Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của chtml...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của chtml

.PDF
74
45
126

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN ĐỨC HẠNH THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ Mã Số: B2005 - 03 - 65 Thái Nguyên, 2006 TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ Tên đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. Mã số: B 2005 - 03 - 65 Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Đức Hạnh Tel: 0280 857 229 DĐ: 0945 333 407 Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Thời gian thực hiện: 2005 - 2006 1. Mục tiêu: + Khảo sát, phân lích, đánh giá thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. + Khẳng định thành tựu, hạn chế và đóng góp của tiểu thuyết Chu Lai vào quá trình đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. 2. Nội dung chính: Chương 1 : Một số đặc điểm nổi bật của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật và kiểu nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Chu Lai. Chương 3: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. 3. Kết quả chính đạt được: Là tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn Lý luận Văn học cho giáo viên và sinh viên trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên. 1 SUMMARY Project title: The world of art in Chu Lai's novels Code number: B 2005 - 03 -65 Coordinator: Dr. Nguyen Duc Hanh tel: 0280 857 229. Implementing Institution: Thai Nguyen college of Education. Durahion: From 2005 to 2006. 1. Objectiver: + Find out the world of Art in Chu Lai's novels. + Insirt the progresser and some dis advantager of Chu Lai's novel in changing the novel's art program. 2. The main contents: Chapter 1 : Some great featurer of world art in Chu Lai's novel's Chapter 2: The feelings of art and a kind of characters in Chu Lai's novel's. Chapter 3: The nalure and time of world art in Chu Lai's. 3. Results obtained: This is department of ethnology's reference to research study, and teaching literature subjecl for teachers and students at Thai Nguyen college of Education. 2 THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI A- PHẦN MỞ ĐẦU: I - Lí do chọn đề tài: 1. Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu thuyết của Chu Lai là một hiện tượng văn học nổi bật từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX đến nay. Hàng loạt tiểu thuyết của Chu Lai ra đời dồn dập trong thời gian qua đã được bạn đọc yêu mến tìm đọc, được các nhà nghiên cứu - phê bình văn học quan tâm nghiên cứu và đánh giá cao. Hàng trăm bài phê bình văn học và một số luận văn thạc sĩ tìm hiểu tiểu thuyết của Chu Lai đã xuất hiện. Nhưng một công trình nghiên cứu toàn diện thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai vẫn còn vắng bóng. Đây là lí do để chúng tôi thực hiện đề tài này. 2. Nghiên cứu, đánh giá tác phẩm của một tác giả đã có vị trí ổn định trên văn đàn đã khó khăn, tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật, đánh giá tài năng và khẳng định những dấu hiệu phong cách của một tác giả mà hàng trình sáng tạo còn đang vận động, biến đổi chưa hoàn kết thì còn khó khăn hơn. Chính vì thế, chúng tôi muốn góp phần nhận diện một gương mặt văn xuôi đang hình thành phóng cách, có những tác phẩm nóng hổi tính thời sự của cuộc sống hôm nay. 3. Nghiên cứu hành hình sáng tác của Chu Lai, chúng ta thấy các tiểu thuyết của ông có sự vận động, biến đổi về thi pháp thể loại. Có thể coi đây là một hiện tượng văn học có tính điển hình, chứng minh cho quá trình vận động, chuyển đổi của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ mô hình tiểu thuyết sử thi sang mô hình tiểu thuyết phi sử thi. Từ đó, Chúng ta có cơ sở khoa học và sự đánh giá chính xác hơn thành tựu cũng như các hạn chế mang tính lịch sử của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. II - Lịch sử vấn đề: Tiểu thuyết của Chu Lai từ khi xuất hiện đến nay luôn được các nhà nghiên cứu phê bình văn học quan tâm đặc biệt. Với khá nhiều bài báo chuyên khảo và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về sáng tác của Chu Lai nói chung và về tiểu thuyết của ông nói riêng, nhiều phương diện trong thi pháp tiểu thuyết của Chu Lai đã được tìm hiểu, đánh giá ở những mức độ khác nhau. Tập hợp phân loại và đánh giá các công trình nghiên cứu ấy, chúng tôi thấy nổi bật lên năm vấn đề lớn đã được tìm hiểu sau đây: 1. Sự mở rộng và đi sâu vào đề tài chiến, tranh và người lính. Phần lớn các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay nhiều, đều khai thác đề tài chiến tranh và người lính với cái nhìn sâu sắc, đau đớn và nhân bản. Các nhà phê bình văn học đều khẳng định thành công của Chu Lai ở mảng đề tài này. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử” [l02]. Nguyễn Hoà lại từ một tác phẩm cụ thể 3 của Chu Lai mà khẳng định những phát hiện mới của nhà văn: "Với khúc bi tráng mới cùng Chu Lai muốn thể hiện cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm nghiệm xem con người đã làm thế nào để vượt thoát ra khỏi những tình huống bi kịch ấy ...” [48]. 2. Thành tựu ở đề tài số phận người tính thời hậu chiến: Có khá nhiều bài viết về vấn đề này và đều khẳng định lòng trung thực, sự dũng cảm và khả năng “đào sâu” tận cùng hiện thực của nhà văn phát hiện những "mảnh đời" còn khuất lấp, từ đó rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Đó là Bùi Việt Thắng [101], Nguyễn Hương Giang [42] , Hồng Diệu [29] , Nguyễn Thanh Tú [115] , Theo nhà văn Ma Văn Kháng, tiểu thuyết của Chu Lai đã “đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay” [l17]. 3. Vấn đề đổi mới quan niệm về hiện thực và con người. Ở vấn đề này, chúng tôi bắt gặp ý kiểm của nhà phê bình Lê Thành Nghị; "Chu Lai đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay còn bị dấu kín" [85]. Trong luận văn, thạc sĩ "Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới", tác giả Nguyễn Văn Chung đã khẳng định Chu Lai "Từ cái nhìn sâu sắc về hiện thực chiến tranh" đã đi đến "cái nhìn đa diện về hiện thực thời bình”, từ "thân phận con người trong chiến tranh" đến "thân phận con người trong cuộc sống đời thường"v.v... 4. Vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lai. Đây là vấn đề được các nhà nghiên cứu phê bình đề cập đến nhiều nhất. Đó là ý kiến của GS. Phan Cự Đệ: Tiểu thuyết của Chu Lai "không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, “nghệ thuật đồng hiện ...” [38]. Các ý kiến của Nguyễn Hương Giang. [42], Đỗ Văn Khang [118], Hồng Diệu [29]... cũng khẳng định những thành công trong vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lại. Tác giả Nguyễn Thanh Tú nhận xét về thời gian nghệ thuật trong Cuộc đời dài lắm và ăn mày dĩ vãng [115], Lý Hoài Thu lại phân tích đánh giá về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Cuộc đời dài lắm [l15], Nguyễn Tiến Hải lại nhận xét về xung đột truyện trong tác phẩm này [l15]. Nhìn một cách khái quát toàn bộ tiểu thuyết của Chu Lai trong thời kì đổi mới, Nguyễn Văn Chung lại chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong "nghệ thuật thể hiện trong tiểu thuyết Chu Lai ở các phương diện: - Cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu [LV.Th.s- Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới]. 5. Một số tồn tại trong tiểu thuyết Chu lai: Chúng tôi thấy xuất hiện không nhiều ý kiến về vấn đề này. Trong Hội thảo tiểu thuyết ăn mày dĩ vãng, các tác giả Hồng Diệu, Lê Thành Nghị, Thiếu Mai, ...đều nhận xét: Văn nhiều lời, ngôn ngữ đôi chỗ chưa thật chọn lọc, một vài chi tiết nghệ thuật 4 còn "thô"... Nhìn chung, với năm vấn đề lớn kể trên, một số đặc điểm quan trọng trong thi pháp tiểu thuyết Chu Lai đã được đề cập đến. Nhưng nhiều vấn đề mới chỉ được "cày xới" với những nhận xét mang tính khái quát mà chưa được chứng minh thấu triệt và tường minh một công trình mang cái nhìn tổng thể về thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai vẫn còn vắng bóng. Và đây là “khoảng trống” để chúng tôi thực hiện đề tài của mình. III - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Toàn bộ tiểu thuyết của Chu Lai được xuất bản từ 1979 đến 2005. Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá một số phương diện cơ bản nhất của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai như: - Kiểu nhân vật trung tâm - Cảm hứng nghệ thuật - Không gian và thời gian nghệ thuật IV - Phương pháp nghiên cứu: 1. Phương pháp phân tích tác phẩm văn học 2. Phương pháp nghiên cứu theo thi pháp thể loại tiểu thuyết 3. Phương pháp lịch sử 4. Phương pháp thống kê, so sánh... V - Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, cấu trúc của đề tài gồm 3 chương: 1- Chương 1 : Hành trình sáng tác tiểu thuyết và quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong tiểu thuyết của Chu Lai. 2- Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật họ ứng và tương giao với kiểu nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Chu lai. 3- Chương 3: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. 5 Chương 1 HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI CỦA CHU LAI. 1. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai: Một hành trình đi từ mô hình tiểu thuyết sử thi đến mô hình tiểu thuyết "phi sử thi". Điểm qua hành trình sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai từ 1978 đến nay, qua hàng loạt tác phẩm xuất thiện dồn dập trên văn đàn của ông, chúng tôi tạm phân chia hành trình sáng tác ấy làm hai chặng đường tương ứng với hai mô hình tiểu thuyết có tính kế thừa - tiếp biến: 1.1. Chặng đường thứ nhất với mô hình tiểu thuyết sử thi (1978 - 1985). Ở chặng đường này, chúng ta có thể điểm đến một số tiểu thuyết. - Nắng đồng bằng (1978) - Đêm tháng hai ( 1982) - Út teng (1983) - Gió không thổi từ biển (1985) Mô hình tiểu thuyết sử thi hình thành và phát triển rầm rộ ở Việt Nam từ 1945 đến 1975. Cấu trúc thể loại và đặc trưng nghệ thuật của nó đã được chúng tôi trình bầy khá kĩ trong chuyên khảo Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 nhìn tư góc độ thể loại. Có thể tóm tắt một số đặc điểm thi pháp thể loại nổi bật của thể loại tiểu thuyết này: - Cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo - Thế giới nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc phân tuyến - đối lập một cách tuyệt đối. - Kiểu nhân vật lí tưởng là người anh hùng cách mạng trong chiến đấu và sản xuất... - Kết cấu lịch sử - sự kiện là phổ biến... - Giọng điệu ngưỡng mộ ngợi ca là giọng điệu chủ đạo... Các tiểu thuyết của Chu Lai sáng tác thời kì này nhìn chung vẫn là sự vận động theo "quan tính" của "dòng chảy" tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975. Nhưng cũng trong các tiểu thuyết ấy đã manh nha những dấu hiệu của loại hình tiểu thuyết phi sử thi sẽ nở rộ sau khởi điểm "Đổi mới" 1987. 1.2. Chặng đường thứ hai với mô hình tiểu thuyết phi sử thi (1986 - 2005). Những dấu hiệu của loại hình tiểu thuyết phi sử thi đã xuất hiện ở chặng đường sáng 6 tác trước nay kết tinh lại trong một cấu trúc - thể loại ổn định. Hai chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai là những minh chứng có tính điển hình cho quá trình chuyển đổi hệ hình tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1945 đến nay. Những sáng tác của Chu Lai thời kì này mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống đương đại. Số phận người lính thời kì "Hậu chiến" trở thành một chủ đề lớn xuyên suốt. Hình tượng người lính sau chiến tranh vượt tên trên thử thách và bi kịch mang vẻ đẹp bi tráng, có sức lay động và ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc. Có thể kể tên hàng loạt tiểu thuyết của Chu Lai mang đặc điểm và sức mạnh lay động ấy: - Sông xa (1986) - Bãi bờ hoang lạnh (1990) - Vòng tròn bội bạc (1990) - Ăn mày dĩ vàng (1992) - Phố (1993) - Ba lần và một lần (2000) - Cuộc đời dài lắm (2002) - Khúc bi tráng cuối cùng (2004) - Người im lãng (2005) Qua hành trình sáng tác của Chu Lai, chúng ta có những minh chứng để khẳng định: - hai mô hình tiểu thuyết sử thi và sử thi khác biệt nhau nhưng không loại trừ nhau. Trong mô hình tiểu thuyết sử thi vẫn có những đặc điểm được mô hình tiểu thuyết phi sử thi kế thừa, tiếp biến và phát triển. Chúng tôi sẽ chứng minh cho luận điểm này ở các chương - phần tiếp theo. 2. Khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết. 2.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật: Trong Từ điển Thuật ngữ văn học nhóm tác giả biên soạn đã định nghĩa về Thế giới nghệ thuật: " Khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật ( một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn ngạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng, được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật (...) khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ" [1 - 201, 202] . Từ định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu: thế giới nghệ thuật là toàn bộ các phương diện nội dung và hình thức nằm trong chỉnh thể thẩm mĩ, được xây dựng bằng một hệ thống nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật vừa bị chi phối bởi cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ, vừa bắt nguồn từ thế giới quan, đặc điểm văn hoá và cảm hứng thời đại 7 của thời đại ấy. 2.2. Khái niệm thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết: Đây là khái niệm chưa được cắt nghĩa rành mạch và trọn vẹn trong bất cứ một công trình lý luận văn học nào. Theo suy nghĩ còn hạn hẹp của chúng tôi: - thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết vừa mang những đặc điểm chung của thế giới nghệ thuật trong sáng tác văn học vừa có những đặc điểm riêng gắn với đặc trưng thể loại của nó . Đặc điểm riêng ấy là "chất văn xuôi" vừa trữ tình bay bổng vừa thô nhám xù xì như chính cuộc sống đời thường đa dạng quanh ta, là tính khách quan được nhà văn cố tình lạo ra như một "ảo giác nghệ thuật" nhằm thuyết phục người đọc, là khả năng mở rộng "biên độ" không gian - thời gian nghệ thuật mà không một thể loại văn học nào có thể sánh kịp, là sự quan tâm đặc biệt đến số phận con người đa đoan và phức tạp trong dòng chảy lịch sử - đặc biệt là số phận những con người nhỏ bé, những "con người nếm trải" đắng cay rồi trưởng thành nhờ cuộc đời dạy bảo... Từ những khái niệm và giới thuyết kể trên, chúng ta có thể khẳng định sau khi theo dõi sự chuyển đổi nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật xây dựng mô hình hiện thực và con người trong tiểu thuyết của Chu Lai: - Có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ hệ thống nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi (ở chặng đường sáng tác thứ nhất) sang hệ thống nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết "phi sử thi" (ở chặng đường sáng tác thứ hai của Chu Lai). 3. Sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong tiểu thuyết của Chu Lai. 3.1. Sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực. 3.1.1. Thế giới phân tuyến - đối tập "Địch - Ta" trong tiểu thuyết sử thi chuyển sang thế giới phân tuyến - đối lập giữa các nhóm người và trong mỗi con người trong tiểu thuyết phi sử thi. 3.1.1.1. Mô hình thế giới phân tuyến - đối lập trong tiểu thuyết sử thi của Chu Lai: Ở chặng đường sáng tác thứ nhất, các tiểu thuyết của Chu Lai, dù độ đậm nhạt có khác nhau ít nhiều đều xây dựng mô hình thế giới theo nguyên tắc phân tuyến - đối lập "địch - ta" của loại hình tiểu thuyết sử thi. Trong hàng loạt tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam xuất hiện trước 1975 như: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Vùng trời (Hữu Mai ), Của biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Bão biển (Chu Văn), mô hình thế giới phân tuyến đối lập "địch ~ ta" đã được xác lập rõ ràng. Các tiểu thuyết Nắng đồng bằng, Út Teng, Đêm tháng hai, Gió không thổi từ biển của Chu Lai cũng xây dựng mô hình thế giới nghệ thuật theo nguyên tắc ấy. Trong tiểu thuyết Nắng đồng bằng của Chu Lai, chúng ta bắt gặp một bức tranh hiện thực với hai mảng Tối - Sáng đang giao tranh dữ dội. 8 Bên địch là những đồn bốt, ấp chiến lược ngột ngạt, tăm tối và thác loạn. Trong đó, các nhân vật phản diện xuất hiện như: - quận trưởng Xầm đen đúa, cố vấn Mĩ, sĩ quan và binh lính Nguỵ... Tất cả đều được xây dựng theo nguyên tắc "Biếm hoạ" để trở thành những con người - quỷ xấu xa. Đây cũng chính là nguyên tắc nghệ thuật rất phổ biến trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, một nguyên tắc được sử dụng để xây dựng các hình tượng nhân vật phản diện. Các nhân vật thằng Xăm (Hòn Đất của Anh Đức) Ba Phổ (Gia đình má Bẩy của Phan Tứ) Ba răng vàng (Rừng U Minh của Trần Hiến Minh)... là những minh chứng cho nguyên tắc nghệ thuật ấy. Tương phản với mảng hiện thực đen tối kia là mảng hiện thực bi hùng đang ngày một rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng và niềm tin chiến thắng. Đó là căn cứ của trung đội Đặc công vùng ven Sài Gòn, là những cánh rừng Trường Sơn bất khuất: ở đó, những người anh hùng mang vẻ đẹp lí tưởng xuất hiện: - Linh, Năm Thuý, Sáu Hoà, Út Cò Ngẳng... Nhưng ngay trong mô hình thế giới nghệ thuật phân tuyến - đối lập đậm chất sử thi này đã xuất hiện những dấu hiệu của chất tiểu thuyết đích thực. Nhữmg dấu hiệu mới hé lộ này sẽ trở thành phổ biến trong các sáng tác ở chặng đường sau của Chu Lai: Đó là sự khốc liệt của chiến tranh với những cái chết nhuốm màu bi thảm: Cái chết của Tùng, Ma Ngọc Lang, hành động tự sát của Toàn, cảnh xử tử út Hạnh... Đó là sự oan ức của Linh từ bệnh quan liêu và duy ý chí của một số cán bộ lãnh đạo cấp trên... Tất cả những tín hiệu này mới thấp thoáng xuất hiện như khúc nhạc dạo đầu đề báo hiệu những cao trào sẽ bùng nổ sau đó. 3.1.1.2. Mô hình thế giới phân tuyến - đối lập trong tiểu thuyết phi sử thi của Chu Lai. Khảo sát các tiểu thuyết xuất hiện ở chặng đường sáng tác thứ hai của Chu Lai, chúng tôi thấy nguyên tắc phân tuyến - đối lập vẫn được sử dụng nhưng không dừng lại ở sự phân chia địch - ta một cách cơ giới và hình thức. Khái niệm Địch và Ta cũng không còn ổn định và bất biến như trước. Sự phân tuyến - đối lập xuất hiện giữa các nhóm người (ở bên địch cũng như bên ta) và trong mỗi con người. Trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, bức tranh hiện thực chiến tranh thời quá khứ được đan xen, lồng ghép với bức tranh hiện thực thời "Hậu chiến" trong hiện đại. Trong cả hết bức tranh hiện thực ấy, ranh giới phân tuyến vừa rõ ràng vừa mong manh:- rõ ràng khi đối lập ta với địch trong quá khứ, người tốt và kẻ xấu trong hiện tại, mong manh khi trong mỗi con người cái tốt và cái xấu không phải bao giờ cũng phân chia ranh giới rõ ràng. Ngay với nhân vật chính diện Hai Hùng - một mẫu người hùng lí tưởng thời chiến, bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp của anh, ta còn biết anh từng có những lúc muốn tự thương để rờn xa cuộc chiến, đã từng ăn cắp sữa của thương binh... Với nhân vật lí tưởng Ba Sương cũng thế. Người con gái kiên trung tuyệt vời 9 trong chiến tranh lại sa ngã trong thời bình. Nhân vật phản diện Địch đến với Ba Sương thực ra là đến với phần “đen đúa” tăm tối trong con người cô. Nhưng chính với cái nhìn con người ở cả hai phương diện con người công dân và con người cá nhân như thế, nhân vật người anh hùng lí tưởng không còn xa cách, đơn giản một chiều mà gần gũi hơn, người hơn, và cũng thật hơn. Với sự phân tuyến - đối lập mềm dẻo và nhân bản như thế, ta bắt gặp các nhân vật chính diện và phản diện không phải bao giờ cũng có bản chất trùng khít với "Vai" của nó: - Phó bí thư huyện uỷ Ba Tiến lại hèn nhát; tên đại uý Tường lại nhân ái dù vốn nhu nhược nhưng có lúc lại dũng cảm lạ thường khi cứu Ba Sương...Và như vậy, với duyên tắc phân tuyến - đối lập xây dựng hệ mô hình thế giới nghệ thuật ở hai chặng đường sáng tác của Chu Lai, chúng ta thấy chất sử thi ngày mờ nhạt đi cùng với kinh nghiệm cộng đồng, chất tiểu thuyết ngày một đậm lên cùng với sự chiếm lĩnh vị trí chủ đạo của kinh nghiệm cá nhân. Quá trình chuyển đổi quan niệm nghệ thuật này của Chu Lai có sự gặp gỡ và tương đồng với nhiều nhà văn khác: Nguyễn Minh Châu từ dấu chân người tính đến Bức tranh; Nguyễn Khải từ Chiến sĩ đến Gặp gỡ cuốií năm, Lê Lựu từ Mở rừng đến Thời xa lắng.v.v... 3.1.2. Cái nhìn phản ánh - miêu tả với chiến tranh dần chuyển sang cái nhìn hồi ức - phân tích về chiến tranh: Trong các tiểu thuyết của Chu Lai xuất hiện ở chặng đường thứ nhất, chất sử thi vẫn đậm nét dù chất tiểu thuyết đã manh nha xuất hiện. Hiện thực chiến tranh trở thành đối tượng miêu tả, việc thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực sẽ dẫn đến sự thay đổi cái nhìn về chiến tranh. Trong các tiểu thuyết của Chu Lai ở thời kì này, kinh nghiệm cộng đồng và cảm hứng thời đại mang tính anh hùng ca trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quan niệm nghệ thuật của Chu Lai. Quan niệm nghệ thuật quy định nội dung và định hướng cái nhìn phản ánh - miêu tả về chiến tranh: - một hiện thực chiến tranh được tái hiện theo trục sự kiện - mà ở đây là các trận đánh. Hệ thống sự kiện nổi lên hàng đầu còn số phận những người lính chỉ ở vị trí thứ hai. Họ tham gia vào các sự kiện và qua đó bộc lộ phẩm chất hoặc anh hùng hoặc hèn nhát của mình. Trong tiểu thuyết "Nắng đồng bằng" của Chu Lai, cốt truyện được triển khai theo dòng sự kiện: - Hành quân (tr.7); Vượt sông (tr.19); Về đồng bằng (tr.29 - 33); Vào ấp chiến lược (tr.33-35); Đi lấy gạo bị thương vong (tr.39 - 5l); Đánh ổ phục kích Mĩ (tr.57 - 58)...Với hệ thống sự kiện ấy, nhân vật chủ yếu bộc lộ tính cách bằng ngôn ngữ và hành động, độc thoại nội tâm cũng đã xuất hiện nhưng còn thưa thớt, đặc biệt các lời độc thoại nội tâm chủ yếu là lời nửa trực tiếp, giọng điệu của người trần thuật và giọng điệu của nhân vật luôn song trùng, thống nhất với nhau, tính cách nào thì ngôn ngữ hành động và suy nghĩ như thế ấy, không hề có sự so le khập khiễng như trong các tiểu thuyết ở chặng đường sáng tác thứ hai của Chu Lai. Nhân vật Linh với những phẩm chất anh hùng của mình đã luôn 10 nói, làm và nghĩ như một người anh hùng. Chiến tranh được miêu tả như "ta muốn" và "ta cần" phải miêu tả sao cho phục vụ tốt nhất cho yêu cầu lịch sử, cho thắng lợi cuối cùng, chứ không phải như những gì vẫn diễn ra trong hiện thực. Bởi thế, qua cái nhìn phản ánh - miêu tả, bộ mặt chiến tranh hiện ra với sắc thái bi hùng, trong đó cái Hùng được tô đậm lên, cái Bi được giảm nhẹ đi. Sự khốc liệt và đau thương của chiến tranh đã được miêu tả, nhưng chiến tranh và số phận con người chưa được khám phá với chiều sâu nhân bản cần có và phải có. Ở các tiểu thuyết sáng tác trong chặng đường thứ hai của Chu Lai, với các vấn đề trên, chúng ta gặp một quy định ngược lại. Cái nhìn hồi ức - phân tích lại tô đậm cái Bi và giảm nhẹ cái Hùng của hiện thực chiến tranh. Thực ra, cả hai cái nhìn có phần cực đoan ở hai chặng đường sáng tác của Chu Lai đều có phần chưa thoả đáng: "Khi cực đoan mọi chân lý sẽ trở thành phi lí!". Khi Chu Lai khái quát rằng chiến tranh là "một luật chơi tàn bạo" [2 - 55] và "Chiến tranh không phải cái gì khác ngoài chuyện ngày nào cũng phải chôn nhau mà chưa đến lượt chôn mình" [7], thì đó là những khái quát từ sự thật chiến tranh mà nhà văn đã trải nghiệm. Nhưng sự thật ấy có thể điển hình hoặc chưa điển hình. Mỗi người lính đều cảm nhận chiến tranh theo cách của riêng mình. Và không phải tất cả những gì ta nhìn thấy, trải qua đều mang trong nó bản chất của sự thật. Nếu khái quát vội vàng có thể sa vào tình trạng “Thầy bói xem voi”. Nếu mỗi người lính cách mạng chỉ chiến đấu vì: "tồn tại trên bản năng tự vệ quật cường. Mình không giết nó thì nó giết mình" [7] thì tại sao dân tộc Việt Nam lại chiến thắng trong cuộc chiến đấu không cân sức với tên Gôliát của thế kỉ XX là Đế cuốc Mĩ?. Tuy nhiên, đó không chỉ là hạn chế của riêng Chu Lai mà còn là hạn chế của nhiều tác giả viết về chiến tranh sau thời điểm "Đổi mới" 1987 như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Xuân Đức với Bến đò xưa lặng lẽ, Trần Văn Tuấn với Rừng thiêng nước trong... Khi cái nhìn hồi ức - phân tích về chiến tranh thay thế cho cái nhìn phản ánh miêu tả, số phận người lính nói riêng - số phận con người nói chung trở thành "tâm điểm", dòng chảy lịch sử ở thời điểm chiến tranh trở thành cái "nền" để từ đó nhà văn khám phá nỗi đau và sức mạnh của con người Việt Nam trước những thử thách của cả thời chiến tranh và thời “hậu chiến”. Những "mảng" hiện thực có được từ kinh nghiệm cá nhân của nhà văn ( có thể là điển hình hoặc không điển hình) không còn phải né tránh mà được phơi bầy trần trụi trên mặt giấy. Trong cảnh xử tử tên gián điệp út Hạnh [1,304 - 307], cây gậy trên tay Linh vung lên sắp quật vỡ đầu nó thì vướng vào cành cây nên phải dừng lại. Thực ra "cây gậy" kinh nghiệm cá nhân của nhà văn đã vướng phải "cành cây" chuẩn mực nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi: - người anh hùng cách mạng không được phép được miêu tả với hành động "phản thẩm mĩ" (dù có thật trong chiến tranh) như thế. Nhưng trong tiểu thuyết ăn mày dĩ vãng, nhân vật Hai Hùng đã ra lệnh cho Tuấn đập chết sáu tên chiêu hồi, tình báo Nguỵ: "Một trong sáu ụ đất ấy, trên bề mặt vẫn còn vương lại mấy lọn tóc dài của đàn bà (...) - con Phượng 11 hoàng tóc dày quá - Đập mãi không chết..." [3 - l99]. Cái nhìn hồi ức phân tích trong loại hình tiểu thuyết phi sử thi đã khái quát một bộ mặt chiến tranh nói riêng, bộ mặt cuộc sống nói chung phong phú đa dạng hơn, "thật hơn" theo góc nhìn từ kinh nghiệm cá nhân của nhà văn. Trong tiểu thuyết Cuộc đời dài lắm của Chu Lai, cuộc chiến tranh Biên giới 1979 đã được tái hiện trong hồi ức, không phải là cảnh chiến trận đẫm máu mà là một kỉ niệm thấm đẫm nhân tính: - Vũ Nguyên và Bằng đã cố tình "phạm luật, khi thả A linh - một nữ tù binh. Ranh giới Địch - Ta đã mờ đi bởi tình người. Các tiểu thuyết sử thi Việt Nam trước 1975 và các tiểu thuyết của Chu Lai ở chặng đường sáng tác thứ nhất sẽ không chấp nhận tình tiết đó. 3.2. Sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người của Chu Lai: 3.2.1. Từ cái nhìn sử thi với con người "đơn phiến" chuyển sang cái nhìn tiểu thuyết với con người lưỡng diện - đa tạp. Trong loại hình tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại 1945 - 1975. Nguyên tắc phân tuyến đối lập đã "chia đôi" thế giới nhân vật thành "hai nửa" chính diện và phản diện. Đó là những con người "đơn phiến" mang phẩm chất đạo đức định sẵn và bất biến. Cơ sở để phân tuyến là ý thức hệ chính trị, là lập trường giai cấp. Bởi vậy, nhân vật chính diện nhất định phải tối đẹp. Nhân vật phản diện dứt khoát phải xấu xa. Các tiểu thuyết của Chu Lai ở chặng đường sáng tác thứ nhất tuy không "rập khuôn" nguyên tắc phân tuyến - đối lập ấy, chất sử thi không còn thuần nhất mà đã bắt đầu "pha trộn" chất tiểu thuyết, nhưng các nhân vật trong tiểu thuyết ở thời kì này của Chu Lai vẫn là những con người "đơn phiến". Đọc Nắng đồng bằng, ta gặp những nhân vật thật tốt đẹp: Sáu Hoá, Linh, Thuý, Thanh, Út Cò Ngẳng... Tuy đã được cá thể hoá ở ngoại hình, quê quán, cá tính, số phận...nhưng họ giống nhau ở nhân cách, ở tinh thần cách mạng... Đó là những nhân vật thuộc kiểu nhân vật loại hình có đời sống tâm hồn như những "Viên ngọc không tì vết", một vài nhược điểm nhỏ của họ (Tính nóng nảy của Linh, tật hay uống rượu của Sáu Hoá...) càng khiến họ đáng yêu hơn, người hơn. Ngược lại, các nhân vật phản diện xấu xa cả ngoại hình lẫn nhân cách cũng luôn có một phẩm chất xã hội duy nhất tương ứng với chức năng xã hội và chức năng văn học của chúng: - tên quận trưởng Xầm đen đúa và tàn bạo, bọn lính Mĩ thú vật, lũ lính Nguỵ hèn nhát, bạc nhược. Duy nhất nhân vật Kiêu từ chính diện chuyển sang phản diện. Nhưng Chu Lai đã đưa ra hàng loạt tín hiệu báo trước cho người đọc về sự phản bội tất yếu của nhân vật này: - sự hèn nhát đã thành "truyền thống" ở Kiêu (Bỏ nhiệm vụ, tìm cách bảo mạng trong một trận đánh, né tránh trước những nhiệm vụ nguy hiểm...); ngoại hình với môi trên rất mỏng, nói năng dẻo quẹo mắt hay liếc ngang... Ngoại hình của nhân vật Kiêu đã "tố cáo" bản chất của hắn. Nhưng ở hàng loạt tiểu thuyết sau này như Phố, ăn mày dĩ vãng, Ba lần và một lần...cái nhìn tiểu thuyết đã thay thế cái nhìn sử thi để vẽ lên một thế giới mà trong đó con người đa đoan, cuộc đời đa sự đầy ắp cả hợp lí và phi lí. Kiểu nhân vật con người lưỡng diện - đa tạp xuất hiện như một hệ quả tất yếu của cái nhìn tiểu thuyết. Nhân vật 12 Vũ Nguyên trong "Cuộc đời dài lắm" là một nhân vật chính diện mang tính lí tưởng. Vậy mà khi Vũ Nguyên còn là một người lính, anh đã làm ngơ cho Bằng thả tự do cho nữ tù binh A Linh. Khi đã là một giám đốc, Vũ Nguyên tuy đã có vợ vẫn yêu say đắm Hà Thương. Trong loại hình tiểu thuyết sử thi, một cán bộ lãnh đạo cao cấp như Vũ Nguyên không thể vi phạm kỉ luật quân đội và có những “vi phạm” về đạo đức lối sống như thế. Nhân vật Tám Cọp (Ăn mày dĩ vãng ) là một chỉ huy dũng cảm lập bao chiến công. Nhưng người anh hùng này lại có "bệnh" hay "vồ" phụ nữ. Các nhân vật xuất hiện với phẩm chất đạo đức không phải bao giờ cũng trùng khít với chính nó: Hai Tính cứa đứt dây võng để hại Sáu Nguyện vì thù hằn (Ba lần và một lần); Huấn giết chết Trung đội trưởng Thành để trả thù riêng (Vòng tròn bội bạc)... Những con người lưỡng diện - đa tạp này hoặc tha hoá trước thử thách hoặc "nếm trải" thử thách rồi trưởng thành nhờ cuộc đời dạy bảo. Chính vì thế, họ trở thành nhân vật đích thực của tiểu thuyết chứ không phải là nhân vật của các “Sử thi mới”. 3.2.2. Từ những người anh hùng - hợp thời trở thành những người anh hùng - lạc thời. Đây không phải là phát hiện mới của Chu Lai. Nhiều nhà văn lớp trước và cùng thời với Chu Lai đã phản ánh hiện tượng mang tính quy luật này. Những người anh hùng rực rỡ vinh quang trong chiến trận, khi trở về với những thương tật cả trên thân thể và tâm hồn đã không dễ hoà nhập vào cuộc sống đời thường. Một số người trở lên lạc lõng bơ vơ, vật vã trong cả bi kịch vật chất và tinh thần. Bảo Ninh trong Thân phận tình yêu đã viết thật xúc động và ám ảnh về hiện tượng đó. Nhân vật Kiên cô độc đi giữa cuộc đời với những vết thương khủng khiếp trong tâm hồn. Những ác mộng đêm đêm kéo anh trở về với Trường gọi hồi, đồi Xáo thịt... đầy xác chết và máu. Tỉnh dậy trong đêm, Kiên thấy gối đầm đìa nước mắt. Chiến tranh đã đi qua nhưng hậu quả của nó để lại thật nặng nề và tàn bạo trên từng mảnh đất, từng số phận con người. Và những người lính trở về đời thường đã trở thành những anh hùng - lạc thời hay nói chính xác hơn là hết thời. Họ không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn và hạnh phúc trong cuộc sống. Hoà vào “dàn đồng ca” hát bài hát bi thảm thời hậu chiến, Chu Lai đóng góp giọng hát riêng của mình, làm phong phú và sâu sắc hơn những tìm tòi, khám phá về thân phận người lính sau chiến tranh. Đó là số phận của Sáu Nguyện trong Ba lần và một lần, Lãm với cuộc sống trên hè phố trong Phố và đặc biệt là Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng. Người đội trưởng đội đặc nhiệm lừng lẫy một thời, người anh hùng trận mạc từng khiến kẻ thù khiếp sợ và gọi anh bằng cái tên "ác ôn Việt cộng", giờ đây trở thành một kẻ ăn mày đặc biệt : - ăn mày dĩ vãng. Bản chất trung thực và thẳng thắn của một người lính đã khiến anh không thể hoà nhập với mặt trái của cơ chế thị trường. Ngoài 40 tuổi mà nhàu nát, già nua như ông già ngoài 50 tuổi, không gia đình, không nghề nghiệp, không tiền bạc, người anh hùng lạc thời ấy đi tìm Ba Sương, cũng là đi tìm quá khứ đẹp đẽ bi hùng của chính mình. Nhưng Ba Sương đã chết về phương 13 diện tâm hồn, nhân cách chỉ còn lại Ba Sương hôm nay đã hoàn toàn đổi khác về tinh thần. Sự đánh tráo . thân xác ngày trước đã cho Ba Sương được sống. Nhưng sự đánh tráo nhân cách hôm nay đã khiến cho Ba Sương "chết" thêm một lần nữa trong khát vọng kiếm tìm dĩ vãng của Hai Hùng. Làm sao người đọc có thể quên hình ảnh Hai Hùng - một ông già đứng khóc lặng lẽ một mình trong bóng chiều? Bên cạnh Hai Hùng còn có số phận cô độc của Ba Thành, số phận của Tuấn - người lính trung thực về với đời thường, hết lòng cho sự nghiệp xây dựng CNXH nhưng bị gạt ra khỏi "chính trường" chỉ vì tư tưởng cục bộ và thói kì thị Bắc - Nam... Trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai, nhân vật Nam làm ta chợt nhớ đến trung tá Đông trong Mùa lá rụng trong lườn của Ma Văn Kháng. Cả Nam và Đông, hai trung tá quân đội từng là anh hùng thời chiến tranh vệ quốc Nhưng họ đều ngơ ngác trong đời thường đa tạp, lạc lõng và "Vô tích sự” ngay trong gia đình mình. Sức mạnh của đồng tiền trong thời đại cơ chế thị trường đã phá tan hạnh phúc của họ. Hai người lính anh hùng ấy đã chiến thắng trước quân xâm lược nhưng lại chiến bại ngay trong ngôi nhà của mình. Nước mắt và rượu dìm họ vào bi kịch không lối thoát. Bi kịch tinh thần của họ cũng là bi kịch của viên tướng già lạc lõng, cô đơn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, của Giang Minh Sài trong Thòi xa vắng của Lê Lựu...của các nữ thanh niên xung phong để lại tuổi trẻ và nhan sắc trong chiến tranh, trở về đời thường với thương tật và hai bàn tay trắng, họ vào chùa làm Sư trong một bút kí nổi tiếng của Minh Chuyên... Số phận của bao anh hùng - lạc thời như thế sẽ mãi là nỗi đau nhức nhối trong lương tri con người. Tiếng súng chiến tranh đã tắt nhưng tiếng vọng khủng khiếp của nó còn làm chảy máu và nước mắt của bao người lính từ chiến tranh trở về với những "vết thương" trong tâm hồn. Có thể nói, từ sau "đổi mới" 1987, Chu Lai và một số nhà văn khác đã tạo ra một dòng văn học đặc biệt: - dòng văn học "Vết thương chiến tranh"! 3.2.3. Thất vọng và hi vọng - hai “gam mầu” tối - sáng trên bức chân dung người lính thời hậu chiến. Bên cạnh những người anh hùng - lạc thời, những người lính lạc lõng hay bầm dập trong bi kịch thời hậu chiến, chúng ta vẫn gặp trong tiểu thuyết Chu Lai những người lính vượt lên và chiến thắng thử thách của đời thường - những thử thách không kém phần ác liệt so với thử thách của chiến tranh. Có thể coi đó là những "gam mầu sáng" đầy hi vọng xuất hiện bên những “gam mầu” tối thấm đậm nỗi đau và thất vọng. Với những hình tượng nhân vật khoẻ khoắn ấy, người đọc có quyền hi vọng rằng: những người lính giữ vững phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ đã dũng cảm chiến đấu và chiến thắng ở chiến trường sẽ chiến đấu và chiến thắng ở "mặt trận không tiếng súng" này. Đó là nhân vật Lãm trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai, người lính ấy từ cuộc 14 sống nghèo khổ vất vưởng trên hè phố đã vươn lên bằng nghị lực và danh dự của một người chiến sĩ. Lãm đã làm giầu chân chính rồi cưu mang những đồng đội cơ nhỡ khó khăn của mình. Anh sẵn sàng lấy cái chết của bản thân mình để cứu cho cái đẹp, cái thiện không bị huỷ hoại. Cũng được xây dựng theo mô típ "xả thân vì lí tưởng" như thế, Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm đã phấn đấu trở thành một giám đốc tài năng và liêm khiết, đem lại cơm áo và hạnh phúc cho hàng ngàn người lao động. Trong khoảng giao thời còn đầy hỗn tạp, trong thời điểm đất nước đói nghèo đang vật vã tìm đường đi lên, những người anh hùng kiểu mới tài năng và dũng cảm như Vũ Nguyên cần thiết và đáng quý biết chàng nào! Cởi bỏ áo lính nhưng các anh vẫn giữ nguyên trái tim người lính anh hùng lao vào cuộc chiến đau mới. Ở đoạn kết tác phẩm, chúng ta gặp một kết thúc bi tráng: Vũ Nguyên ra tù, trở về lâm trường cao su yêu quý của mình và tắt thở với nụ cười mãn nguyện trên môi. Vũ Nguyên chết nhưng sự nghiệp và lí tưởng của anh không chết. Bởi vậy, bi kịch cuộc đời Vũ Nguyên là một bi kịch lạc quan cho phép chúng ta tin tưởng, hi vọng vào tương lai tươi sáng. Như vậy, với quá trình chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, qua hai chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai, chúng ta bắt gặp hai thế giới nghệ thuật thuộc hai loại hình tiểu thuyết vừa liệu biến vừa đan xen vào nhau. Đó là mô hình thế giới nghệ thuật đậm chất sử thi ở chặng đường sáng tác thứ nhất. Đó là mô hình thế giới nghệ thuật đậm chất tiểu thuyết ở chặng đường sáng tác thứ hai. Sự tiếp biến và tương gian giữa hai mô hình thế giới nghệ thuật này có tính điển hình, vì qua đó, chúng ta nhân ra quá trình vận động và chuyển đổi thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, sự phân chia kể trên cũng chỉ mang tính tương đối và dựa vào những dấu hiệu nghệ thuật chủ đạo nhất. Bởi trong thế giới nghệ thuật đậm chất sử thi đã thấp thoáng những tín hiệu "phi sử thi" (Ví dụ: Nắng đồng bằng). Trong thế giới nghệ thuật đậm chất tiểu thuyết thì "hồi quang" của vẻ đẹp sử thi không ít lần vẫn rực sáng (Ví dụ: Khúc bi tráng cuối cùng). Những đặc điểm nổi bật trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Chu Lai sẽ được chúng lôi cụ thể hoá, khảo sát và đánh giá qua một số phương diện nội dung và hình thức tiểu thuyết ở hai chương sau. 15 Chương 2 CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT SONG HÀNH - HÔ ỨNG VỚI KIỂU NHÂN VẬT TRUNG TÂM TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI. 1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và kiểu nhân vật trung tâm 1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật. Cảm hứng tư tưởng hay còn gọi là cảm hứng nghệ thuật được định nghĩa trong Từ điển Thuật ngữ Văn học: "Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Bê - lin - xki coi cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó "biến sự chiếml lĩnh thuần tuý trí óc đối với tư tưởng thànhl tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành"[123- 44]. 1.2. Khái niệm kiểu nhân vật trung tâm: Trong Từ điển thuật ngữ văn học, nhóm tác giả biên soạn không sử dụng khái niệm “nhân vật trung tâm” mà gọi đó là nhân vật chính: "nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tường của tác phẩm" [123 - 156]. Còn trong giáo trình Lí luận văn học, nhóm tác giả biên soạn lại phân chia tỉ mỉ hơn trong mục loại hình nhân vật văn học, nếu dựa vào tiêu chí vai trò và vị trí của nhân vật trong kết cấu và cốt truyện của tác phẩm, chúng ta có ba loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Trong đó, nhân vật trung tâm là: “Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cất truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình (...). Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thay nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên suất tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung lâm của tác phẩm” [122 - 283]. Trong hàng loạt tác phẩm của một nhà văn, chúng ta có thể gặp các nhóm nhân vật trung tâm xuất hiện lặp đi lặp lại như một mô típ nghệ thuật. Và chúng tôi gọi đó là những kiểu nhân vật trung tâm trong hệ thống tác phẩm của một tác giả. Trong các tiểu thuyết của Chu Lai, chúng ta sẽ gặp một số kiểu nhân vật trung tâm vừa khác nhau về tính cá thể hoá sinh động vừa có sự tương đồng về phẩm chất loại hình nhân vật. 16 1.3. Mối quan hệ tương giao - hô ứng giữa cảm hứng chủ đạo và kiểu nhân vật trung tâm: Cảm hứng nghệ thuật không chỉ là động lực thúc đẩy người nghệ sĩ cầm bút sáng tác mà còn là "chất keo" gắn kết mọi phương diện nội dung và hình thức thành một chỉnh thể thẩm mĩ. Cảm hứng nghệ thuật là “linh hồn” của một tác phẩm. Nó được biểu hiện qua mọi cấp độ nội dung và hình thức của tác phẩm như: - lời văn nghệ thuật, cốt truyện, kết cấu, xung đột, giọng điệu và ngôn ngữ.v.v... Nhưng cảm hứng nghệ thuật được biểu hiện rõ nét và trọn vẹn nhất qua các nhân vật - đặc biệt là nhân vật trung tâm. Bởi các cấp độ nội dung và hình thức thực ra cũng chỉ là các phương tiện xoay quanh, hướng về và nhằm làm nổi bật các hình tượng nhân vật - phương tiện nghệ thuật chủ yếu và đắc dụng nhất để khái quát và phản ánh hiện thực của nhà văn. Có thể nói khái quát rằng: - Cảm hứng nghệ thuật nào thì hình tượng nhân vật trung tâm ấy! Còn có thể nói một cách ví von rằng: - Cảm hứng nghệ thuật là “tiếng sét” còn nhân vật trung tâm là “tia chớp” rực sáng nhất trong mọi tia chớp xuất hiện trên "bầu trời" tác phẩm. Bởi vậy, khảo sát các tiểu thuyết của Chu Lai, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá các "cặp" cảm hứng - nhân vật trung tâm trong sự hô ứng tương giao của chúng. 2. Các loại cảm hứng - nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Chu Lai: 2.1. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng lãng mạn hô ứng - tương giao với kiểu nhân vật anh hùng - lãng tử trong chiến tranh. Trước hết chúng ta tìm hiểu khái niệm cảm hứng lãng mạn và cảm hứng anh hùng. Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, Pôxpêlốv đã viết: "Cảm hứng anh hùng bao hàm sự khẳng định chiến công lớn lao của một cá nhân hoặc của cả một tập thể. Sự khẳng định ý nghĩa to lớn của chiến công đó, với sự phát triển của nhân dân, dân tộc, nhân loại. Đối tượng của cảm hứng anh hùng trong văn học là chất anh hùng của bản thân thực tại hoạt động tích cực của những con người đã thực hiện những nhiệm vụ lớn mang tính chất tiến bộ của toàn dân tộc" [tr 116]. Như vậy, cảm hứng anh hùng luôn hướng về những sự kiện lịch sử kỳ vĩ những người anh hùng lý tưởng mang trong mình khát vọng, chiến công, sức mạnh và cả số phận của cả cộng đồng. Cũng Pôxpêlốv viết về cảm hứng lãng mạn như sau: "Chất lãng mạn lại là sự phấn trấn tinh thần hướng tới một lý tưởng cao cả "siêu cá nhân" và những biểu hiện của lý tưởng" [tr 188]. Cảm hứng lãng mạn hay còn gọi là chất lãng mạn luôn chấp cánh ước mơ cho con người bay bổng lên trên hiện thực nghiệt ngã, tàn khốc, hướng về một tương lai tốt đẹp với một niềm tin sâu sắc. Như vậy, cảm hứng anh hùng là một tình cảm xã hội với ý thức hướng về chiến 17 công và nhấn mạnh ý nghĩa của những chiến công đó đối với dân tộc và nhân loại. Chủ thể của những chiến công đó là những con người anh hùng (cá nhân hoặc tập thể). Tất nhiên, nhà văn thường không ca ngợi "chất anh hùng" (một khái niệm mang tính dân tộc - lịch sử) một cách trực tiếp mà "lý giải bằng tư tưởng sáng tạo tính anh hùng ấy dưới ánh sáng lý tưởng về sự dũng cảm, trung thực và nghĩa vụ công dân. Nghệ sĩ tái tạo đời sống thành thế giới hình tượng của tác phẩm, trong đó thể hiện quan niệm của tác giả về chiến công, về bản chất, số phận và ý nghĩa của tính cách anh hùng" Không chỉ với nhân vật Linh trong Nắng đồng bằng được khắc hoạ bằng cái nhìn sử thi, với các nhân vật trung tâm được khắc hoạ bằng cái nhìn tiểu thuyết trong các tiểu thuyết khác của Chu Lai, các nhân vật anh hùng là nam giới khi xông pha trận mạc đều mang một vẻ đẹp kiêu hùng - lãng tử, một vẻ đẹp chỉ có ở các nhân vật chính diện của Chu Lai. Đó là các nhân vật anh hùng với vẻ đẹp ngoại hình đầy nam tính và có tính lí tưởng hoá. Chúng ta cùng ngắm nhìn nhân vật Linh trong Nắng đồng bằng: “Lúc nào cũng chỉ vận một chiếc quần cụt bằng nương, phía trên bàn chiếc áo rằn ri chật căng, cúc mở phanh để lộ tảng ngực nâu bóng, vuông vức. Cái dáng ngang tàng, vô tư của những tay súng cự phách vùng ven (...) vóc dáng hiên ngang của người chỉ huy, khẩu "côn" bạc trắng để trần, giắt lệch bên hông, hai băng đạn M79 vàng chói khoác chéo qua ngực kềnh kệch một dây lưng tạc đạn..." [1 - 273]. Người anh hùng nổi tiếng dũng cảm trong trận mạc mang vẻ đẹp ngang tàng ấy đi vào các trận đánh, lúc nào cũng đi đầu trước mọi hiểm ngay. Chàng trai Hà Nội hào hoa ấy có sức khoẻ phi thường, từng ghé vai nâng một bên xe ô tô để thay lốp trước khi trở thành người lính đặc công. Vẻ đẹp lãng tử - kiêu hùng của anh không chỉ được khắc hoạ trong các trận đánh mà còn được biểu hiện qua một chi tiết đời tư: - cắn răng nén xuống những xao động trong lòng trước Thuý vì mối tình còn gửi lại hậu phương. Chiến thắng chính mình còn khó khăn hơn chiến trắng kẻ thù. Cũng đẹp, khoẻ, dũng cảm và ngang tàng như Linh còn có nhân vật Hai Hùng trong ăn mày dĩ vãng: "Cao một mét bẩy ba, nặng cũng suýt soát bảy mươi kí (...) vồng ngực vênh cong như rá úp, tóc dày cộm, mắt xếch, miệng rộng, cười tươi, răng to và chắc, bụng nổi đủ sáu múi, chân tay xoắn chằng như chão bện, da mầu bánh mật, có lúc đỏ nâu (...) một đôi mắt nâu xám, hồn nhiên và hoang dại..."[8 - 35, 36]. Đồng đội tin cậy anh như thuỷ thủ tin cậy người thuyền trưởng tài ba. Phụ nữ mê anh như mê một thần tượng. Kẻ thù khiếp sợ và gọi anh bằng những biệt danh: "Kẻ sát nhân tài tử", "Nghệ sĩ cầm súng ảo thuật"... Người anh hùng chỉ biết có lẽ phải và lòng quả cảm ấy không chỉ quyết liệt trước kẻ thù mà còn quyết liệt trước sự hèn nhát của đồng đội, dù là cấp trên: - Hai Hùng nắm cổ áo lôi dậy và quát vào mặt Phó bí thư Quận uỷ Ba Tiến hèn nhát, thẳng thừng phản đối lệnh tiêu diệt chi khu Phú Thuận khi lực lượng đã quá suy kiệt về sức khoẻ. Anh gọi đó là một mệnh lệnh không có “chút xíu nhân đạo nào” [8- 201]. Cũng với mô típ anh hùng khoẻ, đẹp, ngang tàng và lãng tử ấy, chúng ta còn gặp nhân vật Nam trong Phố của Chu Lai : "Hồi ấy anh là một đại đội trưởng công binh vừa ra trường, tuổi đời chưa đến hai nhăm, thân thể cao to - như một cầu thủ bóng rổ, lông mày rậm, mắt xếch 18 sáng, đầu cắt bốc, chân râu xanh rì khắp mặt. Đồng đội gọi anh là con cá kình trên mọi khúc sông trọng điểm (...) dường như tố chất con người anh sinh ra là để dành cho những hành động bạo liệt"[9 - 31]. Và còn đây là chân dung Vũ Nguyên trong "Cuộc đời dài lắm", một người lính đặc nhiệm võ thuật cao cường kiêm nghệ sĩ với cây kèn Cla: "Mặt hoa da phấn, lưng thẳng, cổ thẳng, bụng eo, đùi thon, tiếng nói lúc nào cũng khẽ khàng như đang tỏ tình, khen cũng cười mà chửi cũng cười, lại còn răng khểnh nữa..." [14 - 35]. Như vậy, với sự lặp đi lặp lại ở hàng loạt nhân vật lí tưởng vẻ đẹp lãng tử của những người lính hoặc anh hùng hoặc vừa anh hùng vừa nghệ sĩ đã tạo ra một kiểu nhân vật trung tâm của riêng Chu Lai. Cảm hứng lãng mạn gắn bó với vẻ đẹp lí tưởng hoá này. Cảm hứng anh hùng lại rực sáng trong các chiến công của họ dù ở chiến trường hay ở các mặt trận không tiếng súng. Cảm hứng anh hùng luôn đưa các nhân vật lí tưởng đến trước các thử thách khủng khiếp nhất, ác liệt nhất (ở cả ngoại cảnh và ở trong chính bản thân mỗi con người). Tư thế chiến thắng thử thách của họ trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược đã khẳng định phẩm chất anh hùng của các nhân vật này. Nhưng tư thế chiến bại trước những thử thách đời thường vẫn không làm tan biến vẻ đẹp anh hùng của họ nên họ không tha hoá trước hoàn cảnh. Bởi vậy, trong tiểu thuyết của Chu Lai, cảm hứng anh hùng xuất hiện trong cả hai tư thế: - tư thế chiến thắng của người anh hùng hợp thời (Ví dụ: nhân vật Linh trong Nắng đồng bằng); tư thế chiến bại của người anh hùng - lạc thời những vẫn giữ vẹn nguyên những phẩm chất cao đẹp của mình (Ví dụ: Nhân vật Sáu Nguyện trong Ba lần và một lần). 2.2. Cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương tương giao hô ứng với kiểu nhân vật bi kịch. * Khái niệm cảm hứng bi kịch. "Tình huống bi kịch bao hàm ở mâu thuẫn và đấu tranh của những nguyên tắc cá nhân "siêu cá nhân trong ý thức con người(...) là mâu thuẫn giữa "những yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử, của đời sống và việc "không có khả năng thực hiện yêu cầu nói trên của thực tiễn"( Pôxpêlốv - Dẫn luận nghiên cứu văn học) [tr l60]. Cảm hứng bi kịch luôn xuất hiện khi có sự đối kháng giữa hai lực lượng thù địch: Tiến bộ và lạc hậu; Cách mạng và phản cách mạng...và trong cuộc đấu tranh không cân sức ấy, cái đẹp, cái thiện tạm thời thất bại trước cái xấu, cái ác. Con người lý tưởng ngã xuống nhưng cái chết ấy lại gieo mầm cho sự sống, thúc dục nhân dân đứng lên tiếp tục thực hiện lý tưởng cao đẹp của người anh hùng. * Khái niệm cảm hứng cảm thương. "Cảm hứng cảm thương - là sự xúc động của tâm hồn, được gây nên bởi ý thức về những phẩm giá đạo đức trong tính cách những con người bị hạn thấp về mặt xã hội hoặc có liên quan với tầng lớp đặc quyền lợi thiếu đạo đức. Trong các tác phẩm văn học tính thương cảm mang khuynh hướng tư tưởng khẳng định" [tr.162]. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất