Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật trong thơ nguyễn bính trước năm 1945...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật trong thơ nguyễn bính trước năm 1945

.PDF
75
802
52

Mô tả:

ƯỜ NG ĐẠ Ơ TR TRƯỜ ƯỜNG ĐẠII HỌC CẦN TH THƠ ÂN VĂN KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NH NHÂ Ữ VĂN BỘ MÔN NG NGỮ Ô TH ỌC NG NGÔ THỊỊ LAN NG NGỌ MSSV: 6106335 Ế GI ỚI NGH Ệ THU ẬT TH THẾ GIỚ NGHỆ THUẬ Ơ NGUY ỄN BÍNH TRONG TH THƠ NGUYỄ ƯỚ C NĂM 1945 TR TRƯỚ ƯỚC Lu ận văn tốt nghi Luậ nghiệệp đạ đạii học ữ Văn Ng Ngàành Ng Ngữ ng dẫn: Ths. GV. NGUY ỄN TH ỀU OANH Cán bộ hướ ướng NGUYỄ THỊỊ KI KIỀ Cần Thơ, năm 2013 NG TỔNG QU ÁT ĐỀ CƯƠ ƯƠNG QUÁ ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu ẦN NỘI DUNG PH PHẦ CH ƯƠ NG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CHƯƠ ƯƠNG 1.1 Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 1.2 Tình hình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 1.3 Tác giả Nguyễn Bính 1.3.1 Cuộc đời 1.3.2 Sự nghiệp sáng tác 1.4 Vấn đề thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học 1.4.1 Khái niệm thế giới nghệ thuật 1.4.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính ƯƠ NG 2: NH ỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA TH Ế GI ỚI NGH Ệ THU ẬT CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ THẾ GIỚ NGHỆ THUẬ Ơ NGUY ỄN BÍNH TRONG TH THƠ NGUYỄ 2.1 Làng quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính 2.1.1 Khung cảnh nông thôn trong thơ Nguyễn Bính 2.1.2 Con người thôn quê 2.2 Vấn đề tình yêu trong thơ Nguyễn Bính 2.2.1 Khát vọng tình yêu 2.2.2 Tình yêu dang dở ƯƠ NG 3: NGH Ệ THU ẬT KH ẮC HỌA TH Ế GI ỚI NGH Ệ THU ẬT CH CHƯƠ ƯƠNG NGHỆ THUẬ KHẮ THẾ GIỚ NGHỆ THUẬ Ơ NGUY ỄN BÍNH TRONG TH THƠ NGUYỄ 3.1 Sử dụng thể thơ quen thuộc của dân tộc 3.2 Hình ảnh thơ mang đậm chất dân gian 3.3 Giọng điệu tâm tình, sâu lắng 3.4 Ngôn ngữ bình dị, trong sáng ẬN KẾT LU LUẬ MỤC LỤC ỆU THAM KH ẢO TÀI LI LIỆ KHẢ 3 ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU ọn đề tài 1. Lí do ch chọ Phong trào Thơ mới hình thành và phát triển ở giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Các nhà, văn nhà thơ của giai đoạn này đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học Việt Nam. Thơ mới thực sự có sức hút mãnh liệt đối với người đọc bởi Thơ mới ra đời đã đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu thẩm mĩ của người đọc. Đến lúc này, thơ không còn là tiếng nói của cái ta chung chung mà nó đã thực sự là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Lực lượng sáng tác của phong trào Thơ mới rất phong phú và đa dạng với sự xuất hiện của nhiều cây bút tên tuổi. Mỗi nhà thơ đều có phong cách nghệ thuật khác nhau. Xuân Diệu thì có một khát vọng mãnh liệt, rạo rực, khát khao nồng cháy, Hàn Mặc Tử thì quay cuồng, vật vã trong thế giới đau thương, Chế Lan Viên thì trầm mình trong thế giới siêu thực, huyền bí. Trong đó, Nguyễn Bính hiện lên với một phong cách giản đơn, bình dị của một tâm hồn nghệ sĩ đậm chất “chân quê”. ới ngh ơ Nguy ướ Với đề tài “Th Thếế gi giớ nghệệ thu thuậật trong th thơ Nguyễễn Bính tr trướ ướcc năm 1945” chúng tôi mong muốn có thể chỉ ra được nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bên cạnh đó, chúng tôi muốn chứng minh cho người đọc biết vì sao người ta hay gọi Nguyễn Bính với cái tên thân mật là thi sĩ của hồn quê Việt Nam. Bởi thơ ông luôn gợi lên những hình ảnh về làng quê Việt Nam thân thuộc, mộc mạc. Và chính những hình ảnh đó đã gợi cho người đọc một chút bâng khuâng bồi hồi mỗi khi đọc thơ Nguyễn Bính. Một hồn thơ mang đậm dấu ấn về con người Việt Nam, làng cảnh Việt Nam, những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa đến nay. Và đó cũng là lí do vì sao mà mỗi lần đọc thơ Nguyễn Bính người đọc không cảm thấy nhàm chán mà trái lại còn rất thích thú, ngâm nga. Bởi thơ Nguyễn Bính ngoài việc ghi nhận lại những gì tốt đẹp nhất của quê hương Việt Nam, nó còn mang một thông điệp rất có ý nghĩa đó là: Nếu là người Việt Nam thì hãy luôn luôn nhớ về ng của Đỗ Trung Quân: quê hương của mình như lời bài thơ Qu Quêê Hươ ương “Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người” Không những thế, nó còn giúp người đọc nhận thức rằng cần phải cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của cha ông ta đã gầy dựng từ hàng ngàn năm qua. Cả cuộc đời của nhà thơ đã khép lại nhưng vẫn còn đó những vần thơ ngọt ngào ườ tựa như một khúc ca dao. Chính vì vậy, một số bài thơ của ông như Ch Châân qu quêê, Ng Ngườ ườii ng tư, Gái xu hàng xóm, Tươ ương xuâân đã được các nhạc sĩ yêu mến và tạo cho những vần thơ thêm sức sống bằng cách biến chúng thành những lời ca ngọt ngào, du dương. Với những lí do trên, chúng tôi hi vọng rằng đề tài nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ giúp cho người đọc hiểu sâu hơn nữa về những giá trị của thơ Nguyễn Bính và một lần nữa khẳng định tài năng làm thơ của thi sĩ. 2. Lịch sử nghi nghiêên cứu vấn đề Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như những bài phân tích, phê bình của các nhà nghiên cứu về cái hay, cái đẹp có trong thơ của Nguyễn Bính. Họ khai thác rất nhiều khía cạnh của thơ ông. Thông qua những công trình nghiên cứu đó cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Hoài Thanh trong quyển Thi nhân Việt Nam đã viết: “Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ thế này thì có gì?. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lí trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa đất nước” [16; tr.314]. Như vậy, có thể thấy Nguyễn Bính đã giữ được cái “hồn xưa” của dân tộc, cái vốn quý của dân tộc Việt Nam. Hoài Thanh đã thấy được sự xuất hiện đột ngột mang phong cách mới lạ của Nguyễn Bính so với những nhà thơ khác trước đó. Trong quyển Tác phẩm và dư luận do Tôn Thảo Miên biên soạn, Tô Hoài đã viết “Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính. Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi đậm dấu vết đời mình” [13; r.113]. Qua đó, ta có thể thấy sự khác biệt trong phong cách sáng tác của Nguyễn Bính với các nhà thơ khác. Nguyễn Bính không sao chép nguyên mẫu những cảnh vật của đời sống thực nhưng thiên nhiên trong thơ của ông vẫn hiện lên một cách sinh động. Tuy nhiên, bài viết vẫn chưa đề cập đến vấn đề con người thôn 5 quê trong thơ ông. Mảng đề tài này ít nhiều cũng đã mang đến sự thành công cho thơ Nguyễn Bính. Đề tài viết về quê hương đất nước không còn xa lạ gì với các nhà thơ. Mỗi người lại có cách thể hiện tình cảm riêng của mình đối với quê hương. Đặc biệt hồn quê trong thơ Nguyễn Bính được Tô Hoài nhận xét: “Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng thơ đất quê. Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ. Nguyễn Bính đạt tới toàn bích” [13; tr.206]. Ta thấy những bài thơ viết về quê hương đất nước của Nguyễn Bính thật sự đã chạm được đến tâm hồn người đọc. Cái hồn quê trong tim mỗi người được khơi lại trong những vần thơ của Nguyễn Bính. Bên cạnh Tô Hoài thì nhà thơ Vũ Quần Phương cũng có nhận xét về đề tài quê hương trong thơ Nguyễn Bính. Ông viết: “Người ta khó tìm thấy đời sống hiện thực trong thơ Nguyễn Bính dù rằng có thể gặp cảnh hiện thực, tâm lí hiện thực. Anh là một nhà thơ lãng mạn, cái nhìn lãng mạn tài hoa của anh giữ lại vẻ đẹp cố hữu không biết của thời nào nhưng rất là của Việt Nam mình” [13; tr.115]. Cũng tương tự như thế, Lê Đình Kỵ nhận xét “Cái chính không phải ở phong vị nông thôn hay thành thị, không phải thiên về thị hiếu thôn dân hay thành thị dân, mà ở cái hồn dân tộc mà thơ Nguyễn Bính đã cảm nhận sâu sắc và gởi gắm và thơ mình” [11; tr.173]. Nguyễn Bính dường như bị thu hút bởi cuộc sống bình dị của làng quê Việt Nam. Tình yêu quê hương luôn luôn cháy rực trong lòng nhà thơ. Ta có thể thấy rõ ẩn đằng sau những câu chữ giản dị mộc mạc trong thơ là hình ảnh về một Việt Nam thân thuộc gần gũi đối với chúng ta. Ngoài mảng đề tài viết về quê hương và con người Việt Nam thì Nguyễn Bính cũng rất thành công khi viết về đề tài tình yêu đôi lứa. Trúc Đường nhận xét: “Bính như người khát nước mùa hè. Yêu nhiều thất bại không ít, có lúc thất tình nhưng chỉ trong thơ thôi. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính không bình yên, ổn định mà luôn ở trạng thái bất an. Và chính cái bất an đó làm cho câu thơ xao xuyến không ngừng, rất thích hợp với tâm trạng của người đang yêu” [13; tr.129]. Qua đó, ta thấy nội dung mảng thơ tình của Nguyễn Bính là vô cùng phong phú, đa dạng. Nguyễn Bính đã chú ý đến việc miêu tả tâm trạng của những người đang yêu có hạnh phúc nhưng có khi cũng có không ít đau đớn xót xa. Trong bài viết Nguyễn Bính thơ của truyền thống, của thế hệ, Lê Đình Kỵ đã nhận xét: “Thơ Nguyễn Bính không chỉ giống ca dao ở cái vỏ bên ngoài, mà đã tiếp thu được phần hồn của nó, được thể hiện vào những câu ca dao hay nhất mà một tác 6 giả thời nay có thể viết ra được. Phải thật gần gũi, yêu mến con người, sinh hoạt, cảnh vật nông thôn mới có những ghi nhận, những rung động đó” [7; tr.220]. Nhà thơ đã khéo léo sáng tác thơ theo lối văn chương truyền thống của dân tộc, đó là viết theo thể ca dao. Với thể thơ này, Nguyễn Bính đã thật sự trở thành một cây bút tiêu biểu của làng quê Việt Nam. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính mang đậm chất dân gian. Có thể thấy, Nguyễn Bính luôn có ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân gian của dân tộc bằng cách đưa vào trong thơ ông những “mã ngôn ngữ” của đời sống hằng ngày, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động. “Có lẽ Nguyễn Bính là người đem nhiều nhất những mã ngôn ngữ của đời sống dân dã vào thơ Việt Nam hiện đại. Những giậu mồng tơi, giăng sáng, vườn chè, trống chèo, hoa xoan, hao bưởi, hoa cam, cánh buồm nâu, vườn dâu, vườn cam, tất cả đã vào trong thơ Nguyễn Bính một cách trữ tình duyên dáng. Chắc chắn thế kỉ này chưa có nhà thơ nào dám dùng những mã hiện thực như ao bèo, con lợn, giếng thơi… để mà diễn tả nỗi buồn, nỗi mất mát của tình yêu trong tâm hồn con người Việt Nam hiện đại.” [7; tr.193]. Đấy là lời nhận xét của Đoàn Hương khi nói về ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính. Qua đó, ta thấy những vần thơ giản dị của ông cứ tồn tại và sống đời sống riêng của nó, chỗ đứng riêng của nó. Thơ của ông phản ánh được hầu hết những khía cạnh của đời sống. Bài viết này rất có ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Vì nó cho chúng tôi biết được thơ Nguyễn Bính có tầm bao quát những gì gần gũi nhất với con người Việt Nam. Bên cạnh Đoàn Hương thì Hà Minh Đức cũng đưa ra những nhận định của mình khi nói về ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính, ông viết “Nguyễn Bính thích một ngôn ngữ nhiều màu sắc trong thơ. Nếu Hàn Mặc Tử nói nhiều đến hương vị trong đời, trong thơ thì Nguyễn Bính lại chuộng màu sắc. Đã nói mộng là mộng vàng, rượu là rượu hồng, mắt biếc, môi son” [11; tr.110]. Ngôn ngữ đa sắc là đặc điểm riêng biệt mà ta chỉ tìm thấy trong thơ Nguyễn Bính. Ngôn ngữ ấy góp phần khắc họa nên một thế giới nghệ thuật đặc trưng riêng cho nhà thơ Nguyễn Bính. Giọng điệu trong văn chương là một đặc điểm quan trọng giúp ta có thể phân biệt phong cách của mỗi nhà văn nhà thơ. Hà Minh Đức viết: “Trong thơ Nguyễn Bính có một dòng viết về làng quê giàu tính chất dân gian và một dòng trữ tình nhiều tâm trạng trăn trở mà có màu sắc hiện đại” [13; tr.253]. Trong quyển Nguyễn Bính nhà thơ chân quê, tác giả viết: “Trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ người ta thấy 7 xuất hiện cùng một lúc, một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư… quê mùa như Nguyễn Bính” [11; tr.221]. Tương tự như thế, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Giọng điệu quê mùa đã giúp Nguyễn Bính thể hiện chiều sâu của hồn quê … Đi đến tận cùng tình yêu hồn quê, chạm vào kí ức văn hóa dân tộc, Nguyễn Bính đã tạo nên một giọng quê mùa độc đáo” [13; tr.139]. Giọng thơ quê mùa của Nguyễn Bính cũng chính là một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng cho Nguyễn Bính. Điều này giúp chúng tôi có thể hiểu sâu hơn về phong cách thơ của ông, là cơ sở lí luận quan trọng để phân biệt thơ ông với thơ của các nhà thơ khác. Từ đó có cách nhìn khách quan hơn khi phân tích thơ của ông. Chúng tôi có thể dựa vào đó để có thể khai thác triệt để hơn những nghệ thuật sáng tạo trong thơ Nguyễn Bính. Sáng tác thơ theo thể thơ lục bát được rất nhiều nhà thơ của phong trào Thơ mới ưa chuộng. Có thể nói, Nguyễn Bính là cái tên tiêu biểu nhất cho việc sáng tác thơ theo thể lục bát. Trong quyển Nguyễn Bính nhà thơ chân quê (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2000), Đoàn Thị Đặng Hương viết: “Cái giọng thơ riêng của ông rõ ràng không thể trộn lẫn vào các nhà thơ khác: cái chất, cái hồn quê Việt Nam nguyên vẹn đậm đà như trong các bài ca dao dân gian. Và điều này cũng thể hiện rõ khi ông chọn thể thơ cho mình. Có thể nói Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ bậc nhất của thời kì này về thơ lục bát. Những bài thơ lục bát của ông thường có một thi pháp riêng hết sức độc đáo” [11; tr.36]. Thơ lục bát từ xưa đến nay luôn giữ được vị trí độc tôn trong nền văn học dân gian nói riêng và thi đàn văn học Việt Nam nói chung. Nhà thơ Nguyễn Bính luôn có ý thức giữ gìn nét văn hóa truyền thống ấy của dân tộc. Có thể nói, trong phong trào Thơ mới Nguyễn Bính là bậc thầy trong việc sử dụng thể thơ lục bát để sáng tác thơ ca. Nguyễn Quốc Túy đã viết: “Không gian nghệ thuật của Thơ mới dân gian Nguyễn Bính là một thứ không gian cổ tích, của huyền thoại. Thời gian nghệ thuật là một thứ trộn lẫn giữa xưa và nay…Chính cái không gian nghệ thuật cổ tích, huyền thoại và trộn lẫn xưa và nay, thực và hư đã đưa lại cho Thơ mới dân gian Nguyễn Bính một vẻ đẹp tươi riêng vừa duyên, óng ả, lại vừa mượt mà, mộng mơ” [13; tr.290]. Thơ Nguyễn Bính không chỉ hay ở nội dung mà hình thức nghệ thuật cũng làm người đọc phải thán phục hơn về tài năng của ông. Chính không gian, thời gian ấy giúp Thơ mới dân gian Nguyễn Bính có được vị trí nhất định trên thi đàn văn học Việt Nam thời 8 kì hiện đại. Đây cũng là cơ sở quan trọng giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn khi thực hiện đề tài này. Thơ Nguyễn Bính thực sự như có “ma lực” làm lay động tâm hồn những ai là “tín đồ” của thơ ông. Viết về cảnh vật, con người Việt Nam hay vấn đề tình yêu đôi lứa, Nguyễn Bính luôn chú ý đến việc làm sao cho thơ ông vừa gợi được hình ảnh quen thuộc của quê hương đất nước vừa giữ được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhờ đó mà những vần thơ của ông đã chạm đến tận đáy lòng, tâm hồn của biết bao độc giả. Như vậy, những công trình nghiên cứu trên phần nào đã khám phá được những nét đặc trưng, tiêu biểu trong thơ Nguyễn Bính trên nhiều phương diện khác nhau. Đó là những gợi ý, những nguồn tư liệu đáng quý, có ích trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi. ch nghi 3. Mục đí đích nghiêên cứu Thế giới nghệ thuật đầy sáng tạo và nhiều màu sắc trong thơ Nguyễn Bính là vấn đề sẽ được chúng tôi tập trung nghiên cứu nhằm mục đích: Thứ nhất, để thấy được tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Bính. Thứ hai, chúng ta sẽ có cái nhìn khái quát về phong cách sáng tác của Nguyễn Bính. Đồng thời, giúp chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt trong phong cách sáng tác của ông với các nhà thơ khác. Thứ ba, việc khám phá đặc điểm thơ Nguyễn Bính giúp chúng ta có cách nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về con người cũng như sự nghiệp văn chương của nhà thơ Nguyễn Bính. Thứ tư, giúp chúng tôi rèn luyện kĩ năng nghiên cứu khoa học. Đây là bước đầu quan trọng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu những vấn đề có quy mô lớn hơn. 4. Ph Phạạm vi nghi nghiêên cứu ới ngh ơ Nguy ướ Khi nghiên cứu đề tài Th Thếế gi giớ nghệệ thu thuậật trong th thơ Nguyễễn Bính tr trướ ướcc năm 1945 1945, chúng tôi có tham khảo tài liệu của các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính. Có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về thơ Nguyễn Bính ở các phương diện nội dung, nghệ thuật hay phong cách sáng tác của ông, nhưng ở đây, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu sâu về thế giới nghệ thuật trong thơ ông để 9 thấy được cái hay cái đẹp của thơ Nguyễn Bính. Bên cạnh đó, chúng tôi có so sánh đối chiếu với thơ của các nhà thơ khác để có cách nhìn khách quan hơn trong nghiên cứu. ươ ng ph áp nghi 5. Ph Phươ ương phá nghiêên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp tiểu sử: Đây là phương pháp cần thiết trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những tác động của những sự kiện trong cuộc đời có ảnh hưởng đến cảm hứng sáng tác của Nguyễn Bính Phương pháp hệ thống: Đây là phương pháp được vận dụng trong quá trình tìm hiểu một cách toàn diện các tác phẩm thơ của Nguyễn Bính, đặc biệt là thế giới nghệ thuật trong thơ ông. Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp này được vận dụng trong quá trình chúng tôi xem xét, so sánh Nguyễn Bính với các nhà thơ khác để thấy được vị trí và sự đóng góp của nhà thơ Nguyễn Bính. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn kết hợp vận dụng những thao tác: phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 10 ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1 CH CHƯƠ ƯƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Bối cảnh lịch sử - xã hội Vi Việệt Nam giai đoạn 1930 – 1945 Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, có sự phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc. Khi đó, thực dân Pháp đã tiến hành xâm lược nước ta, thực hiện lần lượt hai lần công cuộc khai thác thuộc địa (1897 – 1918), từ đó đã chuyển Việt Nam từ nước phong kiến sang nước thuộc địa nửa phong kiến, khiến đời sống nhân dân ta rơi vào tình cảnh khốn cùng. Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914), Việt Nam bị chia cắt thành 3 kì: Bắc kì, Trung kì và Nam kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Trong đó, Bắc kì và Trung kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức, còn Nam kì là thuộc địa hoàn toàn của Pháp do chúng nắm quyền. Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp, thực dân Pháp vẫn giữ lại hệ thống chính quyền phong kiến: dưới làng xã có các xã trưởng, hương trưởng và hội đồng kì hào do bọn tay sai đứng đầu. Mục đích chính của Pháp chính là muốn chia cắt nước ta, chia rẽ sự đoàn kết đấu tranh của nhân dân ta và để dễ dàng thống trị nước Việt Nam. Tiếp sau đó chính quyền thực dân thực hiện ngay công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1914 – 1918), trên lĩnh vực kinh tế, thực dân Pháp tiến hành chính sách “cải lương hương chính” nhằm bành trướng thế lực chính trị và từng bước thâu tóm toàn bộ bộ máy chính quyền của làng xã bằng cách kiểm soát nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã Việt Nam. Như ta đã biết, dù Pháp là nước thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) nhưng vẫn phải hứng chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh gây ra. Với tình hình như thế buộc chính quyền Pháp phải nhanh chóng tìm ra biện pháp cần thiết để hàn gắn vết thương chiến tranh. Việt Nam là mục tiêu mà chúng hướng đến để giúp chúng giải quyết vấn đề trên. Cụ thể trong nông nghiệp, ngoài những cánh đồng trồng lúa đã xuất hiện thêm những đồn điền cao su, chè, cà phê, hạt tiêu… theo chủ trương của Pháp thì các chủ đồn điền phải đẩy mạnh việc khai thác nhiều phương thức canh tác mới, tăng cường bóc lột sức lao động của nông dân, tá điền để nhanh 11 chóng khôi phục lại kinh tế. Còn ở lĩnh vực thương nghiệp, thương nghiệp Việt Nam đã xuất hiện bóng dáng của nhiều khu chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gòn), chợ Đông Ba (Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Cả lĩnh vực ngoại thương thực dân Pháp cũng chen chân vào, chúng dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ hàng hóa của chúng, hạn chế đến mức tối đa hàng hóa của nước ngoài nhập và Đông Dương, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng của Pháp tràn vào thị trường Việt Nam. Trước chiến tranh, hàng hóa Pháp ở đông Dương chỉ chiếm 37% nhưng cuối những năm 1920 con số đã lên tới 63%. Như vậy, dưới tác động mạnh mẽ của hai lần khai thác thuộc địa, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chuyển biến sâu sắc, cơ cấu kinh tế thuộc địa mang màu sắc hiện đại dịch chuyển dần theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đặc biệt, trong giai đoạn 1930 – 1945 thành thị bắt đầu xuất hiện kéo theo sự ra đời của các tầng lớp mới như tầng lớp thanh niên, tri thức tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp thị dân. Căn cứ vào sự biến đổi sâu sắc của lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ ta có thể chia lịch sử giai đoạn 1930 – 1945 thành ba giai đoạn lịch sử nhỏ để có cái nhìn tổng quan hơn, sâu sắc hơn. Giai đoạn 1930 - 1935, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 - 2 - 1930) mang đến niềm vui lớn cho cách mạng Việt Nam, lúc này ngọn cờ lãnh đạo được trao lại cho giai cấp công nhân, chấm dứt sự khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của các giai cấp trong xã hội. Ngay sau đó, cao trào Cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và phát huy sức mạnh to lớn của khối liên minh công – nông. Hàng loạt những cuộc đấu tranh, biểu tình diễn ra rầm rộ khắp cả nước. Nổi bật nhất là cuộc biểu tình của 20000 nông dân huyện Thanh Chương đòi giảm thuế, thả tù chính trị, đoàn người biểu tình tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân làm cho cả bọn hào lí, địa chủ phải bỏ chạy. Thắng lợi trên đã góp phần khích lệ tinh thần cho các cuộc đấu tranh ở những nơi khác trong cả nước. Tuy cao trào Cách mạng 1930 – 1931 chỉ tồn tại được một khoảng thời gian ngắn nhưng lại có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đó là phong tào cách mạng triệt để do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, là phong trào cách mạng triệt để diễn ra trên qui mô rộng lớn, và đặc biệt là nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia với nhiều 12 hình thức đấu tranh phong phú và quyết liệt. Tuy thất bại nhưng cũng đã khẳng định được đường lối đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết khối liên minh công – nông. Tiếp đó cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933) của thế giới cũng ảnh hưởng đến Việt Nam, nhất là ở lĩnh vực kinh tế. Trong nông nghiệp, lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá làm cho lúa gạo Việt Nam không xuất khẩu được, nhân dân buộc phải bỏ hoang ruộng đất. Trong sản xuất công nghiệp, sản xuất công nghiệp của Việt Nam bị đình trệ do thiếu vốn đầu tư bởi thực dân Pháp đã rút vốn đầu tư ở Đông Dương và dùng ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho thực dân Pháp. Vì vậy, công nhân thất nghiệp ngày càng nhiều, số người có việc làm thì tiền lương bị giảm đi từ 30 – 50%, thêm vào đó thực dân Pháp còn tăng sưu thuế lên gấp 2, 3 lần, chính cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm cho cuộc sống của các tầng lớp trong xã hội Việt Nam lâm vào cảnh khốn khổ đến tột cùng. Giai đoạn 1936 - 1939, đánh dấu bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam bằng việc Đảng cộng sản Việt Nam được hoạt động công khai tạo điều kiện cho cả sách báo của Đảng được tự do công khai phát hành rộng rãi: Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Tin tức… nhằm tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.. Cụ thể từ tháng 6 - 1936 đến 9 - 1939 đã có tới 43 tờ báo của Đảng được phát hành. Lúc này, trên thế giới chủ nghĩa phát xít bắt đầu manh nha xuất hiện và tạm thời thắng thế ở một số nước như Tây Ban Nha, Đức, Italia, Nhật Bản, điều này cho thấy có nguy cơ xảy ra chiến tranh trên toàn thế giới. Vì vậy, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (tháng 7 - 1935) xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít và nguy cơ chiến tranh lan rộng, bảo vệ hòa bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Ở nước ta, dư âm của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) vẫn còn tồn tại, trong khi đó thực dân Pháp lại tiến hành chiến dịch khủng bố để đàn áp phong trào Cách mạng 1930 – 1931 của quân và dân Việt Nam. Với tình hình đó, Hội nghị ban thường vụ trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) và tháng 7 – 1936 đã đề ra nhiệm vụ là đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, hòa bình cho dân tộc. Hội nghị cũng thông qua việc thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương nhưng sau đó đã đổi tên thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương vào tháng 3 - 1938. Cao trào mặt trận Dân chủ Đông Dương diễn ra khá sôi nổi, rầm rộ và rộng khắp từ thành thị đến nông thôn với khẩu hiệu “tự do, cơm áo, hòa bình”. 13 Ngay cả trên lĩnh vực văn hóa thực dân Pháp cũng quyết tâm can thiệp, chúng thực hiện chính sách ngu dân ở nước ta. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Thậm chí chúng bắt học sinh từ 18 tuổi trở lên đang học ở các trường tư thục phải đóng thuế thân nhằm mục đích để học sinh nghèo không thể đến trường được. Kết quả là hơn 90% người dân bị mù chữ. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn đưa ra những chủ trương, chính sách có tính chất cải lương tư sản vào các phong trào văn hóa, tổ chức nhiều hoạt động tôn giáo, cuộc thi sắc đẹp, gây chợ phiên, mở tiệm nhảy, nhà săm, tiệm hút. Chúng không mong muốn gì hơn là đẩy thanh niên Việt Nam vào con đường trụy lạc, ăn chơi, sa đọa, không còn tinh thần để chiến đấu. Năm 1931, thực dân Pháp đã xây dựng hơn 1000 nhà săm và nhà thổ. Và qua ụy lạc của Nguyễn Đình Lạp, cho ta biết chỉ tính riêng ở Hà phóng sự Thanh ni niêên tr trụ Nội đã có đến 6000 gái đĩ, 100 nhà săm, 300 tiệm hút, 7 sòng bạc lớn…đó là những con số “biết nói” cho thấy thực dân Pháp rắp tâm xâm lược, đàn áp nhân dân Việt Nam. Giai đoạn 1940 – 1945, sự kiện Mặt trận Việt Minh ra đời (5 - 1941) là tín hiệu đáng mừng cho cách mạng Việt Nam nói chung và cho cuộc cách mạng tháng Tám nói riêng. Việt Minh ra đời đã xây dựng được lực lượng vũ trang khá hùng hậu tạo nên sức mạnh tổng hợp và sẵn sàng chiến đấu đuổi thù chung khi thời cơ đến. Ngoài ra, Mặt trận Việt Minh còn có vai trò to lớn trong việc triệu tập và tiến hành thành công Quốc dân đại hội, huy động toàn dân tham gia Tổng khởi nghĩa. Có thể nói không có mặt trận Việt Minh thì sẽ không có cách mạng tháng Tám. Đúng lúc này, trên thế giới lại nổ ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945). Đối với Việt Nam, đặc biệt trong và sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đã diễn ra rất nhiều cao trào nổi dậy giành độc lập nhưng tất cả đều bị thất bại. Vẫn chưa kịp xây dựng lại lực lượng từ sau những thất bại trên thì một lần nữa cách mạng Việt Nam lại phải đối mặt với những khó khăn khác đó là việc phát xít Nhật xâm lược nước ta ngày 22 - 9 - 1940, chúng xâm lược nước ta nhằm mục đích xây dựng căn cứ quân sự để đánh quân Đồng minh ở Đông Nam Á. Tại thời điểm đó, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo và lạc hậu so với nhiều quốc gia khác trong khu vực nhưng lại phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai dẫn đến tình trạng Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế thời chiến. Nhật Bản bắt đầu bành trướng thế lực ở Đông Nam Á. Hơn nữa, ngày 9 - 3 - 1945 Nhật vào Đông Dương hất cẳng Pháp ra khỏi Việt 14 Nam. Thực sự chính lúc này đời sống nhân dân ta vô cùng khốn khổ và hậu quả là nạn đói lớn diễn ra rộng khắp cả nước và có đến 2 triệu người dân chết vì đói. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương. Ban Thường vụ mở rộng của Trung ương Đảng đã triệu tập khẩn cấp họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) dưới sự chủ tọa của Tổng bí thư Trường Chinh, hội nghị ra quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị sẵn sàng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ cụ thể, các hình thức đấu tranh làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công. 1.2 Tình hình văn học Vi Việệt Nam giai đoạn 1930 - 1945 Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 là một bước ngoặt đánh dấu sự chuyển hướng mạnh mẽ từ thi pháp trung đại sang thi pháp hiện đại trong sáng tác văn chương. Trên con đường hiện đại hóa, chỉ trong vòng mười lăm năm ngắn ngủi, văn chương hiện đại Việt Nam đã tạo nên một sự phát triển nhanh chóng, nhảy vọt. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, ngoài tầng lớp nhà nho còn có nhiều giai cấp, tầng lớp mới được hình thành từ sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai của thực dân Pháp như: giai cấp tư sản, giai cấp vô sản, tầng lớp tiểu tư sản trí thức. Do xã hội xuất hiện thêm nhiều tầng lớp khác nhau nên đòi hỏi phải có những tác phẩm thi ca phù hợp với nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của họ. Do đó, đổi mới thơ ca là một nhu cầu cấp bách lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của Thơ mới thực sự là một cuộc cách mạng về thơ. Bởi sau hàng ngàn năm chỉ biết đến thơ ca trung đại thì bây giờ văn học Việt Nam lại có thêm một món ăn tinh thần nữa mang tên Thơ mới, đáp ứng thị hiếu thẩm mĩ của hầu hết các giai cấp, tầng lớp xã hội thời bấy giờ. Thơ mới là tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản, tiếng lòng của thế hệ thanh niên trí thức. Lúc này, thơ không còn là tiếng nói của cái ta chung chung. Tiếng nói ấy đã vượt khỏi rào cản của những quy tắc, quy phạm trong thơ ca trung đại. Dựa trên cơ sở ý thức hệ và hình thức lưu hành, văn chương được phân hóa thành 2 bộ phận: văn chương hợp pháp và văn chương bất hợp pháp. Hai bộ phận ấy lại phân hóa thành 3 lưu phái. Bao gồm lưu phái văn chương lãng mạn, lưu phái văn chương hiện thực phê phán, lưu phái văn chương cách mạng vô sản Có thể chia tiến trình văn học giai đoạn (1930 - 1945) thành 3 giai đoạn: 15 Giai đoạn 1930 - 1935, đây là giai đoạn đỉnh cao của lưu phái văn chương lãng mạn. Lưu phái văn chương lãng mạn ra đời và phát triển sôi nổi, chiếm được ưu thế trên văn đàn với hai sự kiện nổi bật. Thứ nhất, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ra đời, nhanh chóng gây được tiếng vang lớn trong đời sống tinh thần của tầng lớp thanh niên tư sản, tiểu tư sản đang hoang mang cực độ trong thời kì thoái trào cách mạng. Nội dung tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đề cập đến vấn đề giương cao ngọn cờ chống lễ giáo phong kiến, hủ tục lạc hậu và trên hết là đề cao chủ nghĩa cá nhân. Những tác phẩm m tr tiêu biểu cho giai đoạn này đó là Đoạn tuy tuyệệt (Nhất Linh), Bướ ướm trắắng (Nhất Linh), ừng xu m mơ ti Nửa ch chừ xuâân (Khái Hưng), Hồn bướ ướm tiêên (Khái Hưng). Thứ hai, phong trào Thơ mới xuất hiện với niềm kháo khát mãnh liệt muốn nhanh chóng thoát khỏi những nguyên tắc, luật lệ của thơ cũ, giải phóng cái “tôi” bản thể của con người cá nhân. Đi đầu cho phong trào này có thể kể đến tiếng thơ của Thế Lữ với tác phẩm Mấy vần ơ, Lưu Trọng Lư với Nắng mới. ng ngâây th thơ Lưu phái văn chương hiện thực phê phán ở giai đoạn này mới được hình thành, vẫn chưa có điều kiện phát triển. Một phần cũng là do các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản vẫn còn bị thu hút mạnh bởi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và Thơ mới. Các nhà văn hiện thực phê phán thời kì này chỉ sáng tác trong giới hạn phạm vi đề tài về cuộc sống cơ cực, nghèo khổ của nông dân, đề tài về dân thành thị bị phá sản, bần cùng hóa… Những vấn đề xã hội quan trọng như chính trị, kinh tế, văn hóa vẫn chưa được đề cập đến. Tính chất phê phán còn yếu. Có thể kể đến Nguyễn Công Hoan với tập truyện ngắn trào phúng Kép Tư Bền, Vũ Trọng Phụng với vở kịch Kh Khôông một ti tiếếng vang, ườ phóng sự Cạm bẫy ng ngườ ườii và Kỹ ngh nghệệ lấy Tây, Tam Lang với tập phóng sự Tôi kéo xe m tr ướ và tập truyện ngắn Một đê đêm trướ ướcc. Lưu phái văn chương cách mạng vô sản mới được hình thành, mở đầu cho văn học của lưu phái này là những sáng tác thơ văn của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh phần lớn là những bài thơ ca có tính chất chính luận nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu cho các chiến sĩ cách mạng, vạch trần bản chất xấu xa của bọn đế quốc phong kiến, phản ánh đời sống khổ cực của nhân dân ta. Vì hoàn cảnh sáng tác hết sức khó khăn, chiến sĩ đóng vai trò vừa là chiến sĩ vừa là nhà văn mà không phải là nhà văn chuyên nghiệp nên thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh khó tránh khỏi có sự non yếu về hình thức nghệ thuật. Điều quan trọng hơn cả những tác phẩm thơ văn ấy chính là tiếng nói của chính người chiến sĩ cách mạng anh dũng, kiên cường, 16 mang tinh thần quyết tâm chiến đấu đuổi thù chung. Cho đến khi Cao trào Cách mạng 1930 – 1931 bị thất bại, hàng loạt chiến sĩ bị giết chết hoặc bị đày ải trong các nhà tù. Vì thế thơ ca cách mạng trong tù có điều kiện phát triển mạnh, nói lên tiếng nói trung quân ái quốc, tinh thần lạc quan chiến thắng. Giai đoạn 1936 - 1939, đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của lưu phái văn chương hiện thực phê phán. Ở giai đoạn ngắn này, lưu phái văn chương lãng mạn không còn chiếm ưu thế trên văn đàn văn học nhưng vẫn phát triển mạnh. Điều đó được thể hiện ở hai nét chính, thứ nhất, nội dung tiểu thuyết, truyện ngắn của nhóm Tự lực văn đoàn tiếp tục lên án chống lễ giáo phong kiến, hủ tục lạc hậu, mặt khác chủ đề cải cách xã hội có phần ảo tưởng cũng được Tự lực văn đoàn khai thác và đưa vào văn chương. Cụ thể, họ đưa ra một số tiểu thuyết luận đề nhằm vạch ra một lối đi mới cho người trí thức giàu có đó là quay trở về mảnh đất quê, thành lập đồn điền theo lối “văn minh” để có thể hưởng được thú vui cuộc sống thanh bình, mặt khác thực thi những chính sách giảm thuế, mở chợ, trường học cho nông nhân nghèo. Những tác ng sáng của Hoàng Đạo, tiểu thuyết Gia đì nh phẩm tiêu biểu như tiểu thuyết Con đườ đường đình của Khái Hưng, tiểu thuyết Lầm than của Lan Khai, tiểu thuyết Con tr trââu, Sau lũy tre của Trần Tiêu. Nét chính thứ hai, phong trào Thơ mới phát triển đến đỉnh cao rồi rơi vào bế tắc. Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất cho Thơ mới giai đoạn này. Tình yêu trong thơ ông đã chạm đến tận đáy sâu trong tâm hồn của cái “tôi” tiểu tư sản, tuy yêu đời, sôi nổi nhưng lại cô độc, bế tắc. Đối với phong trào Thơ mới, Xuân Diệu như cái bản lề đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ nhất nhưng đồng thời ông cũng là người mở đầu cho thời kì khủng hoảng của Thơ mới. Ngoài Xuân Diệu thì còn có cái buồn thê lương của Huy Cận, thơ “điên” mạng đậm chất tượng trưng, siêu thực của Hàn Mặc Tử. Ở giai đoạn này, lưu phái văn chương hiện thực phê phán phát triển đến đỉnh cao vì không khí chính trị xã hội đã thoáng hơn, chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp không còn gắt gao như trước, đồng thời còn có tiếng nói của Đảng. Nội dung văn học giai đoạn này là vạch trần mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những cái xấu xa, bề đen của xã hội được vạch trần một cách chân thật. Đồng thời thể hiện khá thành công các nhân vật thuộc tầng lớp nhân dân lao động. Nhiều tác phẩm đã đưa hình tượng người nông dân với tư cách là nhân vật chính vào trong tác phẩm: tiểu 17 n (Ngô Tất Tố), tiểu thuyết Bỉ vỏ (Nguyên Hồng), tiểu thuyết Lầm than thuyết Tắt đè đèn (Lan Khai)…Họ là những con người có phẩm chất cao quý, là người mẹ, người vợ n của Ngô Tất Tố, dũng cảm, kiên cường, tiêu biểu như nhân vật chị Dậu trong Tắt đè đèn ườ n bà Tàu của Nguyên Hồng. Đó là nhân vật người mẹ Trung Quốc trong Ng Ngườ ườii đà đàn những nét mới cho văn học thời kì này. Bên cạnh đó có thể kể đến những tác phẩm khác như tiểu thuyết Gi Giôông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, phóng sự Cơm th thầầy cơm ững ng ơ ấu của Nguyên Hồng, cô và Lục xì của Ngô Tất Tố, thiên tự truyện Nh Nhữ ngàày th thơ kịch bản Kim ti tiềền và Ông kí cóp của Vi Huyền Đắc. Còn lưu phái văn chương cách mạng vô sản thì phát triển hơn so với thời kì đầu. Hàng loạt nhà thơ cách mạng trẻ tuổi, xuất thân từ tầng lớp thanh niên trí thức tiến bộ thể hiện sự giác ngộ lí tưởng cách mạng. Phong trào “thơ bình dân” phát triển mạnh mẽ trên các báo chí cách mạng. Tố Hữu xuất hiện đánh dấu bước tiến mới cho thơ ca cách mạng nói riêng và thơ ca dân tộc nói chung. Có thể nói ở giai đoạn này cả thơ, văn tự sự, và văn chính luận đều đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Tác phẩm tiêu biểu ục KomTum của Lê Văn Hiến, văn lí luận phê phán của Hải Triều. như phóng sự Ng Ngụ Giai đoạn 1940 - 1945, đây là giai đoạn rơi vào khủng hoảng đến đỉnh điểm đối với lưu phái văn chương lãng mạn. Đây là thời kì xuống dốc của Tự lực văn đoàn với m tr một số tác phẩm như Bướ ướm trắắng (Nhất Linh), Thanh Đứ Đứcc (Khái Hưng), sau đó, Nhất Linh chuyển sang hoạt động chính trị cho Nhật, ngay cả Khái Hưng và Nguyễn Tường Long, Nguyễn Tường Bách cũng viết báo để tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn của Trần Trọng Kim mà đứng đằng sau là quân Nhật và còn cho đăng báo truyện dài Xi Xiềềng xích để ca ngợi bọn phản cách mạng. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Khái Hưng chuyển sang hoạt động trong tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, sáng tác hàng loạt truyện và kịch ngắn, tiểu luận với nội dung xuyên tạc những người làm cộng sản, chống lại cách mạng trên tuần báo Chính nghĩa, báo hằng ngày Việt Nam. Lúc này Thơ mới thật sự rơi vào tình trạng hỗn loạn. Thơ điên, thơ say, thơ loạn ngày càng phát triển mạnh, trong bối cảnh đó mỗi nhà thơ lại tìm cho mình một con đường thoát li cuộc sống. Tiêu biểu như con đường thoát li trốn vào trụy lạc, thế giới siêu hình của Vũ Hoàng Chương, khuynh hướng đi vào siêu thoát thần bí của Chế Lan Viên, cái điên loạn của Hàn Mặc Tử… 18 Đối với lưu phái văn chương hiện thực phê phán: không còn phát triển như giai đoạn 1936 - 1939. Nguyên nhân là do một số nhà văn tên tuổi thuộc thế hệ nhà văn hiện thực giai đoạn trước đó, người thì qua đời (Vũ Trọng Phụng), người thì bế tắc m của không sáng tác nữa (Ngô Tất Tố), người thì tha hóa (tiểu thuyết Thanh Đạ Đạm Nguyễn Công Hoan). Nhưng bù lại cho những mất mác đó chính là sự ra đời của thế hệ nhà văn hiện thực mới như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển… do bút lực còn non trẻ nên những sáng tác của họ chỉ thu hẹp trong đề tài lấy từ đời sống tiểu tư sản quẩn quanh bế tắc, những phong tục nông thôn, cuộc sống dân nghèo…Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Ch Chíí Ph Phèèo (Nam Cao), tiểu ườ thuyết Sống mòn (Nam Cao), Dế Mèn phi phiêêu lưu kí, Qu Quêê ng ngườ ườii (Tô Hoài), Nh Nhạạt tình, ờ (Mạnh Phú Tư), Ngo Sống nh nhờ Ngoạại ô, Ng Ngõõ hẻm (Nguyễn Đình Lạp), tập truyện ngắn Nằm vạ (Bùi Hiển) đó là những tín hiệu đáng mừng cho lưu phái văn chương hiện thực phê phán. Ở giai đoạn này, lưu phái văn chương cách mạng vô sản mặc dù rút vào hoạt động bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh. Thơ ca trong tù hòa với thơ ca mặt trận văn minh trên tinh thần cứu nước, tinh thần lạc quan, hi vọng một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc ta. Lúc này, bên cạnh sự phát triển nhanh chóng của thơ cách mạng Tố Hữu thì bên kia biên giới tập thơ Nh Nhậật kí trong tù của chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đời, đóng góp to lớn cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Ngoài ra còn có những tác phẩm của các tác giả khác như Sóng Hồng, Hồng Quang, Trần Minh Đức, Hồng Chương, văn chính luận của Trường Chinh. Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển là một sự kiện nổi bật của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trên con đường hiện đại hóa. Chỉ trong vòng mười lăm năm ngắn ngủi phong trào Thơ Mới đã tạo nên một đội ngũ sáng tác khá hùng hậu, mỗi nhà thơ với phong cách nghệ thuật riêng mang đến cho thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ khi ra đời cho đến nay, phong trào Thơ mới đã trải qua những bước thăng trầm do sự thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của những tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tuy trải qua nhiều khó khăn nhưng sự kiện phong trào Thơ mới ra đời tạo cho thơ Việt Nam một diện mạo mới, bước ngoặt quan trọng mở ra kỉ nguyên mới và nâng tầm thơ ca Việt Nam lên ngang tầm với nền thi ca hiện đại thế giới. 19 ả Nguy 1.3 Tác gi giả Nguyễễn Bính ộc đờ 1.3.1 Cu Cuộ đờii Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Nội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong một gia đình nhà nho nghèo. Nguyễn Bính biết chữ Nho vì ông được cha dạy từ nhỏ. Ông trở về quê ngoại ở thôn Vân sinh sống do cuộc sống gia đình ông khó khăn. Vì từ nhỏ được tiếp xúc với văn chương nên chỉ mới mười ba tuổi Nguyễn Bính đã sáng tác được thơ. Hơn nữa, chính những lời hát ru của mẹ mà chất dân dã đã thấm sâu vào hồn thơ Nguyễn Bính. Giai đoạn năm 1937 - 1942 là giai đoạn đánh dấu bước ngoặt lớn lao nhất trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám. Chỉ trong khoảng thời gian ấy Nguyễn Bính đã đi nhiều nơi, ở mỗi nơi để lại trong ông những cảm xúc khác nhau. Đây là thời gian ông sáng tác nhiều nhất những bài thơ hay, bộc lộ rõ nhất cảm hứng sáng tác của ông về cảnh vật và con người Việt Nam. Năm 1937, bài thơ Cô hái mơ xuất hiện trên thi đàn và được dư luận chú ý. Thời điểm này, bút danh Nguyễn Bính đã có tên trong danh sách nhà thơ Việt Nam. Những tác phẩm của ông góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ ca của phong trào Thơ mới nói riêng và nền thơ ca của dân tộc nói chung. Sau cách mạng tháng Tám, cảm hứng sáng tác của Nguyễn Bính có phần thay đổi. Những sáng tác của Nguyễn Bính luôn là nguồn động viên tinh thần quý báu cho đông bào, các chiến sĩ cách mạng. Thơ ông phản ánh được những vấn đề thời sự, tình hình chính trị của cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Nguyễn Bính hoạt động ở Nam Bộ suốt khoảng thời gian kháng chiến chống Pháp. Ông hoạt động rất tích cực, tham gia mọi công tác cách mạng. Bằng tấm lòng của một người con yêu quê hương tha thiết, Nguyễn Bính sáng tác thơ không chỉ để ca ngợi quê hương đất nước Việt Nam mà ông còn sáng tác thơ để phục vụ cách mạng, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân đội, nhân dân. Năm 1946 - 1947, ông được giao phụ trách Hội văn nghệ cứu quốc tỉnh Rạch Giá. ơ yêu nướ Với Tập th thơ ướcc gồm khoảng 10 bài thơ, là những bài thơ kêu gọi tinh thần chiến đấu vì tổ quốc của Nguyễn Bính. Tập thơ ra đời đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông với vai trò là một nhà văn - chiến sĩ. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng