Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Thcaohoc

.DOC
26
317
69

Mô tả:

Câu 1: 1. Phân tích những nội dung chủ yếu của thế giới quan duy vật biện chứng? 2. Anh chị hãy làm rõ ý nghĩa phương pháp luận trong quá trình vận dụng lý luận thế giới quan duy vật biện chứng vào trong hoạt động thực tiễn? Liên hệ với lĩnh vực công tác và học tập của bản thân? Đáp án: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy. - Nội dung của thế giới quan phản ánh 3 phần: + Một là, con người với tư cách là chủ thể + Hai là, thế giới với tư cách là khách thể + Ba là, quan hệ giữa con người và thế giới - Kết cấu của thế giới quan gồm: + Tri thức + Niềm tin + Lý tưởng Ba yếu tố này hòa nhập vào nhau, trong đó tri thức là cơ sở để hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người. Lý tưởng là sự phát triển cao nhất của thế giới quan. Các hình thức cơ bản của thế giới quan (3 hình thức) - Thế giới quan huyền thoại (thần thoại): Có từ xã hội công xã nguyên thủy, là một hình thức thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực & ảo. Là hình thức thế giới quan dựa vào những ông thần, ông tiên do con người tưởng tượng ra từ khát vọng của mình. Nhưng nó còn rất hư ảo, phi hiện thực. Do đó, huyền thoại không thể trở thành thế giới quan khoa học vì nó thiếu “yếu tố tri thức”. Ví dụ: Thần thoại Hy Lạp,... - Thế giới quan tôn giáo: Là thế giới quan ra đời từ xã hội công xã nguyên thủy, ra đời sớm hơn triết học. Sở dĩ xuất hiện tôn giáo là do con người bất lực trước các hiện tượng tự nhiên, sợ hãi nên họ phải dựa vào một niềm tin nào đó và tôn giáo ra đời. Họ lấy một vật hoặc con vật gì đó để thờ. Ngoài ra, con người bất lực trước vua chúa đầy quyền lực, đồng thời tôn sùng họ lên cũng xuất hiện tôn giáo. Tóm lại, tôn giáo là niềm an ủi về tinh thần cho con người. Mác nói: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Thế giới quan tôn giáo có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh siêu nhiên của tự nhiên đối với thế giới, đối với con người được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. Ví dụ: Thần thánh, ma quỷ, phép màu,... - Thế giới quan triết học: Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, của xã hội & của tư duy con người. Thế giới quan triết học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật nó nêu ra & chứng minh những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người bằng lý luận. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, thế giới quan là chức năng quan trọng đầu tiên và riêng có của triết học. Triết học là thế giới quan nhưng thế giới quan thì không quy nhập về triết học vì trong thế giới quan gồm có thế giới quan khoa học và thế giới quan không khoa học, thế giới quan tôn giáo. Thế giới quan triết học được chứng minh bằng khoa học, bằng lý luận. Thế giới quan có tác dụng định hướng cho toàn bộ cho hoạt động của con người của về mặt nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nhằm mục đích giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Thế giới quan triết học ra đời vào xã hội chiếm hữu nô lệ. Khái quát lịch sử phát triển của TGQ duy vật Cùng với sự hình thành và phát triển của triết học, TGQDV đã trải qua những giai đoạn phát triển của XH loài người. Sự phát triển đó có thể chia ra thành 3 giai đoạn sau: - Thế giới quan duy vật Cổ đại: chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính vật ngây thơ, chất phác vì chủ yếu dựa vào các quan sát trực tiếp, chưa có cơ sở khoa học .... - Thế giới quan duy vật cận đại (thế giới quan thế kỷ 17 - 18, thế giới quan máy móc siêu hình): Nhìn sự vật động trong sự cô lập, tĩnh tại không vận động không phát triển. Thế giới quan này dựa vào tư duy siêu hình là chủ yếu. Một số đại diện như: Bêcơn, Đềcác, Hôn bách,... - Thế giới quan duy vật biện chứng: Do Mác và Ăng ghen sáng lập, Lênin phát triển. TGQDVBC là đỉnh cao trong lịch sử phát triển TGQDV trong triết học. Sự hình thành TGQDVBC được trang bị bởi những tiền đề (chính là những tiền đề hình thành Triết học Mác) ..... Nội dung khoa học của TGQDVBC 1 a) Quan điểm duy vật về thế giới - Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan. Tính thống nhất của thế giới vật chất được thể hiện như sau: + Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất nó tồn tại khách quan vô hại, vô tận không sinh ra, không mất đi. Tất cả các svht trên TG đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. + Thứ hai, các bộ phận khác nhau của thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển, chúng vận động chuyển hóa luẫn nhau theo quy luật khách quan. + Thứ ba, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người, ý thức là một đặc tính của bộ óc con người, ý thức là sự phản ánh sự vật, hiện tượng nhưng đó là sự phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo. Theo Lenin: “ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Phản ánh có tính sáng tạo lại hiện thực. - Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: + Vật chất có trước và quyết định ý thức + Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự tác động trở lại vật chất vì ý thức phản ánh bản chất, tính quy luật của sự vật hiện tượng; ý thức phản ánh bằng cách kết hợp với những cái đã có để sáng tạo ra cái mới, ý thức đề ra các biện pháp, chủ trương để cải tạo hiện thực hiệu quả. + Ý thức tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. b) Quan điểm duy vật về xã hội - Chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội cho rằng: xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Xã hội là do con người làm ra, do đó xã hội là sản phẩm của tự nhiên, nhưng xã hội là sự thống nhất của những con người & được phát triển theo những quy luật khách quan của nó. Con người sáng tạo ra xã hội & lịch sử nhưng bản thân con người phải tuân theo quy luật khách quan của lịch sử. Do đó, con người vừa là sản phẩm của xã hội và vừa là chủ thể của xã hội. Như thế, con người là động vật có ý thức (khác với con vật hoạt động theo bản năng). - Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại & phát triển của xã hội. - Phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định các quá trình sinh hoạt chính trị, xã hội & tinh thần. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội (trước Mác, người ta thường lấy ý thức xã hội để giải thích tồn tại xã hội - nghĩa là họ đứng trên lập trường duy tâm để tiếp cận với đời sống xã hội/ Triết học Mác đã lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội, những tư tưởng xã hội không thể giải thích một cách khác đi nếu không xuất phát từ trong đời sống vật chất trong xã hội, nghĩa là triết học Mác đứng trên lập trường duy vật triệt để để giải thích tồn tại xã hội). - Triết học Mác đã coi sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, nó phát triển từ thấp đến cao cụ thể là từ xã hội cộng sản nguyên thủy -> chiếm hữu nô lệ -> phong kiến -> tư bản chủ nghĩa -> cộng sản chủ nghĩa. Quá trình này bị chi phối bởi những quy luật khách quan của xã hội như: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng... - Về vai trò của quần chúng nhân dân lao động: Nếu như trước Mác, người ta không thấy được vai trò của quần chúng nhân dân làm nên lịch sử. Triết học Mác, đã khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử & là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người quyết định sự phát triển của lịch sử, đặc biệt trong XH cận & hiện đại thì Mác còn vạch ra vai trò, xứ mệnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ & xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Phải bảo đảm tính khách quan trong nhận thức và thực tiễn Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan, phản ánh một cách trung thành đặc biệt là không để các yếu tố chủ quan chi phối nhận thức: + Lợi ích: Trong yếu tố nhận thức không thể không có yếu tố lợi ích, lợi ích tác động đến nhận thức nhưng không để lợi ích chi phối nhận thức. + Trong thực tiễn, ta phải tôn trọng hành động theo các quy luật khách quan. Nếu hành động không theo quy luật khách quan thì quy luật khách quan sẽ tác động đến con người. Nếu hoạt động theo quy luật khách quan thì quy luật khách quan sẽ trở thành nô lệ, thành cô hầu ngoan ngoãn. 2. Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức - Phát huy vai trò hoạt động tích cực của con người, quan điểm này được rút ra từ nguyên lý về tính độc lập tương đối của ý thức. Tức là chúng ta không được thụ động, không được ngồi chờ, phải phát huy nội 2 lực vì về mặt thực tiễn chính con người làm ra lịch sử, hoạt động của con người làm cho lịch sử biến đổi, trong việc phát huy tính sáng tạo chủ quan cần phải quan tâm đến lợi ích của người lao động. Để phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức con người cần nâng cao tri thức khoa học vốn hiểu biết cho Đảng viên, cho nhân dân. - Tăng cường công tác giáo dục, trình độ tư duy, phương pháp nhận thức khoa học. - Bồi dưỡng lòng nhiệt tình, ý trí, niềm tin cho con người. 3. Khắc phục bệnh chủ quan duy ý trí Bệnh này là do quá đề cao ý trí, niềm tin, tình cảm mà không dựa trên tri thức. Nguyên nhân của bệnh này là: + Sự yếu kém về mặt nhận thức khoa học & phương pháp lý luận, lấy nhiệt tình thay cho sự hiểu biết. + Do ảnh hưởng của tâm lý của nền văn hóa dân tộc, tư duy phương đông của nền sản xuất nhỏ. + Hậu quả của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp 3 Câu 2: 1. Phân tích nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật? Tại sao nói phép biện chứng duy vật là cơ sở khoa học của nhận thức và thực tiễn? 2. Nghiên cứu chuyên đề phép biện chứng duy vật có ý nghĩa gì đối với anh (chị) trong quá trình học tập và công tác? Đáp án: Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời. Phép biện chứng có ba hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học, đó là phép biện chứng chất phát, phép biện chững duy tâm và phép biện chứng duy vật. Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển, nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, chính vì vậy phép biện chứng này thiếu những căn cứ khoa học, vì vậy nó bị phép siêu hình thay thế. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học của Hêghen. Với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ bản, Hêghen là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm. Thực chất phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen là biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Kế thừa có chon lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó, dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được V.I.Lênin phát triển. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó, nó khắc phục được những hạn chế trước đây của phép biện chứng chất phát và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở thành khoa học. Phép biện chứng mácxít là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng thế giới khách quan mà con chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Phép biện chứng duy vật gồm hai nguyên lý cơ bản, những phạm trù và những quy luật cơ bản, vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa là logíc học của chủ nghĩa Mác. phép biện chứng duy vật trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Trong khi vạch ra những tính chất biện chứng chung nhất của thế giới, thông qua những phạm trù, quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của cả tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật rút ra những quan điểm, nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp cho mọi hoạt động của con người. Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật, chúng ta sẽ cáng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của biện chứng duy vật. 1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Ăngnhen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biếncủa sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Thế giới vật chất tồn tại khách quan và luôn vận động; vậy nó tồn tại như thế nào? tồn tại trong sự cô lập, tách rời hay sự liên hệ ràng buộc, tác động, ảnh hường qua lại lẩn nhau? Xoay quanh vấn đề này, trong lịch sử triết học đã có quan điểm khác nhau, thậm trí đối lập nhau. * Quan điểm siêu hình: coi các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Nếu có chỉ là sự liên hệ hời hợt, bên ngoài có tình ngẩu nhiên chứ không có mối liên hệ ràng buộc. * Phép biện chứng duy vật: Kế thừa các giá trị tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của nhân loại, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ 19, đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật. 4 Phép biện chứng duy vật khẳng định: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với sự vật, hiện tượng khác. “Mối liên hệ” với tư cách là khái niệm cơ bản của phép biện chứng được sử dụng để chỉ các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Trong phép biện chứng khái niệm mối liên hệ không chỉ sử dụng với nghĩa hẹp mà theo một nghĩa rất bao quát, phản ánh tính thống nhất và vận động, biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng: cái này là điều kiện, tiền đề tồn tại của cái kia và ngược lại; đồng thời sự tác động của cái này làm biến đổi cái kia và làm biến đổi ngay chính bản thân nó. Tính chất của mối liên hệ : sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới mang tính khách quan, tính phổ biến, đa dạng và nhiều vẻ và vai trò của các mối liên hệ không ngang bằng nhau: Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí....đôi khi cũng cịu sự tác động của con người). Con người một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Mối liên lệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến thể hiện là: Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế Ph. Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”. Cũng với những lý do trên, triết học gọi mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia chúng thành từng loại tuỳ theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp...Vì thế chúng ta khái quát chúng thành nhiều mối liên hệ: Cái chung và cái riêng, cơ bản và không cơ bản, bên tròng và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu....Sự phân chia từng cặp mói liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liện hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển sự vật. b. Nguyên lý về sự phát triển Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì liên hệ cũng chính là sự vận động, không có sự vận động sẽ không có sự phát triển nào. * Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, xem xét sự vật, hiện tượng trong sự đứng im, bất biến, không vận động, không phát triển ; nếu có chỉ là phát triển đơn thuần về lượng, là sự tuần hoàn lặp đi lặp lại, không có sự biến đổi về chất. *Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển, dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu, song trên cơ sở cao hơn. Quan điểm duy vật biến chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, dó đó, cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vật nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật muốn ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là 5 một trường hợp dặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Như vậy, sự phát triển, trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ, là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân con người, trong tư duy. Tính chất của sự phát triển là tính khách, tính phổ biến ; tính đa dạng và phong phú : Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phù thuộc vào ý muốn, nguyên vọng, ý chí, ý thức của con người Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiễu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực : tự nhiên, xã hội và tư duy ; ở bất cứ sự vật nào của thế giới khách quan. Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng. Song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình sự vật còn chịu tác động của các sự vật khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. 2. Nội dung các quy luật của phép biện chứng Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận động, phát triển dưới những phương diện cơ bản nhất. Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức của sự vận động, phát triển ; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho biết nguồn gốc của sự vận động và phát triển ; quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự phát triển. a. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - Mâu thuẫn biện chứng, theo quan điểm mácxít là mâu thuẫn khách quan vốn có của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Một sự vật chỉ tồn tại, chỉ có sức sống chừng nào nó bao hàm mâu thuẫn, chứa đựng những mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Mâu thuẫn biện chứng không chỉ là sự phủ định, sự loại trừ lẫn nhau (đấu tranh) giữa các mặt đối lập mà nó còn là sự nương tựa, dựa vào nhau giữa các mặt đối lập, vì vậy nó bao gồm cả sự thống nhát giữa chúng. Thống nhất là điều kiện của đấu tranh, còn đấu tranh để đi dến giải quyết mâu thuẫn. Với ý nghĩa đó, có thể nói, mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. - Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Lênin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, vì nó là cơ sở để hiễu rõ mối quan hệ giữa các phạm trù khác nhau cũng như các quy luật cơ bản khác nhau trong phép biện chứng, V.I. Lênin viết “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập nói lên những sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập và vai trò của những tác động này đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Các mặt đối lập, với tư cách là những nhân tố, những bộ phận, những thuộc tính, có khuynh hướng vận động hay những đặc điểm trái ngược nhau, chúng không phải chỉ có thống nhất với nhau, đấu tranh với nhau mà còn chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có hai nghĩa, rộng hẹp. Theo nghĩa rộng sự thống nhất của các mặt đối lập là sự không tách rời nhau, làm tiền đề, làm điều kiện tồn tại của nhau. Không có sự thống nhất không tạo thành sự vật. Sự thống nhất này bị phá huỷ, sự vật không tồn tại nữa. Sự thống nhất này là sự thống nhất từ bên trong, do nhu cầu tồn tại, nhu cầu vận động và phát triển của chính bản thân các mặt đối lập. Nhà tư bản sở dĩ cần đến người công nhân chính vì người công nhân là lực lượng mang lại lợi nhuận cho nhà tư bản. Người công nhân sở dĩ phải làm thuê cho nhà tư bản vì đó là nhu cầu cuộc sống của họ, vì nhu cầu tồn tại của họ trong điều kiện họ không có tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản hình thành ở Tây Âu, giai cấp tư sản đã tìm cách tách người nông dân ra khỏi đồng ruộng rồi ban hành đạo luật cấm dân đi lang thang để cho họ chỉ thấy có một con đường sống là làm việc cho nhà tư bản. 6 Theo nghĩa hẹp, thống nhất là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động ngang nhau. Thống nhất trong trường hợp này được hiểu như là một trạng thái mà những yếu tố chung của hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối. Đó là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự loại trừ, bài xích lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Tất nhiên, đấu tranh giữa các mặt đối lập có nhiều hình thức. Nó phù thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn và vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể khi giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành các chất vô cơ khác hẵn cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của các cơ thể sống. Đấu tranh trong lĩnh vực tự nhiên hoàn toàn khác với đấu tranh trong xã hội. Đấu tranh trong thời kỳ dã man khác với trong thời đại văn minh. Tuy nhiên, tính chất chung, cơ bản của mọi cuộc đấu tranh là đưa đến xoá bỏ những cái cũ, cái không phù hợp, cái lỗi thời để tạo thành những cái mới. Vì vậy, đấu tranh là động lực của sự phát triển. Triết học mácxít cũng khẳng định đấu tranh là tuyệt đối, còn thống nhất chỉ là tương đối. Bởi vì sự phù hợp cũng là sự phù hợp của các mặt đối lập, thành thử không có sự phù hợp tuyệt đối, đồng nhất tuyệt đối. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác biệt và trong sự “đồng nhất”, “phù hợp”, “tác động ngang nhau”, nó vẫn làm nảy nở những nhân tố của một cuộc đấu tranh mới hoặc nó triển khai cuộc đấu tranh dưới một hình thức khác. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất và đấu tranh với nhau mà chúng còn chuyển hoá lẫn nhau. Đó là quá trính thẩm thấu những nhân tố, những thuộc tính của nhau. Sự chuyển hoá này là kết quả của những tác động qua lại thường xuyên giữa các mặt đối lập, là do sự thống nhất và đấu tranh giữa chúng. Sự chuyển hoá có thể diễn ra dưới hai hình thức: chuyển hoá từng phần và chuyển hoá toàn bộ. Nói chung, các mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau và sự tác động qua lại giữa chúng tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Triết học Mác – Lênin cho rằng, sự vật nào cũng là sự tổng hợp của những mâu thuẫn, vị trí các mâu thuẫn không giống nhau (có mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu..., trong xã hội còn có mâu thuẩn đối kháng và không đối kháng). Mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến hoá. Chính vì vậy, phân tích cụ thể mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật. b. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Trong quá trình phát triển, tư tưởng triết học của nhân loại cũng đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa chúng. Chỉ khi phép biện chứng duy vật ra đời mới đem lại quan điểm đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan hệ giữa chúng, từ đó khái quát thành quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Vị trí của quy luật: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ rõ phương thức, cách thức vận động và phát triển của sự vật. - Khái niệm về chất Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tình quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác các sự vật, hiện tượng khác; nhờ đó con người mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật, ...Đó là cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do vậy mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tài sự vật không có chất và không thể không có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản có thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong 7 mối liên hệ cụ thể này, thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên cụ thể khác sẽ có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là thuộc tính cơ bản. Chất của sự vật không những được quy định bởi chất những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau. - Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. Lượng bao gồm cả lượng vật chất và lượng vận động, lượng tồn tại khách quan và là cái vốn có của sự vật. Sự vật đơn giãn thì các thông số về lượng đơn giãn và ngược lại sự vật phức tạp thì các thông số về lượng của nó cũng phức tạp. Chất và lượng phải đặt được đặt trong quan hệ hoàn toàn xác định. Một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượngcó thể đặt trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác có thể là lượng. Nội dung quy luật: sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại. Quy luật này gồm hai nội dung: * Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, ở đây có hai trường hợp xãy ra: +Trường hợp 1: Sự biến đổi về lượng đưa ngay đến sự biến đổi về chất Ví dụ: trong các nguyên tử, chỉ cần mất đi một điện tử, lập tức nguyên tử biến thành ion. Một nguyên tử khí, nếu thêm một nguyên tử nữa nó thành phân tử...ở tất cảc các chất phóng xạ, mọi sự bắn ra của hạt  hay  đều tạo thành những chất mới. +Trường hợp 2: Sự biến đổi về lượng đến một giới hạn nhất định nào đó mới xảy ra sự biến đổi về chất. ở trường hợp này cần phải hiễu một số khái niệm sau: Độ: Là khoảng giới hạn mà ở đó sự biến đổi về lượng chưa tạo ra sự biến đổi căn bản về chất. Cần hiễu rằng, không phải sự biến đổi của lượng không tạo ra sự biến đổi về chất “độ” của nó. Thực ra ở đó đang có sự biến đổi nhỏ nhặt, khó nhìn thấy, chưa căn bản. Điểm nút: Là điểm giới hạn mà ở đó sự biến đổi về lượng gây nên sự biến đổi về chất. Bước nhảy: là quá trình thay đổi về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Quan điểm biện chứng đặc biệt chú ý đến bước nhảy. Hêghen xem bước nhảy là sự đứt đoạn có tính liên tục. Lênin xem bước nhảy là sự gián đoạn có “tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả” Vì sao “bước nhảy” lại có tầm quan trọng như vậy? Vì nếu không có “bước nhảy” thì trong sự vận động chỉ có sự biến đổi dần dần, từ từ, không có sự phá vỡ chất cũ và hình thành chất mới, không có những sự thay đổi đáng kể ngày càng lớn trong tự nhiên cũng như trong xã hội. Không có “bước nhảy” cũng tức là không có sự thay đổi về chất và như vậy thế giới chỉ duy trì những cái đã có và ngày hôm nay chỉ khác ngày hôm qua chỉ về số lượng, thậm chí sự vật này khác sự vật khác cũng chỉ là sự khác biệt về lượng. Cần thấy tính phong phú của các bước nhảy, có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần, bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Như vậy là các bước nhảy có thể diễn ra trong những khoảng thời gian khác nhau (nhanh, chậm), các quy mô khác nhau (lớn, nhỏ). Thông qua bước nhảy làm cho sự vật thay đổi về chất. * Ngược lại đến lượt nó, chất mới ra đời tác động thúc đẩy lượng biến đổi với quy mô và tốc độ mới. Khi chất mới ra đời, sự vật, hiện tượng có những biến đổi về căn bản, có thể trở thành sự vật, hiện tượng mới, có thể lên một trình độ mới....sự xuất hiện của chất mới đồng thời cũng có sự xuất hiện của lượng mới, lượng mới có sự phát triển cao hơn lượng cũ. Lượng mới theo quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng lại tiếp tục phát triển nhưng sự phát triển này không đơn thuần lặp lại như cũ nửa mà có sự phát triển mới về quy mô, trình độ, trạng thái...chính sự phát triển mới của lượng là do chất mới quy định, chất và lượng luôn tồn tại trong một thể thống nhất, quy định lẫn nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng. Cùng trong quá trình đó lượng mới tiếp tục phát triển, đến một giới hạn nhất định lại làm cho chất mới thay đổi thông qua bước nhảy vọt mới. Cứ như vậy sự vật, hiện tượng vận động biến đổi không ngừng. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phương thức, cách thức vận động củ sự vật, hiện tượng là cơ sở chống các quan điểm sai lầm như: Quan điểm siêu hình, cho rằng sự vật hiện tượng chỉ đơn thuần là sự thay đổi về lượng họ phủ nhận sự thay đổi về chất. Từ đó cho rằng chủ nghĩa tư bản có thể chuyển thành chủ nghĩa xã hội mà không cần trải qua cách mạng vô sản. 8 Quan điểm tả khuynh: Thổi phồng, tuyệt đối hoá sự thay đổi về chất, cho đó là quá trình diễn ra liên tục dẫn tới phiêu lưu, mạo hiễm. c. Quy luật phủ định của phủ định Quy luật này là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật là phát triển đi lên. * Khái niệm phủ định biện chứng: Phủ định: Trong sự vận động, biến đổi của thế giới ta thấy một sự vật hiện tượng trải qua các giai đoạn xuất hiện, tồn tại và đến một thời điểm nào đó bị thay thế bằng một sự vật khác, đó là sự phủ định. Các loại phủ định: phủ định sạch trơn; phủ định máy móc, siêu hình; phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng: là quá trình sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế do mâu thuẫn nội tại của sự vật quy định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Phủ định biện chứng có 2 đặc trưng cơ bản: - Nó mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự vật quy định. - Nó mang tính kế thừa, kế thừa có chọn lọc, cải tạo, “lọc bỏ” chứ không phải phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên xi, máy móc. * Nội dung của quy luật Khái quát khuynh hướng phát triển đi lên của sự vật là cái mới ra đời phủ định cái cũ, đó là sự phủ định biện chứng, chiều hướng cơ bản của quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, phát triển không giản đơn theo đường thẳng mà quanh co phức tạp theo hình “xoáy ốc”. - Phát triển là cái mới ra đời phủ định cái cũ: Trong lòng cái cũ bao giờ cũng tồn tại các mặt đối lập. Các mặt đối lập đấu tranh với nhau đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hoá thành cái mới. Người ta gọi đó là sự phủ định lần thứ nhất. Sau khi phủ định sự vật, hiện tượng trở thành mặt đối lập so với điểm xuất phát. Ví dụ: Gieo hạt thóc xuống đất, sau một thời gian và tác động của môi trường, hạt thóc mọc thành cây lúa. - Cái mới ra đời lại tiếp tục phát triển, theo quy luật nó lại bị phủ định bởi cái mới hơn bản thân nó lại trở thành cái cũ. (phủ định lần thứ hai) Cái mới sau khi ra đời lại tồn tại các mặt đối lập mới. Các mặt đối lập do phát triển với khuynh hướng trái ngược nhau sẽ đấu tranh với nhau, đấu tranh từ thấp đến cao, đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá. Cái mới hơn ra đời, cái mới lại trở thành cải cũ. - Qua hai lần phủ định sự vật, hiện tượng “dường như” trở về với cái ban đầu nhưng thực chất ở trình độ cao hơn (Phủ định của phủ định). Kết thúc chu kỳ “phủ định của phủ định” sự vật, hiện tượng lại bắt đầu một chu kỳ mới nhưng không lặp lại nguyên xi chu kỳ cũ mà có sự phát triển mới, qua các chu kỳ làm cho con người nhận thức được khuynh hướng phát triển của sự vật. - Sự phát triển của sự vật, hiện tượng không giãn đơn theo đường thẳng mà quanh co phức tạp theo hinh xoáy ốc. Với hình xoáy ốc ta thấy: sự phát triển đó có thể có lúc đi lên, có thể có lúc đi xuống (thụt lùi) thể hiện các bước quanh co, phức tạp, song khi nhìn nhận một cách tổng thể vẫn thể hiện khuynh hướng phát triển đi lên. Nắm được tính chất quanh co phức tạp đó chúng ta sẽ có cơ sở lý luận để hiễu được tính phong phú nhiều vẽ của hệ thống các sự vật, hiện tượng trong thế giới quanh ta. Chú ý: Trong tự nhiên, xã hội có những sự vật, hiện tượng không phải cứ phủ định lần thứ hai mà gọi là phủ định của phủ định. Nó có thể trải qua một vài bước phủ định trung gian rồi mới “dường như” trở về cái ban đầu. Ví dụ: Các giai đoạn phát triển của loài tằm bắt đầu từ trứng: Trứng – Tằm - Nhộng – Bướm – Trứng 3. Những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật a. Cặp phạm trù cái chung và cái riêng + Khái niệm Cái chung: Là một phạm trù để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ lặp lại giống nhau của nhiều sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ. Ví dụ: Cái sinh vật, kể cả động vật và thực vật đều có quá trình trao đổi chất. Cái riêng: Là phạm trù để chỉ một sự vật hiện tượng, một quá trình riêng lẻ có những đặc điểm. Không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác, quá trình khác. 9 Ví dụ: Anh Nguyễn Văn A - Tỉnh Thái Bình… Cái riêng có thể là một hệ thống các sự vật có tính độc lập tương đối đối với hệ thống sự vật khác. + Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng Cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan, mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất giữa cái chung và cái riêng. Cái riêng tồn tại trong mỗi liên hệ đưa đến cái chung, cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không ra nhập toàn bộ vào cái chung, cái chung chỉ bao quát một cách đại khái cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, cái riêng phong phú hơn cái chung. Cái riêng có thể thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (Sự vật hiện tượng khác, quá trình khác) Cái chung và đặc điểm riêng không cố định biết biến của có sự chuyển hoá lẫn nhau trong các điều kiện khác nhau. b. Cặp phạm trù: Nguyên nhân và kết quả: + Khái niệm Nguyên nhân là một phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau để gây ra một sự biến đổi nhất định Ví dụ: ánh nắng mặt trời chiếu xuống đất, sau một thời gian làm mặt đất nóng lên, sự tác động giữa ánh sáng- Mặt đất là nguyên nhân. Kết quả là một phạm trù để chỉ những biến đổi xuất hiện do một nguyên nhân nào đó. Ví dụ: Dưới tác dụng của dòng nước chảy làm xói mòn đất. Hiện tượng đất bị xói mòn là do kết quả tác động giữa dòng nước và mặt đất. + Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Nguyên nhân và kết quả là hai phạm trù luôn đi liền với nhau, có quan hệ biện chứng với nhau, điều đó được thể hiện ở nội dung cụ thể sau đây. Quan hệ nguyên nhân- kết quả là khách quan phổ biến: Điều đó có nghĩa là quan hệ giữa chúng là vốn có, thuộc về cái sự vật, hiện tượng, không phải do chủ quan của con người; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào, trong bất cứ quá trình nào quan hệ nguyên nhân-kết quả vẫn tồn tại, Từ khi con người chưa xuất hiện trên trái đất quan hệ này đã có giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Gió bão làm gãy cành, đổ cây, núi lửa phun trào làm cháy cây cỏ trên đường đi của nhau thạch….. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào đang tồn tại đều bắt nguồn từ nguyên nhân nào đó. Nguyên nhân có trước tạo nên kết quả, kết quả có sau nhưng có tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó. Trong quan hệ nguyên nhân - kết quả bao giờ nguyên nhân cũng có trước, làm nảy sinh kết quả. Nguyên nhân quyết định kết quả nhưng kết quả không đơn thuần chịu sự quyết định của nguyên nhân mà tác động trở lại nguyên nhân, có thể làm biến đổi, cải tạo nguyên nhân. Ví dụ: Sự sống trên trái đất xuất hiện do các tác động của môi trường: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, phóng điện của sét (sấm sét)… Khi sự sống xuất hiện sẽ làm cho môi trường thay đổi. Ngày nay nhiều yếu tố của môi trường đã khác xa môi trường thuỷ nguyên. Quan hệ nguyên nhân - kết quả rất phức tạp, một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân đồng thời một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả. Quá trình đó được các nhà triết học khái quát trong phạm trù nguyên nhân tổng hợp – kết quả tổng hợp. Ví dụ: Hạt giống nảy mầm và phát triển thành cây do nhiều yếu tố : Chất lượng hạt giống (do nhiều khâu trong bảo quản); độ ẩm thích hợp; nhiệt độ, ánh sáng…Khi cây có thu hoạch lại có nhiều sản phẩm từ thân, lá, quả… Các nguyên nhân tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy nhanh quá trình nảy sinh kết quả, nếu tác động ngược chiều sẽ làm chậm hoặc hạn chế quá trình nảy sinh kết quả. Khi tác động cùng chiều các nguyên nhân trở thành hợp lực, có lợi cho quá trình nảy sinh kết quả, thúc đẩy kết quả ra đời thuận lợi. Khi tác động ngược chiều các nguyên nhân sẽ kìm hãm nhau, trong một số trường hợp có thể triệt tiêu hoặc cho ra kết quả không phản ánh đúng nguyên nhân. Nguyên nhân – kết quả phải được đặt trong quan hệ hoàn toàn xác định. Bởi vì quá trình xem xét các sự vật, hiện tượng ta thấy: Cùng là một sự vật hiện tượng nếu đặt trong quan hệ này sẽ là nguyên nhân nhưng trong quan hệ khác lại là kết quả. Muốn hiểu được chúng ta phải tách ra với tư cách là một mắt khâu của một qúa trình nhận thức. Nếu không làm được điều đó thì không thể hiểu được quan hệ nhân quả. 10 c.Phạm trù tất nhiên - Ngẫu nhiên * Khái niệm: Tất nhiên là một phạm trù để chỉ cái bắt nguồn hợp quy luật từ những mối liên hệ và quan hệ cơ bản bên trong của sự vật, là cái do toàn bộ sự phát triển trước đó quy định và do đó nhất định xảy ra. Ngẫu nhiên là phạm trù để chỉ cái bắt nguồn từ mối liên hệ, quan hệ bên ngoài của sự vật, nó có thể xảy ra và không xảy ra. Ví dụ: Một người đi xe máy gặp tai nạn xe đổ, người bị thương. - Tất nhiên: Do không hiểu, vi phạm luật giao thông sẽ xảy ra tai nạn. - Ngẫu nhiên: Có thể vào ngày mồng một, mồng hai, có thể trên đường cao tốc, có thể trên đường cấp phối… * Mối quan hệ tất nhiên - Ngẫu nhiên. -Tất nhiên – Ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Khi con người chưa xuất hiện trên trái đất thì trong các sự vật, hiện tượng tất nhiên ngẫu nhiên vẫn xẩy ra. Tất nhiên – Ngẫu nhiên không phải do ý muốn chủ quan của con người. Với ý thức của mình con người có thể phản ánh nó trong nhận thức và hiểu được bản chất của nó. -Tất nhiên chi phối sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng, ngẫu nhiên chỉ có ảnh hưởng đến quá trình đó. + Tất nhiên xảy ra do mối liên hệ, quan hệ bên trong sự vật hiện tượng, những mối quan hệ, liên hệ này chi phối sự vận động, phát triển của sự vật. Chính vì thế, tất nhiên giữ vai trò chi phối, quy định sự vận động của sự vật, hiện tượng. + Ngẫu nhiên bắt nguồn từ mối quan hệ liên hệ bên ngoài, có thể xảy ra khi có điều kiện tương ứng, có thể không xảy ra. Vì thế ngẫu nhiên chỉ giữ vai trò ảnh hưởng trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. - Tất nhiên – Ngẫu nhiên tồn tại trong một thể thống nhất, quan hệ hữu cơ với nhau. Tất nhiên xuyên qua vô số ngẫu nhiên, ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên. Một số sự vật, hiện tượng nào đó trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó xuất hiện, lúc đầu chỉ được coi là ngẫu nhiên. Nhưng nó xuất hiện, lặp đi lặp lại nhiều lần, trong hoàn cảnh đó lại trở thành tất nhiên. Như vậy, có những sự vật hiện tượng vừa là tất nhiên vừa là ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên – Tất nhiên thống nhất với nhau trong sự vật, hiện tượng đó. - Tất nhiên – Ngẫu nhiên có sự chuyển hoá, trong mối liên hệ này là ngẫu nhiên những trong mối liên hệ khác lại là tất nhiên. Ví dụ: Một người đang ngủ bỗng thức dậy vì bị muỗi đốt, ta thấy cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có mặt trong hiện tượng đó. - Ngủ không màn, tất nhiên bị muỗi đốt. - Bị đốt vào đâu (đầu, mình, chân tay) lại là ngẫu nhiên. Điều đó cho thấy: Tất nhiên – Ngẫu nhiên còn phụ thuộc vào các mối liên hệ giữ các SBHT, chúng không phải là cái gì đó vĩnh viễn, bất biến. Nghiên cứu mối quan hệ tất nhiên – ngẫu nhiên giúp ta có cơ sở lý luận để chống các quan điểm siêu hình và quan điểm duy tâm. - Thuyết may rủi: Chỉ thừa nhận ngẫu nhiên, phó mặc cho hoàn cảnh, không dám nghĩ dám làm, không tin tưởng vào những điều hợp quy luật. d.Cặp phạm trù: Nội dung và hình thức. * Khái niệm + Nội dung là phạm trù để chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ và những quá trình tạo nên sự vật hiện tượng. + Hình thức là một phạm trù để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức, kết cấu của một nội dung. Ví dụ: Xã hội Việt Nam hiện nay nội dung là LLSX, QHSX, kiến trúc thượng tầng, các quan hệ giữa 3 yếu tố… còn hình thức là cách tổ chức sắp xếp. Nhà nước cộng hoà XHCN với hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Phương thức tổ chức của các thành phần kinh tế trong xã hội. * Mối quan hệ: Nội dung và hình thức luôn có quan hệ biện chứng với nhau: - Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất, phù hợp với một nội dung nhất định bao giờ cũng có một hình thức cụ thể tương ứng. Không có nội dung chung chung mà chỉ có nội dung cụ thể của 11 một sự hiện tượng, quá trình nào đó. Cũng không có một hình thức chung chung mà chỉ có hình thức cụ thể của một nội dung cụ thể: Bất cứ một nội dung cụ thể nào cũng gắn với một hình thức nhất định. - Nội dung và hình thức có vai trò không ngang bằng nhau trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong đó: Nội dung quyết định hình thức, hình thức có tác động trở lại nội dung. + Sự biến đổi của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung: Giữa nội dung và hình thức thì nội dung thường biến đổi nhanh hơn so với hình thức, hình thức ổn định hơn so với nội dung. Sự biến đổi của nội dung đều một giới hạn nào đó thì hình thức mới biến đổi theo. + Nội dung quy định cách thức tổ chức, kết cấu của hình thức. Ví dụ: Quan sát chiếc ấm điện ta thấy bao giờ cũng có các bộ phận: vỏ, dây điện, vòi, tay cầm… Vì mục đích là dùng để đun nên hình thức của nó được biểu hiện: Dây đun bên trong được ngâm trong môi trường nước, tay cầm có lót cách nhiệt… + Cuộc đấu tranh giữa nội dung và hình thức không xẩy ra giữa nội dung và hình thức nói chung, mà xẩy ra giữa nội dung mới phát triển với hình thức cũ đã lạc hậu trong một sự vật hiện tượng. Khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện nội dung và hiện tượng căn bản là phù hợp với nhau nhứng trong quá trình tồn tại nội dung với tính cách mạng luôn vận động phát triển. Tới một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn với hình thức cũ đã lạc hậu, từ đó xẩy ra cuộc đấu tranh nội dung – hình thức, đòi hỏi phải phá vỡ hình thức cũ, tạo cho mình hình thức mới phù hợp, thúc đẩy nội dung phát triển. Hình thức sau khi được đổi mới phù hợp với nội dung nhưng sự phù hợp không phải là vĩnh viễn mà đều một giai đoạn nhất định nội dung do sự vận động lại mâu thuẫn với hình thức. Sự đấu tranh nội dung – hiện tượng lại tiếp tục làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng phát triển. Hình thức chịu sự quyết định của nội dung nhưng không phải lúc nào nó cũng thụ động mà tác động trở lại nội dung theo hai chiều. - Hình thức phù hợp sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. - Hình thức không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. e. Cặp phạm trù: Bản chất và hiệu tượng. * Khái niệm Bản chất là một phạm trù để chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên hợp thành một thể thống một thể thống nhất hữu cơ bên trong quy định sự vận dụng và phát triển của sự vật. Hiện tượng là một phạm trù để chỉ những mặt, những mối liên hệ biểu hiện ra ngoài của một bản chất. Ví dụ: Bản chất của CNTB là chế độ tư hữu, có người bóc lột người, là yếu tố cơ bản để phân biệt với chế độ XHCN. Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng. Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng về phân phối, giai cấp này thống trị giai cấp khác. * Mối quan hệ - Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mỗi sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hai mặt của một sự vật, hiện tượng. Thể hiện + Bản chất thể hiện ra qua các hiện tượng, các hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của bản chất. + Bản chất nào thể hiện tượng ấy, bản chất bị tiêu diệt thì hiện tượng do nó sinh ra cũng mất theo bản chất mới ra đời thì các hiện tượng mới cũng ra đời. - Bản chất và hiện tượng là hai mặt đối lập mâu thuẫn với nhau, thể hiện: + Bản chất tương đối ổn định, hiện tượng thường xuyên biến đổi. + Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng phong phú hơn bản chất. - Bản chất và hiện tượng thâm nhập tràn lan vào nhau, hiện tượng nào cũng có tính bản chất, bản chất chi phối hiện tượng, hiện tượng phản ánh bản chất. g. Phạm trù khả năng - Hiện thực * Khái niệm: Khả năng là một phạm trù để chỉ cái còn là mầm mống trong sự vật và quá trình là cái sẽ xảy ra khi có các điều kiện tương ứng. Hiện thực là phạm trù để chỉ cái đã ra đời, đã xuất hiện, đã được thực hiện là khả năng đã được thực hiện. Ví dụ: Lớp 12a, trường phổ thông trung học Gia Lâm có một số em có khả năng thi đậu đại học. Những em này học giỏi đạo đức tốt, là đoàn viên gương mẫu. Sau kỳ thi đại học năm 1992 – 1993 có 10 em thi đậu vào các trường Đại học. Khả năng đã trở thành hiện thực. * Mối quan hệ: Khả năng và hiện thực tồn tại khái quan, vốn có, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. 12 Bất kỳ một sự vật nào cũng chứa đựng những khả năng nhất định, có thể phân chia như sau: - Khả năng thực tế: Là khả năng do những mối liên hệ, quan hệ tất nhiên, xuất phát từ bản chất của sự vật, là khả năng hợp quy luật. - Khả năng cụ thể: Là khả năng có đủ điều kiện cần thiết để trở thành hiện thực. - Khả năng trừu tượng: Là khả năng phải trải qua nhiều sự biến đổi nhiều giai đoạn phát triển mới trở thành hiện thực. - Khả năng hình thức: Là khả năng do mối quan hệ ngẫu nhiên bên ngoài quy định trở thành hiện thực với xác xuất thấp. Khả năng – Hiện thực của các sự vật, hiện tượng là vốn có thuộc về các SVHT, không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào chủ quan con người. + Khả năng – Hiện thực thống nhất với nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng: Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đó là hiện thực, hiện thực đó do khả năng trước đó được thực hiện nhưng trong quá trình tồn tại nó lại chứa đựng những khả năng mới. Khả năng mới có thể trở thành hiện thực khi có điều kiện nhất định. Như vậy, khả năng và hiện thực thống nhất với nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng. + Khả năng và hiện thực có sự chuyển hoá lẫn nhau: Khả năng khi gặp các điều kiện tương ứng trở thành hiện thực nhưng hiện thực trong quá trình vận động, phát triển lại nảy sinh những khả năng do sự vận động trước đó quy định. Những khả năng này trở thành hiện thực khi có điều kiện. Quá trình vận động, phát triển khả năng hiện thực thâm nhập vào nhau, cái này trở thành cái kia làm cho SVHT vận động, biến đổi không ngừng. LIÊN HỆ, VẬN DỤNG NỘI DUNG CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG MÁCXÍT TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VÀ TRONG LĨNH VỰC CÔNG TÁC CỦA BẢN THÂN 1. Liên hệ, vận dụng nội dung của phép biện chứng mácxít trong hoạt động nhận thức. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Qua nghiên cứu nội dung phép biện chứng duy vật bản thân có những liên hệ, vận dụng trong hoạt động nhận thức và trong lĩnh vực công tác: - Khi nhận thức về sự vật, hiện tượng phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật chung của chúng. Quan điểm toàn diện, bản thân nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên....để hiễu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Tất nhiên, cũng cần phải lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Theo quan điểm toàn diện không những chú ý tới những mối liên hệ nội tại của sự vật mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác. - Trong nhận thức và hoạt động của bản thân, phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được biến đổi đi lên cũng như biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật. Phải biết phân chia quá trính phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển có lợi hay có hại đối với đời sống con người. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân. - Quan điểm lịch sử – cụ thể: Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. - Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này cũng chính giúp cho bản thân tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhãy liên tục 13 Khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hoá sang những thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. Trong hoạt động của mình phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiễu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. - Trong hoạt động thực tiễn khi xem xét sự vật, hiện tượng phải phát hiện được mâu thuẫn, có phương pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, góp phần thúc đẫy sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Chống khuynh hướng né tránh, không giám giải quyết mâu thuẫn hay tuyệt đối hoá mâu thuẫn (tã khuynh). - Phải nhận thức đúng đắn sự phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau song cái mới phải là cái tất thắng. Phải có tinh thần lạc quan cách mạng, xây dựng tư tưởng tiến công, đấu tranh cho cái mới ra đời và tạo điều kiện cho nó giành thắng lợi. - Muốn tìm ra quy luật chung, những đặc tính chung phải đi từ nhiều cái cụ thể, riêng biệt, không chỉ dựa vào cái chung đã biết. Từ cái chung vận dụng vào cái riêng phải biết sức cụ thể.Chống hai khuynh hướng: nhấn mạnh cái chung xem nhẹ cái riêng hay nhấn mạnh cái riêng, hạ thấp cái chung. - Trong nhận thức và hành động phải tìm hiểu đúng nguyên nhân, có biện pháp thúc đẩy nguyên nhân để dẫn đến kết quả tốt hơn đồng thời ngăn chặn nguyên nhân đưa đến kết quả có hại. Phát huy vai trò của nguyên nhân tổng hợp trong quá trình nảy sinh kết quả tổng hợp theo chiều hướng có lợi. - Trong nhận thức và hành động phải nắm được cái tất nhiên, từ đó dự báo kế hoạch chính xác. Thông qua hàng loạt cái ngẫu nhiên được xác định tất nhiên, có biện pháp thúc đẩy, đưa quá trình vận động của sự vật đúng hướng nhằm đạt mục đích đã định. - Xem xét cải tạo sự vật phải xuất phát từ nội dung của nó. Lý do nội dung quy định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng; nội dung quy định hình thức; nếu chỉ chú ý hình thức sẽ dẫn tới chủ nghĩa hình thức, cản trở sự phát triển. Phải phân tích cụ thể sự phù hợp của nội dung và hình thức để có biện pháp đúng để cải tạo hoặc vứt bỏ hình thức và xây dựng hình thức mới, làm cho nội dung của sự vật phát triển thuận lợi. - Trong nhận thức không dừng lại ở các biều hiện bề ngoài mà phải đi sâu vào bên trong làm sáng tỏ cái bản chất ẩn dấu bên trong. Muốn hiểu được bản chất phải thông qua hàng loạt hiện tượng, phân tích cụ thể từng hiện tượng tránh ngộ nhận bản chất của sự vật. - Khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải có quan điểm khách quan, toàn diện, phân tích sự vật một cách cụ thể để phát hiện khả năng tích cực, tạo điều kiện để khả năng nay trở thành hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng theo hướng có lợi. Đồng thời với việc phát hiện khả năng tích cực phải tìm ra khả năng tiêu cực có biện pháp tác động để chúng trở thành phi khả năng. 2. Liên hệ, vận dụng nội dung của phép biện chứng mácxít trong lĩnh vực công tác của bản thân. Trên cơ sở nghiên cứu nội dung của phép biện chứng duy vật và từ liên hệ nó trong hoạt động nhận thức, bản thân em hiện công tác tại nhà trường quân đội em rút ra một số vấn đề sau: Một là, cần nhận thức rõ các mối liên hệ như quan hệ đồng chí, đồng đội; những mối liên hệ trong thực hiện và chấp hành mệnh lệnh; liên hệ trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy (quan hệ thầy, trò; liên hệ giữa nội dung, phương pháp giảng dạy và mối liên hệ giữa nội dung đó với các nội dung khoa học khác ...); liên hệ với quần chúng nhân dân.... những mối liên hệ này sẽ giúp cho bản thân hiễu đúng, nhận thức đúng chức trách, nhiệm vụ công tác và xử sự đúng các mối quan hệ để hoàn thành tốt các nhiệm vụ. Hai là, phải quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử – cụ thể, phải nhận ra sự phát triển của xã hội, khoa học – kỹ thuật và mục tiêu phấn đấu của quân đội ta là “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, từ đó phải phát huy những truyền thống quý báu của quân và dân trong đấu tranh và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; không ngừng trao dồi, nâng cao bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu, tránh tư tưởng thoã mãn dừng lại, bảo thủ, trì trệ. Đối với người giáo viên phải ra sức rèn luyện cả về trí lực, thể lực; các nội dung giảng dạy phải được kế thừa và không ngừng được phát triển cho phù hợp thực tiễn và xu hướng phát triển của thời đại góp phần xây dựng đội ngũ học viên sau khi ra trường trở thành những sĩ quan quân đội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Ba là, phải nhìn thẳng vào sự thật, phải nhận ra những mâu thuẫn và thẳng thắn sửa chữa những khuyết điểm, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; chống lại những âm mưu phá hoại, chống phá cách mạng 14 của kẻ thù. Đồng thời phải có tinh thần lạc quan, xây dựng tư tưởng tiến công, đấu tranh bảo vệ tốt những thành quả cách mạng của đất nước. Bốn là, Phải nhận thức và quán triệt đầy đủ nội dung các phạm trù của phép biện chứng để từ đó vận dụng phù hợp trong hoạt động thực tiễn công tác của mình. Tránh những ý muồn chủ quan đi sai lêch với quy luật khách quan; tránh tình trạng hoạt động mò mẫm, mù quáng, tránh những kết luận vội vã khi chưa tìm ra nguyên nhân của nó, tránh những chủ quan duy ý trí, chống lại chủ nghĩa hình thức và chống lại tách rời tuyệt đối hoá giữa nội dung và hình thức; tránh tư tưởng qua loa, đại khái khi nghiên cứu bản chất của một vấn đề nào đó; tránh hai thái cực sai lầm là tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan và hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực. 15 Câu 3: 1. Trình bày tổng quát nội dung của học thuyết “Hình thái kinh tế xã hội” 2. Anh chị hãy vạch ra cơ sở lý luận đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay? Đáp án: Để tồn tại và phát triển, xã hội không ngừng hoạt động để sản xuất và tái sản xuất ra bản thân con người, của cải vật chất, các quan hệ xã hội và năng lực tinh thần, trí tuệ. Không thể thiếu một yếu tố nào trong cấu trúc sản xuất xã hội, song cần nhấn mạnh rằng sản xuất của cải vật chất là yếu tố nền tảng vì chính nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực phát triển của xã hội, chi phối đến các yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, là cơ sở của lịch sử loài người. Trong sản xuất vật chất, con người không những tạo ra những tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng hàng ngày mà quan trọng hơn là sản xuất ra tư liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này vạch ra những thời đại lịch sử của loài người. Các Mác nhấn mạnh : “những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chổ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chổ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” (Các Mác : Tư bản NXB sự thật, HN, 1973). Cũng chính trong quá trình sản xuất vật chất ấy con người tự tạo ra và tự hoàn thiện bản thân mình. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Nền sản xuất xã hội là thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản : quan hệ kinh tế – kỹ thuật biểu hiện cách thức, năng lực, trình độ con người đạt trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những sản phẩm (lực lượng sản xuất) ; và quan hệ kinh tế xã hội, tức là cách giải quyết các vấn đề lợi ích kinh tế, là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng (quan hệ sản xuất). Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là hai bộ phận, mà là hai loại quan hệ trong một thực thể thống nhất cấu thành phương thức sản xuất. Cấu trúc của xã hội loài người được chia thành hai lĩnh vực là lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội (ý thức xã hội) và lĩnh vực vật chất của xã hội (tồn tại xã hội) trong mối quan hệ giữa hai lĩnh vực trên thì tồn tại xã hội tức là toàn bộ đời sống sinh hoạt vật chất của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định quyết định ý thức xã hội tức là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở trong giai đoạn lịch sử nhất định. Quan niệm duy vật về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ nguyên lý vật chất quyết định ý thức nhưng mối quan hệ nói trên lại là mối quan hệ biện chứng. Giữa lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần của xã hội luôn luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự phù thuộc của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội không phải là sự phù thuộc thụ động, máy móc, một chiều. So với tồn tại xã hội ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó có thể tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Sự tác động ấy có thể diễn ra theo hướng tích cực thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội cũng có thể diễn ra theo hướng tiêu cực kìm hảm sự phát triển của tồn tại xã hội. Điều đó phù thuộc vào sự tác động của các hình thái ý thức của xã hội đối với các lĩnh vực của tồn tại xã hội có phù hợp hay không. Trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hôi và ý thức xã hội, Mác đã đi đến sự mổ xẽ và phân tích cấu trúc xã hội thông qua học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ sản xuất nhất định với một kiểu kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Vai trò của các thành tố của hình thái kinh tế - xã hội. Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời đại: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật...Do đó nó cắt nghĩa xã hội một cách sáng tỏ hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội mới với tư cách là “Hòn đá tảng” của xã hội học Mác xít nói chung, cho phép chúng ta hình dung quá trình phát triển của lịch sử là một quá trình tự nhiên. Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai sẽ là hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời, phát triển và diệt vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể dung hoà được 16 thì sẽ dẫn đến đấu tranh. Một hình thái kinh tế mới - một phương thức sản xuất mới ra đời là điều tất nhiên để phù hợp với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Vì vậy, hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. a. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của một phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là toàn bộ cách thức của con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịc sử nhất định. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Những cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra đều gắn với sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Khi xuất hiện một phương thức sản xuất mới thì đời sống xã hội cũng thay đổi căn bản từ kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của phương thức sản xuất vật chất : công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất bao gồm những thành tố cơ bản ; người lao động với kỹ năng, kinh nghiệm thói quen sử dụng công cụ lao động, ý thức kỷ luật người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động (Đất đai, tài nguyên, khoáng sản và các điều kiện vật chất có liên quan dế quá trình lao động) và công cụ lao động do xã hội tạo ra. Trong các yếu tố của tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố năng động nhất, nó kết tinh trách nhiệm và trí tuệ người lao động thông qua các thời đại khác nhau. Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạnh con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Công cụ lao động quyết định năng xuất lao động, thể hiện khả năng cải tạo thực tiễn của con người. Trình độ phát triển của công cụ vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế – kỹ thuật trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, công cụ lao động được cải tiến, năng xuất lao động cao. Năng xuất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản đánh giá sự tiến bộ của sản xuất vật chất, của lực lượng sản xuất vật chất ở một xã hội nhất định. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng nó luôn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loài. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại vì lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quyết định bởi những điều kiện khách quan trong đó con người sống, bởi những lực lượng sản xuất đã đạt được, bởi những hình thái xã hội đã có trước họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất cấu thành từ các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về phân công tổ chức, điều hành sản xuất ; quan hệ đối với việc phân phối và hưỡng thụ sản phẩm lao động. Trong ba mối quan hệ, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng đối với một nền sản xuất, tập đoàn nào, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất nắm quyền điều hành nền sản xuất và nắm quyền phân phối sản phẩm lao động. Trong xã hội tập đoàn nào thống trị về mặt kinh tế thì sẽ thống trị về mặt chính trị. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan, không phù thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của con người. Để tiến hành sản xuất con người chẳng những phải quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau, do đó sản xuất bao giờ cũng mang tính xã hội. Tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất : Khi sản xuất còn ở trình độ thủ công thì lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. nó thể hiện trình độ tư liệu sản xuất là thủ công, tính chất của lao động là riêng rẽ, cá nhân, tách rời nhau. Khi sản xuất bắng máy thì trình độ tư liệu sản xuất là sản xuất công nghiệp, tính chất của lực lượng sản xuất là xã hội hoá. Ví dụ : Người nông dân làm ra cái cày chìa vôi và sử dụng nó trong sản xuất thể hiện trình độ tư liệu sản xuất của lao động là riêng rẽ, thủ công tính chất của lao động là riêng rẽ, cá nhân, tách rời ; nhưng khi sử dụng mày cày trong sản xuất thì trình độ sản xuất là sản xuất công nghiệp và tính chất của lực lượng sản xuất là xã hội hoá. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là không thể tách rời. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất quy định tính chất của lực lượng sản xuất. 17 Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại theo yêu cầu của sản xuất vật chất, tạo nên sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất trở thành phương thức đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nó trở thành xiềng xích kiềm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong mối tương quan biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất giữ vai trò nội dung của phương thức sản xuất có xu hướng ổn định tương đối. Khi lực lượng sản xuất vận động phát triển đến một giới hạn nào đó quan hệ sản xuất sẽ không vận động biến đổi kịp với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn này quan hệ sản xuất không những không đảm bảo được cho sự phát triển lực lượng sản xuất mà còn cản trở kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở trong phương thức sản xuất đã dẫn đến kết quả sác sản xuất bị kìm hảm, năng xuất lao động giảm, toàn bộ nền kinh tế xã hội trì trệ ...lực lượng sản xuất muốn tiếp tục phát triển thì phải vượt qua khỏi sự giàng buộc của quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Yêu cầu giải phóng Lực lượng sản xuất ra khỏi giới hạn kìm hảm của quan hệ sản xuất phải được thực hiện bằng các cuộc cách mạng xã hội, khi một cuộc cách mạng nỗ ra và thành công có nghĩa là lực lượng sản xuất mới đã được giải phóng, quan hệ sản xuất cũ đã bị xoá bỏ và một quan hệ sản xuất mới được thay thế cũng có nghĩa là một phương thức sản xuất cũ đã được vượt qua và một phương thức sản mới ở trong một hình thái kinh tế – xã hội mới đã xuất hiện, nền sản xuất xã hội và toàn bộ đời sống của xã hội loài người được phát triển lên công nghệ cao hơn. Biện chững giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trong mọi phương thức sản xuất, mọi hình thái kinh tế – xã hội đã thành quy luật cơ bản tác động một cách khách quan và phổ biến trong mọi tiến trình lịch sử. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. a. Mối quan hệ của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Mỗi xã hội có kết cấu kinh tế đặc trưng, tức là một cơ sở hạ tầng của xã hội, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Cơ sở hạ tầng cấu thành từ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất và từ những quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất ra đời sống xã hội Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng (Nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể, hiệp hội...) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó bộ máy nhà nước là bộ máy quyền lực của một giai cấp nhất định. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái nhất định. Về thực chất đây là sự thống nhất của hai mặt kinh tế và chính trị của một hình thái xã hội. Trong sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng (kinh tế quyết định chính trị). Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Nói cách khác, tính chất xã hội, giai cấp của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính chất xã hội, giai cấp của cơ sở hạ tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ : sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng nhanh hoặc chậm sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quy định tích chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật.... Trong kiến trúc thượng tầng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật...hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Chủ nghĩa duy vật mác xít cho rằng : kiến trúc tượng tầng độc lập tương đối với cơ sở hạ tầng. Nó không phải là sản phẩm thụ động mà tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng theo hai hướng: hợp và không hợp quy luật. 18 Trong xã hội có giai cấp, việc giành chính quyền (quyền lực chính trị) cũng là để tạo sức mạnh kinh tế. Sau khi đã có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm sức mạnh vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế của giai cấp cầm quyền. Cứ như vậy, sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng – giữa kinh tế và chính trị đưa lại sự phát triển hợp quy luật của cả kinh tế và chính trị. Ở đây nhà nước là phương tiện có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục tiêu của chính trị. Lịch sử ra đời và tồn tại của các nhà nước khác nhau chứng minh đầy đủ nguyên lý đó. Trong mỗi chế xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của Kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển ; nếu tác động ngược lại, bó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội. Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét cho đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay bằng cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển. Tóm lại, hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mối yếu tố cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. - Vận dụng để giải thích nền kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế ở nước ta hiện nay Lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác vạch ra cấu trúc và các quy luật chung nhất trong sự vận động của xã hội. Song khi vận dụng nó vào trường hợp cụ thể từng quốc gia, từng dân tộc phải tính đến tác động phức tạp của hoàn cảnh lịnh sử cụ thể của tổng hợp nhiều yếu tố. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác lại mở đợt tấn công mới vào học thuyết Mác nói chung và lý luận hình thái kinh tế – xã hội nói riêng. Song chủ nghĩa Mác, lý luận hình thái kinh tế – xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học của nó. Học thuyết Mác là học thuyết mở, lý luận hình thái kinh tế – xã hội là hệ thống những nguyên lý, quan điểm về cách tiếp cận và nhận thức lịch sử một cách khoa học. Dĩ nhiên đứng trên quản điểm lịch sử thì bất cứ một học thuyết khoa học nào cũng đều không ngừng được mài sắc, bổ sung, phát triển trong điều kiện mới. Vậy vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào hoàn cảnh thức tiễn ở nước ta được Đảng và Nhà nước thực hiện như thế nào ? 1. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa Lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung phái trải qua các hình thái kinh tế - xã hội một cách tuần từ thấp tới cao, song lịch sử nhân loại cũng không loại trừ sự phát triển đặc thù của những quốc gia, dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, có thể “ bỏ qua ” hình thái kinh tế - xã hội này, nhảy vọt lên hình thái cao hơn. Chẳng hạn người thổ dân châu úc, châu Mỹ đi từ chế độ nô lệ lên thẳng chủ nghĩa tư bản. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định : độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, từ đó có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của sự phát triển lịch sử là khả năng khách quan. Song, không phải cứ có điều kiện, khả năng khách quan thì bất cứ nước nào cũng biến thành hiện thực việc bỏ qua đó. 19 Việc bỏ qua được hay không một giai đoạn lịch sử của sự phát triển đối với một nước còn phù thuộc vào năng lực giải quyết phép biện chứng của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan ở mỗi nước đó quy định. Các nước thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội dưới hình thức khác nhau là do trình độ xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành ba loại nước ứng với ba kiểu quá độ : Một là: những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao Hai là: những nước trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa ở mức trung bình. Ba là: những nước chưa qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của sự phát triển Việt Nam thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Để nhận dạng con đường đi lên đó, trước hết phải phân tích đầy đủ, chính xác điểm xuất phát từ đó Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có như vậy, mới định hướng đúng và định hình trúng, tìm ra những hình thức, bước đi thích hợp. Ở Việt Nam, trình độ lực lượng sản xuất thấp dẫn đến năng lực tổ chức, quản lý thấp lại quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phái nhận thức đầy đủ, vận dụng sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất để khai thác mọi tiềm lực (nội và ngoại lực), đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hiệu quả cao nhất. Cùng phải nhìn lại một cách khách quan, một thời gian dài trước đây chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan hệ sản xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế tuy đạt được một mức độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bội chi ngân sách lạm phát, vay nợ nước ngoài. Con người được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng, tăng chi phí của cải xã hội. Nguyên nhân do tư tưởng chủ quan duy ý chí nóng vội đi đến chủ nghĩa xã hội nên đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức, chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan về chính trị cho rằng chỉ cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác là do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, đã không làm những việc phải làm, vận dụng một cách máy móc mô hình kinh tế của người khác. Trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ quan duy ý thức. Vì vậy, cũng cần nói thêm rằng: cần khắc phục quan niệm “bỏ qua” chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác, sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản là “khâu trung gian” để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với việc sử dụng những hình thức kinh tế trung gian – quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã vạch ra: đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng ta và Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng phát triển và cụ thể hoá chủ trương đó. Đại hội IX chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiên đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của dời sồng xã hội diễn ra đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.(Văn kiên Đại hội đại biểu lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.) 2. Vấn đề về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại . Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Hầu hết tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan