứu khai thác ở
nhiều khía cạnh để làm nổi bật những những đóng góp của Chu Lai trong thể
loại tiểu thuyết thời kỳ đổi mới.
Để thấy được những đóng góp của Chu Lai trong nền tiểu thuyết đương
đại Việt Nam, chúng tôi đi vào tìm hiểu thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của
ông. Bởi nhân vật có vai trò quan trọng trong tác phẩm văn chương, nếu thiếu
nhân vật thì nhà văn không thể phản ánh sâu sắc hiện thực, thể hiện quan
niệm của mình về cuộc sống, con người …Nghiên cứu Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Từ đó, chúng ta thấy được những khám phá trong chiều sâu tâm hồn con
người.
Đã có nhiều công trình, bài viết về các sáng tác của Chu Lai với nhiều
ý kiến đánh giá xác đáng. Các ý kiến đều thống nhất xếp Chu Lai là một
trong những nhà tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh thành công của văn học
đương đại Việt Nam. Song việc tìm hiểu, nghiên cứu về thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới chưa có nhiều công trình đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu. Với việc chọn đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một
cái nhìn mới, khách quan về thế giới nhân vật phong phú và đa dạng trong
tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Sau năm 1975, đất nước được thống nhất, chiến tranh đã kết thúc.
Những vết thương của chiến tranh dần được hàn gắn. Nhưng các nhà văn vẫn
lấy đề tài chiến tranh làm cảm hứng sáng tác cho riêng mình như: Nguyễn
4
Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung
Đỉnh, Thái Bá Lợi, Bảo Ninh…
Đại hội Đảng VI thành công, đất nước chuyển dần từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần - nền kinh tế thị
trường. Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn được các nhà văn tập trung khám
phá, khai thác, miêu tả, đề cập đến. Trong đó, Chu Lai là một trong số các nhà
văn đã có nhiều tiểu thuyết thể hiện sâu sắc về hiện thực chiến
tranh, người lính.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới sự đổi mới của
tiểu thuyết hiện đại Việt Nam và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết về chiến
tranh - hình tượng người lính. Có khá nhiều bài báo bàn về đề tài chiến tranh
và người lính trong văn xuôi 1975, đặc biệt là tiểu thuyết sau 1986.
Trong bài viết “Với chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được
giải”, tác giả Tôn Phương Lan đánh giá : “Càng lùi về thập kỷ 80 sự thật
trong văn chương về chiến tranh càng được biểu hiện theo một hướng khác.
Một mặt ở chủ đề sáng tạo, quan niệm về hiện thực không có nghĩa là sự sao
chép hiện thực ngoài đời. Mặt khác, bản thân người đọc cũng muốn đi vào
tìm hiểu thế giới tinh thần của con người trong những diễn biến phức tạp.
Con người trở thành đối tượng khám phá của cả người viết lẫn người đọc, và
hiện thực chiến tranh với đầy đủ tính chất ác liệt của nó đã được hiện lên qua
số phận và thế giới nội tâm của con người…” [43]. Điều này giúp cho chúng
ta thấy được sự thay đổi đáng kể của cả người viết lẫn người đọc. Bởi hiện
thực cuộc sống thay đổi và có sự dân chủ hóa trong đời sống, văn học, đặc
biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI.
Giáo sư Hà Minh Đức trong bài “Những chặng đường văn xuôi của
cách mạng” đã nhận xét: “Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ mới
cho đất nước, cho sự đổi mới tư duy, bao gồm cả tư duy nghệ thuật. Thái độ
5
thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của hiện tượng xã hội, tinh
thần dân chủ được phát huy trong quá trình đổi mới đã tạo nên sự thúc đẩy
lớn lao cho sự phát triển của văn xuôi. Đề tài chiến tranh vẫn được tiếp tục,
được miêu tả với những bình diện, những tổn thất đau thương và những số
phận con người sau chiến tranh” [12].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long trong bài “Văn xuôi sau 1975 viết
về cuộc kháng chiến chống Mĩ” cho rằng: “Tái hiện quá khứ để hướng vào
cuộc sống hiện tại, đó là một nguyên tắc viết về chiến tranh hôm nay… Bên
cạnh yêu cầu tái hiện hiện thực chiến tranh thể hiện ý nghĩa lịch sử của cuộc
kháng chiến, văn học gần đây đi vào những số phận, diễn biến tâm lí, tình
cảm của con người. Nhà văn đã xây dựng những tình huống quyết liệt, những
xung đột phức tạp, để trình bày những diễn biến và số phận không đơn giản
của con người” [47]. Trong bài “Những tìm tòi không mệt mỏi”, nhà văn Hồ
Phương nhận định: “Gắn liền với việc viết sâu sắc về tính cách và số phận
con người trong chiến tranh, mặt bi kịch của chiến tranh cũng được miêu tả
sâu sắc, chân thực hơn trước. Chính trong bi kịch, con người càng bộc lộ rõ
hơn, đầy đủ và thật hơn tất cả bản lĩnh cũng như phẩm giá…Qua bi kịch ấy,
chúng ta mới thấy hết cái giá của chiến tranh” [55].
Trong bài “Nhân vật người lính trong văn học”, nhà văn Chu Lai viết:
“ Người lính đòi hỏi văn học phản ánh họ như cái vốn có. Cứ phản ánh trung
thành với trái tim lành lặn, thiện chí nhất”. Bởi “chiến tranh với tất cả những
hình thái đặc thù của nó hoàn toàn có thể đẩy nhân vật người lính đến tận
cùng của số phận. Và chính cái nghĩa tận cùng đó, người lính bỗng vỡ vạc ra
tất cả…” [37].
Qua các bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà văn, chúng
tôi nhận thấy, đề tài về chiến tranh thật vô cùng phong phú và đa dạng. Các
tác giả có cái nhìn nghiêm ngặt hơn về hiện thực chiến tranh, điều mà văn học
6
trước năm 1975 chưa miêu tả, khai thác hết. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
đã xây dựng một thế giới nhân vật phong phú, đa dạng và sinh động, với
nhiều cảnh đời, nhiều số phận con người.
Tiếp nối thế hệ các nhà văn viết về chiến tranh như: Nguyễn Trung
Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu …nhà văn Chu Lai tiếp tục viết về
người lính trong và sau chiến tranh. Tác giả đã phản ánh một cách chân thực,
sinh động về hiện thực trong chiến tranh, số phận các nhân vật. Từ sau năm
1975, ông đã có tiểu thuyết Nắng đồng bằng (1977), Đôi ngả thời gian
(1982),Út Teng (1985). Đặc biệt từ sau 1986, Chu Lai đã cho ra đời một loạt
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính trở về sau chiến tranh như: Ăn
mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Khúc bi tráng cuối cùng, Cuộc đời dài lắm,
Phố, truyện ngắn Chu Lai… Tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: “Tiểu thuyết
của Chu Lai gợi lên nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý
nghĩa như một đề tài lịch sử” [63]. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu cũng khẳng
định: “Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp
cận “kênh” thông tin mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng
nghiền ngẫm, suy tư về với sự nhiệt tình và lòng trung thực của người lính”
[68]. Tác giả Nguyễn Hương Giang nhận xét: “ Sự thật về chiến tranh hôm
nay được nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn
trở trong tâm hồn nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải
của người “chịu trận”, “người trong cuộc” [14].
Chiến tranh đã đi qua, nhưng những vết thương của nó vẫn in sâu trong
tâm những người lính. Đó chính là sự hi sinh, mất mát, khó khăn, gian khổ.
Và người lính khi trở về cuộc sống thường nhật, họ gặp nhiều trắc trở, khó
khăn, phải đối diện với hiện thực nghiệt ngã. Tác giả Bùi Viết Thắng nhận
định: “Viết về chiến tranh còn có nghĩa viết về hậu quả của nó – bởi vì một
cuộc chiến tranh ba chục năm đánh bại mấy đế quốc lớn, dù chiến thắng lẫy
7
lừng, to lớn nhưng hậu quả của nó chắc chắn dai dẳng, phức tạp” [60]. Lời
nhận xét trên hoàn toàn phù hợp với sáng tác của Chu Lai trong các tác phẩm:
Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần, Phố…
Chu Lai là nhà văn quan tâm đặc biệt đến số phận người lính trong và
sau chiến tranh.Trong chiến tranh, họ là đồng đội của nhau, cùng tham gia
một chiến dịch, một trận đánh, cùng nhau vượt qua những khó khăn thử
thách… Họ sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo cho nhau thậm chí hi sinh cả mạng
sống cho đồng đội… Nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, họ lại đứng ở
hai phía đối nghịch nhau như: Năm Thành (Thành Long) với Sáu Nguyện (Ba
lần và một lần), Linh với Huấn (Vòng tròn bội bạc)… Những người lính như
Sáu Nguyện, Hai Hùng, Linh…khó có thể hòa nhập với cuộc sống đời
thường. Bởi ở đó có muôn vàn cái xấu, cái ác, cạm bẫy mà họ không thể nào
chấp nhận được. Đúng như nhà phê bình Hồng Diệu nhận xét: “Tiểu thuyết
Chu Lai đề cập đến nhiều vấn đề. Nhưng bao trùm lên tất cả là những người
lính sau chiến tranh, rời chiến trường trở về, người thì tha hóa, người thì
bước vào cuộc chiến đấu mới. Cuộc chiến đấu của những người lương thiện
chống kẻ bất lương, mà thật trớ trêu: có người trước kia là đồng đội của
nhau, bây giờ đứng trên hai mặt trận đối lập nhau” [4]. PGS.TS Nguyễn
Bích Thu cho rằng tiểu thuyết Chu Lai “là sự truy đuổi đến cùng của quá khứ
để tìm nguyên nhân cái ác vì chỉ có nhìn thẳng vào quá khứ, con người mới
tránh được thảm họa của cái ác, mới có thể trừng phạt cái ác để thanh thản
sống với hiện tại, hướng tới lẽ phải và điều thiện” [70].
Chu Lai cũng xây dựng được các nhân vật phản diện đầy sức sống. Các
nhân vật đó được hiện lên chân thực, cụ thể, sinh động như: nhân vật Địch
(Ăn mày dĩ vãng), nhân vật Năm Thành (Thành Long) (Ba lần và một lần),
nhân vật Đăng Điền (Cuộc đời dài lắm ), Huấn (Vòng tròn bội bạc)… Ở các
8
nhân vật này, cái xấu, cái ác, lừa lọc, hăm dọa người tốt hiện lên với đầy đủ
những mưu mẹo…
Cùng với miêu tả thế giới nhân vật phong phú, đa dạng. Chu Lai còn
đóng góp cho tiểu thuyết đương đại Việt Nam ở phương diện nghệ thuật. Nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đánh giá: “Tiểu thuyết của Chu Lai không chỉ đa
dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật,
kết hợp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, nghệ thuật đồng hiện và có những
thành công nhất định” [10].
Bên cạnh đó, Chu Lai còn thành công cả ở phương diện nghệ thuật xây
dựng nhân vật. Đó là “lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có
nhiều đóng góp mới. Ngày trước, nhân vật thường mang một ý nghĩa phổ
quát, tức là có cái gì chung cho cả lớp người … còn Hai Hùng của Chu Lai
có số phận được miêu tả như một yếu tố cá biệt độc nhất nhưng vẫn mang
tính điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhưng
vạm vỡ về tâm hồn. Hai Hùng có bộ xương “xuống cấp” vì thương tật, vì sự
hủy hoại của mọi thứ vớ vẩn thời hậu chiến, nhưng vẫn nhất quán một bản
lĩnh, một kiểu xông pha gần như bạt mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì
lập lờ, tráo trở” [25].
Bên cạnh các ý kiến của các nhà nghiên cứu đều khẳng định những
thành công của tiểu thuyết Chu Lai, tiểu thuyết Chu Lai còn có những hạn
chế. Trong cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, Các tác giả Thiếu
Mai, Lê Thành Nghị, Hồng Diệu đều có những đánh giá chung: Hơi văn
nhiều lời, ngôn ngữ chưa thật chọn lọc, công phu, một số chi tiết còn “thô”.
Về cách xây dựng nhân vật ở Cuộc đời dài lắm, nhà phê bình Trần Ngọc
Vương cho rằng: “Nhà văn chưa “truy bức” nhân vật của mình đến cùng,
chưa nhập cuộc với các khả năng mà nhân vật có thể bộc lộ cả cái xấu với cái
tốt, cả người xấu lẫn người tốt”.
9
Tiểu thuyết của Chu Lai còn là đối tượng của một số các công trình
nghiên cứu, luận văn thạc sĩ như: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Chu Lai
(Phạm Thúy Hằng), Cách xử lí đề tài chiến tranh qua tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng (Nguyễn Thị Thanh), Một số đặc điểm tiểu
thuyết Chu Lai (Nguyễn Thị Hải Hà), Quan niệm nghệ thuật về con người
trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 (Nguyễn Thị Ngọc Diệp)…Tất cả các
công trình nghiên cứu, luận văn đều đi tìm hiểu những thành công của tiểu
thuyết Chu Lai ở phương diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó, chúng ta thấy
được những đóng góp của tác giả cho tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
Từ những ý kiến, nhận định ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng: các nhà
phê bình, nghiên cứu đều đánh giá những thành công của Chu Lai trong việc
viết về đề tài chiến tranh cách mạng nhưng vẫn có một cách nhìn riêng, có
những khám phá mới. Đó là một thế giới nhân vật vô cùng phong phú, đa
dạng với nhiều kiểu nhân vật và những phương diện nghệ thuật trong tiểu
thuyết của ông.
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1 Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi chọn đề tài Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai thời
kì đổi mới nhằm làm nổi bật những thành công của nhà văn Chu Lai trong
việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết. Từ đó, chúng tôi muốn khẳng định tài
năng, phong cách và những đóng góp của Chu Lai đối với tiểu thuyết đương
đại Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn không có tham vọng tìm hiểu tất cả các nhân vật trong tiểu
thuyết của Chu Lai mà chỉ đề ra nhiệm vụ: tập hợp, xây dựng một cơ sở lí
thuyết về nhân vật để từ đó nghiên cứu các nhân vật trong các văn bản cụ thể.
10
Qua đó, nhận diện, xem xét, đánh giá thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu
Lai thời kì đổi mới.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Do khuôn khổ của luận văn, người viết chỉ đề cập tới Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những sáng tác của Chu Lai thời kì đổi mới gồm có nhiều tiểu thuyết,
nhưng những tiểu thuyết tiêu biểu của ông gồm có: Ăn mày dĩ vãng, Ba lần
và một lần, Khúc bi tráng cuối cùng, Cuộc đời dài lắm.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính sau đây:
5.1 Phương pháp loại hình
5.2 Phương pháp so sánh
5.3 Phương pháp phân tích, tổng hợp
5.4 Phương pháp thống kê
5.5 Phương pháp tiếp cận thi pháp
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP MỚI
Về mặt lí luận: Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về
thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới. Từ đó, chúng ta
thấy được vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết và quan niệm, tư tưởng của
tác giả .
Về thực tiễn: Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các chuyên đề
văn học đương đại Vệt Nam trong nhà trường.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Luận văn gồm ba chương:
11
Chương 1: Khái lược về nhân vật và hành trình sáng tác của Chu Lai.
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Cuối cùng là mục tài liệu tham khảo.
12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ NHÂN VẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA NHÀ VĂN CHU LAI
1.1 Nhân vật văn học
Nhà văn người Đức W .Goethe đã từng nói: “Con người là điều thú vị
nhất đối với con người và con người chỉ hứng thú với con người”. Điều này
giúp chúng ta thấy được con người là nội dung quan trọng nhất của văn học.
Nhân vật xuất hiện từ trong văn học dân gian với các thể loại như: thần
thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích… Các nhân vật đó là các vị thần,
dũng sĩ, người nghèo, mồ côi không nơi nương tựa… Những nhân vật này có
sự phân tuyến rõ ràng. Một bên đại diện cho cái xấu, cái ác như: kẻ tham lam,
độc ác… Một bên đại diện cho những ước mơ, khát vọng của quần chúng
nhân dân.
Bằng tài năng sử dụng ngôn từ, nghệ thuật xây dựng truyện, chúng ta
nhận thấy bất kì tác phẩm văn học nào cũng có nhân vật. Có nhân vật có tên
như: Tấm Cám, Thạch Sanh, Đam San, Asin, Thúy Kiều….Có nhân vật
không có tên : thằng bán tơ (Truyện Kiều), người vợ nhặt (Vợ nhặt), người
đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa)…
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân vật trong các bộ giáo
trình lí luận văn học và từ điển thuật ngữ văn học, của các nhà nghiên cứu.
Cuốn sách Lí luận văn học do GS Trần Đình Sử (chủ biên ) viết: “Nhân vật
văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện
văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi vì nó là hình thức cơ bản để
qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật văn học là
phương tiện khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về
chúng” [57, tr62)
13
Trong cuốn Lí luận văn học, tác giả Đoàn Đức Phương cũng cho rằng:
“Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách
hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một
cá nhân nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người
dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch
sử nhất định” .
Tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cho rằng:
“Nhân vật văn học là đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ, không thể bị đồng
nhất với con người có thực ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất
gần nguyên mẫu có thật. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm của nhà văn về con
người. Nó có thể được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy” [1,tr250].
Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Nhân vật
văn học là một nhân vật nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó
với con người có thật trong đời sống… Nhân vật văn học là người dẫn dắt
độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống… Nhân vật văn học còn thể
hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì
vậy, nhân vật luôn gắn với chủ đề tác phẩm... Nhân vật văn học được miêu tả
qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại” [17,
tr198- 199].
Thông qua những khái niệm của các nhà nhiên cứu, chúng ta đều thấy
rằng, con người trong tác phẩm văn học là nhân vật văn học. Đó là đứa con
tinh thần của nhà văn. Nhân vật chính là nơi mà nhà văn muốn gửi gắm quan
niệm, tư tưởng về con người, cuộc đời, lí tưởng thẩm mĩ.
1.2 Vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại văn học ra đời muộn hơn so với các thể loại khác
như thơ ca, sử thi…và “là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và
chưa còn định hình…Thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh
14
sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại tiểu thuyết chưa hề
rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết khả năng uyển chuyển của nó
[2, tr78]. Điều này cho chúng ta thấy sức sống của tiểu thuyết trong văn học
hiện đại và đương đại của thế giới và Việt Nam.
Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Tiểu
thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở
mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận
của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các
điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng …” [17, tr268].
Trong một tác phẩm văn học “không thể thiếu nhân vật”. Bởi nhân vật
có một vai trò quan trọng. Thông qua nhân vật nhà văn miêu tả thế giới con
người một cách hình tượng. Bản chất của văn học là một quan hệ đối với đời
sống, nó tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như
những mô hình thực tại. Với việc khắc họa chân dung nhân vật thông qua sự
khám phá những vấn đề của số phận cá nhân và thân phận con người là một
đặc trưng quan trọng của tiểu thuyết. “Hình dung về thể loại, người ta dễ
dàng nhận thấy hai vấn đề nổi bật nhất cấu thành giá trị nội dung của tiểu
thuyết là tầm vóc hiện thực và số phận con người. Đó những chuẩn mực
không thể phủ nhận, song thật khách quan mà xét thì ấn tượng sâu đậm nhất,
sức ám ảnh lớn nhất của tiểu thuyết lại thuộc về nhân vật. Những niềm vui,
nỗi buồn, sự sung sướng hay đau khổ, hạnh phúc hay bất hạnh…của đời sống
con người từ lâu đã thành chất liệu không thể thiếu trong hành trang sáng tạo
của các nhà tiểu thuyết. Cũng không quá vô lí khi nhiều người cho rằng, tiểu
thuyết bao giờ cũng xoay quanh phạm vi đời tư: tình yêu, hôn nhân, gia đình,
dòng họ”…[69, tr241 – 242]. Sức hấp dẫn của tác phẩm sẽ tăng lên rất nhiều
nếu nhà văn biết xoáy sâu vào những vấn đề của đời sống cá nhân. Những nhà
tiểu thuyết lớn xưa nay đều bộc lộ tài năng và phong cách của mình rõ rệt
15
nhất trong lĩnh vực sáng tạo nhân vật như: Đôn kihôtê của Xécvăngtét,
Grăngđê của Bandắc, Natasa của L.Tônxtôi, Grigôri của Sôlôkhôp, Tào Tháo,
Trương Phi, Khổng Minh của La Quán Trung… “Thông qua những nhân vật
đã được khắc họa một cách tài tình ấy, bạn đọc tiểu thuyết không chỉ thấy rõ
ràng bộ mặt của xã hội đương thời, những biến chuyển của thời đại mà sâu
xa hơn là còn “đọc” được những vấn đề muôn thưở của thân phận con
người” [69, tr242].
Cũng giống như các tác phẩm có cốt truyện thuộc dòng văn xuôi tự sự
(theo quan niệm truyền thống) như truyện vừa, truyện ngắn, nhân vật trong
tiểu thuyết có một vai trò, vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là hạt nhân
của sự sáng tạo, là trọng điểm để nhà văn lý giải tất cả mọi vấn đề của đời
sống xã hội. Nhân vật tiểu thuyết có thể chỉ là sự hóa thân, là hình bóng, là
mộng tưởng của chính tác giả như trong tiểu thuyết lãng mạn cũng có thể
được xây dựng từ những nguyên mẫu của đời sống kết hợp với năng lực tổng
hợp và sáng tạo của nhà văn như trong tiểu thuyết hiện thực. Nhân vật có thể
là nạn nhân của một bối cảnh lịch sử đủ khả năng làm chủ vận mệnh của
mình… Điều quan trọng là nhân vật ấy phải là điểm xuất phát và trung tâm
của sự mô tả nghệ thuật.
Về phía tác giả, nhân vật là yếu tố mang theo cảm hứng nhân văn, là sự
thể hiện “quan niệm nghệ thuật về con người”. Về phía độc giả, nhân vật
luôn là “chìa khóa” để “giả mã” những vấn đề hiện thực mà nhà văn đặt ra
trong tác phẩm. Bởi vì, suy cho cùng, “tiểu thuyết là thể loại lớn đủ sức
nghiên cứu chính sự tồn tại của con người” (Kundera), và như vậy, trên một
phương diện nào đó cũng có thể coi là khoa học về con người. Nhà tiểu thuyết
luôn nhìn nhận và đánh giá hiện thực thông qua tâm điểm nhân vật và mọi nỗ
lực sáng tạo đều nhằm mục đích là xây dựng được những nhân vật có cá tính
độc đáo và đặc sắc.
16
Trong tiểu thuyết, có sự xóa bỏ khoảng cách giữa người kể và nhân vật,
nhìn ngắm nhân vật trong cảm nhận và miêu tả con người hiện tại cho phép
nhà văn dùng kinh nghiệm của mình để lí giải nhân vật, nhìn ngắm nhân vật
một cách thân mật, suồng sã. Cho nên nhân vật không nên là “anh hùng”, mà
thống nhất trong bản thân các nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm
thường vừa cao cả, vừa buồn cười vừa nghiêm túc.
Nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật ở các thể loại như kịch,
truyện ngắn, sử thi, thơ… Trong thơ, con người – nhân vật trữ tình “sống”
bằng tâm trạng, hiện lên trong tác phẩm chủ yếu là những khoảnh khắc cảm
xúc. Có thể gọi đó là những chân dung tâm hồn. Trong kịch, nhân vật thường
hiện lên bằng hành động. Nhân vật trong thể loại kịch xuất hiện những thời
điểm “sóng gió” nhất của số phận và bị “cuốn” rất nhanh vào những xung
đột chính của tác phẩm. Chính vì vậy, nhân vật trong kịch được xây dựng trên
cơ sở của hành động và luôn ở trong tư thế hành động. Nhưng nếu chỉ dừng
lại ở việc phân tích, nhấn mạnh vai trò ý nghĩa trung tâm của nhân vật trong
quá trình sáng tạo thì vẫn chưa chỉ ra được đặc điểm riêng của nhân vật tiểu
thuyết. Khi vận dụng các thể loại khác, nhà văn đều thông qua nhân vật để gửi
thông điệp đến độc giả, nhất là những tác phẩm cùng dòng tự sự. Điểm dễ
nhận thấy và khác biệt rõ nhất là khuôn khổ rộng lớn của tác phẩm với sự bao
la vô tận của không gian – thời gian cho phép người viết khai thác nhân vật
một cách toàn diện, tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận. Đây là đặc
điểm chính, là phẩm chất, thuộc tính nổi bật nhất của nhân vật tiểu thuyết. Từ
trong nguồn gốc xa xưa, ý thức về số phận cá nhân vừa là nhân tố quyết định
sự hình thành, vừa đồng thời là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
tiểu thuyết trong nhiều chặng đường lịch sử. Mô típ “con người phiêu du”
qua nhiều xứ sở in đậm trong kí ức thể loại phần nào nói lên “phong thái”
riêng của nhân vật tiểu thuyết. Đặc trưng thể loại không chỉ thuận lợi cho việc
17
nhà văn mở ra thế giới nhân vật đông đúc cho tác phẩm mà còn tạo điều kiện
để nhà văn đi sâu mô tả những “nếm trải” của số phận. Ngay trong truyện
ngắn, một thể loại nằm trong cùng phương thức điển hình hóa thì nhân vật
cũng chỉ hiện lên ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định đến số phận trên
nền của câu chuyện có dung lượng hiện thực không lớn, nhân vật không
nhiều, không gian thường xoay quanh một nơi chốn duy nhất và thời gian
diễn ra khá nhanh… Nếu tiểu thuyết được vận hành bằng một quá trình thì
truyện ngắn là sự cô đặc lại. Một bên là sự vận động của tâm hồn, một tính
cách, là những diễn biến tâm lí phức tạp nhằm đạt tới chiều dài của cuộc đời
và sự khái quát hóa về số phận con người… Một bên là sự nhất quán về tâm
lí, là một khía cạnh tiêu biểu cho tính cách, là một đoạn đường đời có ý nghĩa
quan trọng trong hành trình số phận nhân vật. Khi thể hiện tính cách, khác với
truyện ngắn, các nhà tiểu thuyết không gò ép nhân vật vào những khuôn khổ
chật hẹp với một tiết tấu hành động nhanh mà luôn giữ nhịp độ bình thường
như chính bản thân nhịp điệu của cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó mà hơn hẳn
các thể loại khác, nhân vật trong tiểu sống một quãng đời tương đối dài với sự
mô tả hết sức cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết trong những đoạn đường đời,
những bước đi của số phận. Điều này được thể hiện qua một số tiểu thuyết
tiêu biểu như: (Những người khốn khổ - V.Huygô, Chiến tranh và hòa bình –
L.Tônxtôi, Sông Đông êm đềm – Sôlôkhôp, Thời xa vắng – Lê Lựu …).
Nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”. Nhân vật tiểu thuyết
cũng hành động, nhưng với tư cách là đặc trưng thể loại, nhân vật ấy như là
con người nếm trải, cảm nhận, tư duy, đau khổ dằn vặt về cuộc đời. Tiểu
thuyết miêu tả con người trong hoàn cảnh, không tách nhân vật khỏi hoàn
cảnh, không cường điệu. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như một con người
đang trưởng thành, biến đổi. Khi hành động, nhân vật phải chịu đủ mọi tác
động của đời sống. Nhân vật trong tiểu thuyết thường không đồng nhất với
18
chính nó. Một người có địa vị cao nhưng lại có những hành vi thấp hèn, độc
ác, giả dối, lừa lọc…Có những người ở địa vị thấp nhưng lại có những hành
vi cao thượng. Trong một số tiểu thuyết đương đại Việt Nam, các nhà văn
cũng xây dựng nhân vật của mình không trùng khít mà nhân vật hiện lên cả
cao thượng, thấp hèn như: Tám Tính đánh giặc rất giỏi nhưng lại có tật “vồ
gái”…, Hai Hùng một người chỉ huy, đánh giặc “thần sầu” nhưng đêm đến
lại ăn trộm sữa của anh em thương binh, để sáng ra người nọ nghi ngờ người
kia…(Ăn mày dĩ vãng). Nhân vật Huấn chỉ vì mâu thuẫn với cấp trên mà
trong lúc bom đạn đã trả thù một cách hèn hạ, khi trở về anh ta còn nhận cha
của người đã bị Huấn bắn làm cha nuôi… (Vòng tròn bội bạc). Chính vì vậy,
các nhà tiểu thuyết tập trung miêu tả thế giới bên trong, đi sâu phân tích diễn
biến tâm lí nhân vật.
Các nhà nghiên cứu lí thuyết cấu trúc, tự sự học rất ít quan tâm đến vai
trò của nhân vật trong tác phẩm văn học. Họ thường quan tâm đến các sự
kiện, hành động, và chức năng, còn nhân vật chỉ như quân cờ, chỉ là kẻ tham
gia vào sự kiện. Nếu nhìn nhận như vậy, nhân vật không có vai trò quan trọng
trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, nhân vật không
chỉ là quân cờ, mặt nạ mà nhân nhân vật là một con người sống động, có cả
ngoại hình, tính cách, số phận, thế giới nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp.
Thông qua nhân vật, nhà văn cũng gửi gắm tư tưởng, quan niệm của mình
trong đó. Từ những vấn đề đã nêu ở trên, chúng ta thấy được vai trò của nhân
vật ở truyện, kịch, tiểu thuyết…
Tiểu thuyết là một thể loại có dung lượng lớn, chứa đựng trong đó các
mặt của đời sống xã hội. Và nhân vật trong tiểu thuyết được miêu tả, khám
phá nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống con người. Đúng như
Mi Lan Kudera đã nhận định: “Nhân vật không phải là sự mô phỏng một con
người sống thật. Đó là một con người tưởng tượng. Một cái tôi thử nghiệm”.
19
Nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên từ tính cách, cá tính, số phận, từ các quan
hệ, ngôn ngữ đều được nhà văn khám phá, khai thác. Đặc điểm nổi bật của
nhân vật trong tiểu thuyết có tính cách, số phận, cá tính, diễn biến tâm lí…
Tất cả đều được phát triển trong một quá trình.
Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phong phú, ở đó có đầy đủ các loại
người, hạng người trong xã hội. Trong tiểu thuyết không giới hạn số lượng
nhân vật. Số lượng nhân vật trong tiểu thuyết có thể lên đến 500 – 600 người
như trong Chiến tranh hòa bình (L.Tônxtôi), Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết
Cần), Sông Đông êm đềm (Sôlôkhôp)...
Đề cập đến nhân vật tiểu thuyết, một yếu tố không thể không nhắc đến
là bởi nó góp phần đắc lực vào việc tạo ra nhưng tính cách điển hình sống
động: đó là yếu tố hư cấu nghệ thuật.
Theo Puskin: “Qua chữ tiểu thuyết, chúng ta hiểu là cả một thời đại
được phát triển trong hư cấu”. Sau này, A. Tônxtôi (tác giả của bộ tiểu thuyết
lớn Con đường đau khổ ) nhấn mạnh hơn đến vai trò của đặc biệt quan trọng
của hư cấu nghệ thuật đối với quá trình tái tạo nhân vật: “hư cấu nghệ thuật
là cặp mắt để phát hiện những hiện tượng điển hình trong cuộc sống”.
Các nhà nghiên cứu đều khẳng định hư cấu nghệ thuật là một trong
những vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật. Tác giả người Pháp
Henri Bơnac cho rằng: “tiểu thuyết là một câu chuyện kể bằng văn xuôi,… là
sự phiêu lưu của trí tưởng tượng”. Theo cách nói của Kudera: “Tiểu thuyết là
thứ văn xuôi tổng hợp lớn dựa trên trò chơi giữa các nhân vật hư cấu”. Do
nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của yếu tố này, những nhà tiểu thuyết chân
chính bao giờ cũng biết kết hợp một cách hài hòa vốn sống phong phú và
năng lực sáng tạo tài tình để tiến hành quá trình điển hình hóa nhân vật.
Như vậy, hư cấu nghệ thuật là một thao tác không thể thiếu trong tư
duy sáng tạo của nhà tiểu thuyết. Cả L.Tônxtôi, Ban dăc, Lỗ Tấn, Vũ Trọng
20
Phụng, Nam Cao…cùng nhiều tên tuổi lừng danh khác đã tạo được những
hình tượng tiểu thuyết bất hủ nhờ phép tư duy sáng tạo này. Chúng ta có thể
tìm thấy dáng dấp nguyên mẫu trong các nhân vật AQ (Lỗ Tấn), bà mẹ La
(Nguyên Hồng), chị Sứ (Anh Đức)… Ngay bản thân tác giả có thể tự khai
thác mình như một nguyên mẫu và trong trường hợp ấy, độc giả sẽ tìm thấy
sự trùng hợp của nhiều chi tiết về tiểu sử tác giả với số phận đời tư nhân vật.
Đó là trường hợp của Nam Cao với Thứ (Sống mòn), Lê Lựu với Giang Minh
Sài (Thời xa vắng), Nguyễn Khải với Việt (Gặp gỡ cuối năm), nhân vật “hắn
– nhà văn” (Thượng đế thì cười)… Tuy nhiên, tiểu thuyết không hoàn toàn
phụ thuộc vào nguyên mẫu, bởi sự chi phối chặt chẽ về mức độ xác thực của
đối tượng. So với kí, rõ ràng tiểu thuyết đã dành một phạm vi hết sức rộng rãi
để nhà văn phát huy đến mức cao nhất năng lực tưởng tượng sáng tạo của
mình. Nếu kí chỉ đi từ một con người thực tế trên một bối cảnh có thực để xây
dựng một hình tượng điển hình thì tiểu thuyết có thể tạo dựng một điển hình
nghệ thuật từ nhiều con người, nhiều bối cảnh thực. Trong vô vàn những
gương mặt đời thường, giữa muôn vàn biến cố của hiện thực, người viết tiểu
thuyết đồng hóa và tái hiện đời sống bằng phương thức chọn lọc, tổng hợp và
sáng tạo. Đời sống hàng ngày dù đa dạng phong phú đến đâu cũng không thể
cung cấp cho người viết tiểu thuyết một nhân vật (hay một cốt truyện) hoàn
chỉnh. Chính Tônxtôi, người được mệnh danh là bậc thầy của tiểu thuyết hiện
thực Nga cũng chỉ ra rằng: “Cần phải quan sát nhiều người cùng loại với
nhau để xây dựng một kiểu người nhất định” và “nếu miêu tả một con người
mà chỉ thấy một người thật làm mẫu thì kết quả sẽ là một cái gì đó đơn nhất,
ngoại lệ và không thú vị”.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, chúng ta nhận thấy hư cấu nghệ thuật là
yếu tố bộc lộ rõ rệt khả năng sáng tạo dồi dào của nhà văn. Từ cuộc đời bước
vào tác phẩm, nhân vật tiểu thuyết được bồi đắp thêm về phẩm chất và nguồn
- Xem thêm -