Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại...

Tài liệu Thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại

.PDF
78
124
61

Mô tả:

LUẬN VĂN: Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại Chương I Những vấn đề chung về Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại I/ kháI niệm và vai trò của Hoạt động thanh toán quốc tế 1. Khái niệm Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng. Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP... Những năm gần đây do sự mất giá của đồng USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch. Hiện nay phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu điện, mạng SWIFT hoặc qua các uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng. Do vậy tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong TTQT chiếm một phần không đáng kể. TTQT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều kiện đó là: + Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu. + Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động. + Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên liên quan. + Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng... TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều kiện trên, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều phương thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Người ta phân loại thanh toán quốc tế như sau: *) Xét về mặt kinh tế + Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá, dịch vụ thương mại kết hợp xuất nhập khẩu dựa trên giá cả Quốc tế. Trong thanh toán mậu dịch, các bên liên quan sẽ bị ràng buộc với nhau theo theo các hợp đồng đã ký kết hoặc cam kết thương mại. Nếu 2 bên không ký hợp đồng chỉ có đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào các đại diện giao dịch. + Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá, không mang tính chất thương mại. Đó là chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước sở tại, các chi phí vận chuyển và đi lại của các đoàn khách, chính phủ, các tổ chức, cá nhân. *) Xét về mặt hình thức + Phương thức thanh toán chuyển tiền + Phương thức thanh toán nhờ thu + Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 2. Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại & hoạt động kinh doanh của ngân hàng 2.1. TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại + TTQT là khâu quan trọng trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động TTQT thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại. + TTQT là cầu nối giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại giữa các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu được là phải thiết lập quan hệ TTQT. + TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của các bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động thì khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, và việc thực hiện hợp đồng TTQT ngày càng nhiều thì việc tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển hơn. 2.2. TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho những mặt hoạt động khác của ngân hàng. + Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu TTQT về giao dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình. + Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT qua Ngân hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế trên cơ sở đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng thế giới. ii/ Nội dung của hoạt động TTQT 1. Đồng tiền sử dụng trong TTQT Trong TTQT, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó, vì vậy trong các hiệp định và hợp đồng đều có qui định việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán đồng thời cũng qui định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: - Sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán; - Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế; - Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới; - Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới. Khi tiến hành thanh toán, bên nào cũng muốn dùng đồng tiền của nước mình vì có những điểm lợi sau đây: - Có thể nâng cao địa vị đồng tiền nước mình trên thị trường thế giới; - Không phải dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài; - Có thể tránh được rủi ro do tỷ giá tiền tệ nước ngoài biến động gây ra; - Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của nước mình. Địa vị của yên Nhật Bản, Mác Đức, trong những năm gần đây được nâng cao nhờ cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai của họ thường dư thừa, nhưng các đồng tiền này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế như bảng Anh và đô la Mỹ, vì tỷ trọng xuất nhập khẩu trong mậu dịch quốc tế của các nước này chưa lớn lắm so với Anh , Mỹ và khối lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế của thị trường ngoại hối ở các nước này không nhiều bằng thị trường London và New York. Đồng phrăng Thuỵ Sĩ từ lâu nay được coi là đồng tiền tự do “cứng” trên thế giới, nhưng vì ngoại thương của nước này chiếm tỷ trọng nhỏ trong mậu dịch quốc tế, thị trường vốn của nước này bé nhỏ, nên phrăng Thuỵ Sĩ không được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Trong thanh toán ngoại thương, có những mặt hàng phải thanh toán bằng một loại tiền tệ nhất định thường là những hàng nguyên liệu quan trọng đã bị một số nước khống chế từ lâu về sản xuất và tiêu thụ, các nước này đã biến việc dùng loại tiền tệ đó để thanh toán thành một “tập quán quốc tế”. Ví dụ mua cao su, thiếc và một số kim loại mầu khác thường thanh toán bằng bảng Anh, dầu hoả bằng đô la Mỹ v.v.. Phân loại Người ta phân loại tiền tệ thành 04 nhóm chính: + Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau: - Tiền tệ thế giới (World currency): Hiện nay chưa có một vật nào khác thay thế vàng thực hiện chức năng này. - Tiền tệ quốc tế (International currency): là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tàI chính quốc tế như SDR, ECU... - Tiền tệ quốc gia (National money): là đồng tiền riêng của từng nước. Sức mua của đồng tiền này biến đổi thường xuyên & liên tục phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế của quốc gia đó. + Căn cứ vào tính chất chuyển đổi của tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau: - Tiền tệ tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là những đồngtiền quốc gia mà pháp luật nước đó cho phép nó được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền của nước khác. Có 02 loại tiền tệ tự do chuyển đổi: tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần. - Tiền tệ chuyển nhượng (Transferable currency): là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này qua người khác qua hệ thống tàI khoản mở tạI ngân hàng. - Tiền tệ clearing (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản và không được chuyển dịch sang một tàI khoản khác. + Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau: - Tiền mặt (Cash): là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt. Trong TTQT người ta rất ít khi sử dụng loại tiền này. - Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền tàI khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tạI là các phương tiện TTQT như hối phiếu, séc, T/T, M/T.. + Căn cứ vào mục đích sử dụng của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau: - Tiền tệ tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng. - Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng trong thanh toán nợ nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương. 2. Các phương tiện thanh toán quốc tế 2.1. Séc (Cheque) Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên tờ séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy, hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản. Séc là một phương tiện TTQT được sử dụng trong thanh toán nội địa và quốc tế về cả hàng hoá, dịch vụ và phi mậu dịch. Đặc điểm của séc: + Séc chỉ được phát hành 1 bản + Séc có giá trị thanh toán như tiền + Séc có tính chất thời hạn, tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hay thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết + Người ký phát séc là chủ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng + Người hưởng lợi là người có tên trên tờ séc Các loại séc *) Căn cứ vào tác dụng lưu chuyển + Séc đích danh: là loại séc mà trên đó ghi tên người hưởng lợi, loại séc này không thể chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu. + Séc vô danh: là loại séc mà trên đó không ghi tên người hưởng séc, người hưởng lợi là bất kì người nào cầm tờ séc. + Séc theo lệnh: là loại séc ghi rõ trả theo lệnh của người thụ hưởng, séc được chuyển nhượng theo thủ tục ký hậu. Trong TTQT loại séc này được sử dụng rộng rãi. *) Căn cứ vào đặc điểm sử dụng + Séc tiền mặt: là loại séc được ngân hàng thanh toán trả bằng tiền mặt. + Séc chuyển khoản: là loại séc mà khi ngân hàng nhận được sẽ trích tiền từ tài khoản của người ký phát sang tài khoản của người khác mà không được rút bằng tiền mặt. + Séc gạch chéo: là séc mà trên mặt phải của nó có 2 gạch chéo song song kể từ góc này sang góc kia. Loại séc này chỉ được thanh toán chuyển khoản mà không được rút bằng tiền mặt. + Séc xác nhận (séc bảo chi): là loại séc mà có ký xác nhận trả bằng tiền của ngân hàng nên khả năng chi trả của tờ séc được đảm bảo chắc chắn. + Séc du lịch: được sử dụng đối với khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc, trên tờ séc phải có chữ ký của người hưởng lợi và khi lĩnh tiền phải ký tại chỗ để ngân hàng kiểm tra. Loại séc này do ngân hàng phát hành và được trả tiền ở các chi nhánh hay ở ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành séc, nơi khách du lịch đến. 2.2. Hối phiếu (Bill of Exchange) Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu ngân hàng này khi nhận được nó phải trả vào một ngày xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho người nào đó. Hối phiếu là một phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong TTQT, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Đặc điểm của hối phiếu: + Tính trừu tượng: trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền, không nói đến nguyên nhân phát sinh công nợ. Như vậy nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. + Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: người trả tiền ghi trên hối phiếu bắt buộc phải trả đủ số tiền của hối phiếu cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn. Luật pháp không chấp nhận bất cứ một lý do nào gây nên sự chậm trễ hoặc từ chối trả tiền của hối phiếu. + Tính lưu thông của hối phiếu: trong khi hối phiếu còn thời hạn hiệu lực thì nó có thể chuyển nhượng từ người thụ hưởng này sang người thụ hưởng khác thông qua thủ tục ký hậu ở mặt sau hối phiếu (Endorsement). Các loại hối phiếu *) Căn cứ thời hạn trả tiền + Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhận được nó do người cầm hối phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ. + Hối phiếu có kì hạn: người trả tiền phải trả số tiền ghi trên tờ hối phiếu sau một thời gian nhất định kể từ ngày người đó ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu hoặc kể từ ngày phát hành nó. *) Căn cứ vào chứng từ đi kèm + Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được chuyển đến cho người nhập khẩu có kèm theo bộ chứng từ hàng hoá. Loại này gồm: Hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và Hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận. + Hối phiếu trơn: là hối phiếu được gửi đến người trả tiền mà không kèm chứng từ hàng hoá. Trong TTQT, loại này thường dùng để thu tiền phạt, tiền bồi thường, cước phí bảo hiểm, phí vận tải, lệ phí, thủ tục phí... *) Căn cứ vào chủ thể lập hối phiếu + Hối phiếu thương mại: loại này do người xuất khẩu lập để làm chứng từ đòi tiền người nhập khẩu trong các nghiệp vụ thanh toán về hàng xuất khẩu hay cung ứng dịch vụ. Hối phiếu thường đi kèm chứng từ hàng hoá trong các hình thức thanh toán bằng L/C hay uỷ thác thu. + Hối phiếu ngân hàng: loại này do ngân hàng phát hành để đòi tiền một người nào đó hoặc chỉ định một người nhất định trả số tiền ghi trên hối phiếu. *) Căn cứ vào sự chuyển nhượng + Hối phiếu đích danh: là hối phiếu ghi rõ tên người hưởng, không kèm theo điều khoản trả theo lệnh, không chuyển nhượng được. + Hối phiếu vô danh: là hối phiếu không ghi tên người hưởng lợi và khi chuyển nhượng không phải ký hậu. + Hối phiếu theo lệnh: trong hối phiếu này phải ghi rõ trả theo lệnh của người hưởng lợi và khi chuyển nhượng phải thực hiện bằng ký hậu. 2.3. Lệnh phiếu - Kì phiếu (Promissory Note) Lệnh phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi theo lệnh của người này trả cho người khác quy định trong lệnh phiếu đó. Đặc điểm cơ bản của lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với đặc điểm của hối phiếu. Vì đặc điểm thụ động này mà trong TTQT ít dùng lệnh phiếu hơn các phương tiện thanh toán khác. Ngoài ra lệnh phiếu còn có những đặc điểm riêng sau: + Kỳ hạn của lệnh phiếu được ghi rõ trên nó. + Lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi. + Lệnh phiếu nhiều khi cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. + Lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra chuyển cho người hưởng lợi. 2.4. Các phương tiện khác Ngoài các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng như hối phiếu, kỳ phiếu, séc nói trên trong giao dịch thương mại quốc tế người ta còn sử dụng một số các phương tiện thanh toán quốc tế khác như: Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Thẻ tín dụng, Thư tín dụng ngân hàng..  Thẻ tín dụng (Credit Card) Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ đã cung ứng. Thẻ tín dụng cho phép chủ thể sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một hình thức chi tiêu trước trả tiền sau với một thời hạn ưu đãi không thu lãi (khoảng từ 10 đến 45 ngày). Chủ thẻ có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng (bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ). Thẻ tín dụng theo tên của nó đã là một hình thức tín dụng nhưng khi thanh toán nó không phải dùng tiền mặt. Tuy nhiên việc cấp phát tín dụng của ngân hàng có điểm đặc biệt ở chỗ không phải khách hàng sử dụng thẻ này mua hàng ở đâu cũng được mà chủ thẻ chỉ được sử dụng thẻ ở những nơi trực thuộc ngân hàng quản lý (Cơ sở chấp nhận thẻ, Ngân hàng đại lý). Nói tóm lại, ngày nay thẻ tín dụng là phương tiện chủ yếu phục vụ thanh toán cá nhân thay tiền mặt thông dụng trên thế giới, có thể dùng để thanh toán thay thế cho việc luân chuyển một phần tiền mặt từ nơi này sang nơi khác ở trong nước và ngoài nước.  Điện chuyển tiền (Telegraphic Transfer) Điện chuyển tiền là tập tin chuyển tải những thông tin nhất định liên quan đến giao dịch thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng được lập theo tiêu chuẩn của SWIFT và được truyền nhận trên mạng IBS và/ hoặc trên mạng SWIFT. Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh những chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT thì hầu hết chuyển tiền đều thực hiện qua mạng.  Thư tín dụng của ngân hàng ( Bank Letter of Credit) Thư tín dụng của ngân hàng là một cam kết thanh toán có điều kiện của Ngân hàng. Chi tiết hơn, nó là một cam kết bằng văn bản của ngân hàng giao cho người bán theo yêu cầu, và trên cơ sở các chỉ dẫn của người mua thanh toán hoặc vào một ngày tương lai xác định một tổng số tiền đã định, trong một giới hạn thời gian và trên cơ sở các chứng từ đã quy định. Thư tín dụng ngân hàng là một phương thức tiện và an toàn nhất cho thanh toán xuất khẩu trong các hình thức thanh toán hiện thời (nhờ thu, thanh toán trơn, thanh toán ứng trước, thanh toán bằng séc..) 3. Các phương thức thanh toán quốc tế 3.1. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance) Đây là phương thức mà trong đó khách hàng (người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi). Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại: + Chuyển tiền bằng điện + Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer - M/T): Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện nhưng tốc độ chậm hơn. Trong hạch toán chuyển tiền, ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện theo uỷ nhiệm để hưởng hoa hồng chứ không bị ràng buộc trách nhiệm nào. Thanh toán chuyển tiền trong ngoại thương có thể là thanh toán tiền ứng trước hay thanh toán sau. Trong trường hợp thanh toán ứng trước thì rủi ro thuộc về người mua, trường hợp thanh toán sau thì rủi ro thuộc về người bán vì việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và khả năng thanh toán của người mua trong khi quyền lợi của người bán khó bảo toàn. 3.2. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment) Đây là phương thức mà người bán (người xuất khẩu) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua (người nhập khẩu), uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Trong TTQT khi sử dụng hình thức này các nước thường vận dụng “Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại - ICC 522” do Phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1995. Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn vẹn đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán (một phần hay toàn bộ) số tiền trên giấy đòi tiền của người xuất khẩu. Trong thanh toán uỷ thác thu người xuất khẩu thông qua ngân hàng chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá mà chưa khống chế được việc trả tiền của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng từ hàng hoá để kéo dài việc trả tiền hoặc có thể không trả tiền khi tình hình thị trường bất lợi cho họ. Thanh toán nhờ thu gồm các loại: + Nhờ thu không kèm chứng từ (nhờ thu phiếu trơn - Clean Collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào thương phiếu trơn. Thương phiếu trơn gồm một hoặc nhiều hối phiếu đã được chấp nhận hay chưa được chấp nhận, kỳ phiếu, séc, biên lai hoặc các chứng từ tương tự khác để thu tiền mà không có hoá đơn, vận đơn, giấy chứng nhận sở hữu, hoặc bất kỳ chứng từ tương tự nào đính kèm. Loại này thường dùng trong thanh toán chi trả về dịch vụ cước phí bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường... + Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu thì mới trao chứng từ để nhận hàng. Điểm khác biệt cơ bản với phương thức nhờ thu phiếu trơn là người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ số tiền còn khống chế hàng hoá đối với người nhập khẩu. Phương thức nhờ thu kèm chứng từ có 2 loại: . Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents against Acceptance - D/A): người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối phiếu do người xuất khẩu ký phát thì mới được ngân hàng trao bộ chứng từ hàng hóa để đi nhận hàng. . Nhờ thu thanh toán đổi chứng từ (Documents against Payment - D/P): người nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ hối phiếu trả tiền ngay do người xuất khẩu lập thì mới được quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá từ ngân hàng. 3.3. Phương thức thanh toán thư tín dụng (Letter of Credit) Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) 1 L/C cho người được hưởng (người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn quy định với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng. Trong TTQT nói chung và đặc biệt là trong thanh toán ngoại thương, hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận dụng vào hình thức thanh toán này các nước dựa vào “Bản điều lệ và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP 500” do Phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1993 có hiệu lực 1/10/1994. Nét đặc thù trong thanh toán L/C là việc trả tiền của ngân hàng chỉ căn cứ vào sự phù hợp của chứng từ hàng hoá với những điều kiện đã nêu trong L/C mà không trực tiếp dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vậy ngân hàng không bị ràng buộc bởi những điều kiện trong nội dung của L/C và việc trả tiền chỉ dựa vào L/C khi nó đã được mở. Thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục song các nguyên tắc thanh toán rất chặt chẽ, rõ ràng nên việc nhận hàng và trả tiền luôn được đảm bảo. Vì vậy nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Các loại thư tín dụng gồm: + Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): với loại này sau khi L/C được mở thì nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào, không cần có sự đồng ý của người được hưởng. Như vậy thư tín dụng này chưa phải là một cam kết trả tiền thực sự, do vậy nó rất ít được sử dụng. + Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C): khi loại L/C này được mở thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không có sự đồng ý của người hưởng L/C. Như vậy tính bảo đảm của L/C này rất cao nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Irrevocable Confirmed L/C) đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ đồng thời có sự xác nhận trả tiền của một ngân hàng. Vì vậy L/C này đảm bảo rất chắc chắn khả năng thu được tiền của người xuất khẩu. Đối với người nhập khẩu khi phải mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn tại ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C còn phải chịu thêm phí xác nhận L/C. Đó là bất lợi cho người nhập khẩu. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without Recourse L/C): khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu (người hưởng L/C) phải phát hành một hối phiếu ghi “không được truy đòi của người phát phiếu”. Như vậy sau khi đã thanh toán cho người hưởng lợi, ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền của L/C bất kì trong trường hợp nào. Loại L/C này được dùng phổ biến trong các hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng được (Irrevocable Transferable L/C): đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C này chỉ được chuyển nhượng 1 lần, chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu. + Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): thông thường khi tiến hành mua bán qua trung gian thì người ta dùng loại thư tín dụng này, sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình thì người xuất khẩu dùng L/C này để mở 1 L/C khác cho người hưởng với nội dung gần giống như L/C gốc. Như vậy L/C sau gọi là L/C giáp lưng. + Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): loại L/C này thường được dùng trong phương thức mua bán quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư tín dụng đối ứng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi 1 thư tín dụng đối ứng với nó đã được mở. + Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại thư tín dụng được dùng để trả tiền nhiều lần trong khuôn khổ thời hạn do hợp đồng mua bán ngoại thương quy định. Sau khi thư tín dụng trước đã được trả tiền xong thì thư tín dụng kế tiếp có hiệu lực. + Thư tín dụng dự phòng (Stand - by L/C): để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, ngân hàng của người nhập khẩu sẽ phát hành 1 L/C trong đó cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. L/C như thế được gọi là L/C dự phòng. Nó được áp dụng phổ biến ở Mỹ trong quan hệ một bên là người đặt hàng (người mua) và một bên là người sản xuất (người bán). 3.4. Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài (Escrow Account) Đây là phương thức thanh toán mà 2 nhà xuất khẩu và nhập khẩu thỏa thuận treo tài khoản ở nước người nhập khẩu để ghi có số tiền của nhà xuất khẩu bằng tiền của nước nhập khẩu hoặc bằng ngoại tệ tự do. Số tiền này dùng để mua lại hàng của người nhập khẩu. Với phương thức này, nhà nhập khẩu phải mở L/C để mua lại hàng bởi vì nhà xuất khẩu đã có sẵn tiền trên tài khoản Escrow Account tại nước người nhập khẩu. Phương thức thanh toán này thích hợp với phương thức mua bán đền bù (Compensation Trade). 3.5. Thư bảo đảm trả tiền (Letter of Guarantee - L/G) Dùng phương thức thanh toán này tức là ngân hàng bên mua theo yêu cầu của người mua viết thư bảo đảm trả tiền cho người bán, bảo đảm sau khi hàng của bên bán đã gửi đến địa điểm của bên mua quy định sẽ trả tiền hàng. Phương thức thư bảo đảm khác với phương thức thư tín dụng là phương thức này căn cứ vào hàng hoá để trả tiền chứ không căn cứ vào chứng từ để trả tiền. Thanh toán theo phương thức này có 3 loại: Hàng đến trả tiền hoặc kiểm nghiệm xong trả tiền hay hàng đến trả tiền một phần, phần còn lại trả sau khi có kết quả kiểm nghiệm. 3.6. Phương thức ghi sổ (Open Account) là phương thức người bán mở tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng hay dịch vụ, đến từng kì (tháng, quý, năm) người mua trả tiền cho người bán. Đặc điểm của phương thức này là không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng người mở tài khoản và thực chi thanh toán, chỉ mở tài khoản đơn biên, chỉ có 2 bên tham gia là người bán và người mua. 4. Các nguồn luật điều chỉnh trong thanh toán quốc tế  Những nguồn luật điều chỉnh hối phiếu: Để thống nhất sự giải thích về hối phiếu, trong phạm vi quốc tế có hai Công ước. Công ước quốc tế đầu tiên ký năm 1930 tạI Giơ-ne-vơ, trong đó có ban hành một luật điều chỉnh về hối phiếu gọi là “ Luật điều chỉnh về hối phiếu” (Uniform Law for Bill of Exchange, viết tắt là ULB 1930). ULB mang tính chất khu vực thuộc Châu Âu. Uỷ ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, kỳ họp thứ 15, Newyork, từ ngày 26 tháng 7 đến 06 tháng 8 năm 1982 cũng ban hành văn kiện số A/CN, 9/211 ngày 18/02/1982 về Kỳ phiếu và Hối phiếu quốc tế (International Bills of Exchange and Promissory notes, document No.A/CN, 9/211 18 February 1982). Văn kiện này mang tính chất toàn thế giới. Pháp tham gia Công ước Giơ-ne-vơ năm 1930, nhưng chính thức áp dụng luật ULB vào năm 1936. Việt nam là thuộc địa của Pháp, nên lúc đó cũng phảI áp dụng luật này từ năm 1937 trở đi theo nghị định của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương. Đến 1962 ở Mỹ có Luật thương mại thống nhất (Uniform Từ sau ngày hoà bình lập lại năm 1954, trong quan hệ thanh toán với các nước tư bản chủ nghĩa, nước ta sử dụng hối phiếu trong khuôn khổ của ULB, mặc dù chúng ta không phải là thành viên của Công ước Giơ-ne-vơ năm 1930. Vì vậy, việc giải thích hối phiếu ở nước ta cũng chỉ nên dựa vào ULB hơn là các văn bản pháp lý khác, vì ULB được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Những văn bản khác thường gặp là: Luật hối phiếu 1882 của Anh (Bill of Exchange Act of 1882), đây là nguồn luật điều chỉnh hối phiếu ban hành sớm nhất trên thế giới và Luật thương mại thống nhất 1962 của Mỹ (Uniform Commercial Codes of 1962 - UCC). Hai văn bản này mang tính pháp lý quốc gia. Sự khác nhau chính trong các nhóm luật này là: Nhóm luật quốc tế (ULB 1930,Văn kiện về Hối phiếu và Kỳ phiếu quốc tế số A/CN, 9/211 ngày 18/2/1982) quy định các điều khoản mang tính chính xác cao hơn nhóm luật quốc gia Anh, Mỹ. Các điều khoản mang tính chất bắt buộc trong lưu thông hơn tuỳ ý.  Các nguồn luật điều chỉnh về séc . Công ước Geneva về séc được ký vào năm 1931, được nhiều nước áp dụng trên thế giới. . Luật thương mại quốc tế về séc do Uỷ ban thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, kỳ họp thứ 15 ban hành ngày 18/2/1982 (số A/CN.9/212)  Các nguồn luật áp dụng trong các phương thức thanh toán quốc tế Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của nhờ thu là “Quy tắc thống nhất về nhờ thu” số 522 của Phòng Thương mại Quốc tế, bản sửa đổi năm 1995 (Uniform Rules for the collection, 1995 Revision No. 522, ICC), có hiệu lực từ ngày 01/1/1996. Muốn sử dụng bản quy tắc này, hai bên mua bán phải thống nhất quy định trong hợp đồng. Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của tín dụng chứng từ là “Quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, bản sửa đổi năm 1993” của Phòng Thương mạI quốc tế (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits ICC, 1993 Revision, No. 500). Bản quy tắc này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phảI thoả thuận ghi vào L/C, đồng thời có thể thoả thuận khác, miễn là có dẫn chiếu. Những nội dung chính của bản quy tắc này bao gồm những vấn đề sau đây: - Nguyên tắc chung và định nghĩa về tín dụng chứng từ; - Hình thức và thông báo thư tín dụng; - Trách nhiệm cuả ngân hàng; - Chứng từ thanh toán; - Những điều khỏan khác như: quy định về số lượng và số tiền, giao từng phần, ngày hết hiệu lực, cách bốc xếp hàng, xuất trình chứng từ thanh toán.. Hiện nay ở nước ta, các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh ngoại thương đã thống nhất sử dụng bản Quy tắc này như một văn bản pháp lý điều các loại thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán quốc tế giữa Việt Nam và các nước ngoài. Ngoài ra còn có các quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo tín dụng chứng từ (URR) của (ICC) (Uniform Rules for Bank to bank Reimbusement under Documentary Credits, N-525, 1995, ICC) Chương II Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại NHCT ba đình I/ vàI nét về NHct ba đình và Tình hình hoạt động kinh doanh của nó 1. Một số nét về NHCT Ba Đình NHCT Ba Đình được thành lập năm 1961 với tư cách là 1 chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quận Ba Đình. Vì vậy NH hoạt động với 2 chức năng là quản lý nhà nước và kinh doanh tiền tệ. Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/03/1988 đã tạo tiền đề cho quá trình đổi mới hoạt động Ngân hàng Sau quyết định 402/CT của Chủ tịch HĐBT ngày 14/11/1990 về việc thành lập NHCT Việt Nam, Ngân hàng Ba Đình trở thành chi nhánh của NHCT Hà Nội. Theo quyết định số 93/NHCT-TCCB của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam (1/4/1993), NHCT Ba Đình hoạt động với tư cách là chi nhánh của NHCT Việt Nam, có trách nhiệm tiến hành các hoạt động kinh doanh theo các quyết định mà NHCT Việt Nam ban hành về việc áp dụng các hình thức huy động vốn, cho vay, thanh toán, áp dụng biểu lãi suất như đã quy định và tiến hành các dịch vụ Ngân hàng khác. Từ đó đến nay, hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình được ổn định và phát triển theo 4 định hướng lớn của ngành, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, đưa lại hiệu quả kinh doanh cao hơn so với những năm trước. Theo quy định mới đây NHCT Ba Đình là một chi nhánh Ngân hàng phụ thuộc NHCT Việt Nam chứ không phải là trực thuộc. 2. Cơ cấu, tổ chức của NHCT Ba Đình Chi nhánh NHCT Ba Đình là chi nhánh khá lớn mạnh với số cán bộ, công nhân viên hơn 300 người, trong đó hơn 60% có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Chi nhánh có Ban giám đốc gồm 5 người: - 1 giám đốc phụ trách chung và đồng thời trực tiếp chỉ đạo hoạt động tín dụng - 4 phó giám đốc phụ trách riêng từng phòng ban và những lĩnh vực cụ thể Chi nhánh có 7 phòng nghiệp vụ và 1 phòng giao dịch:  Phòng kinh doanh đối nội, gồm 3 nhóm: + nhóm tín dụng quốc doanh (tín dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp) + nhóm tín dụng ngoài quốc doanh + nhóm thống kê tổng hợp Ngoài ra có các tổ cho vay đặt tại các phường trong quận. Hoạt động chủ yếu của phòng là cho vay, tiến hành các hoạt động tiếp thị, tổng hợp thông tin và báo cáo.  Phòng kinh doanh đối ngoại thực hiện hoạt động thanh toán với nước ngoài như mở L/C, thông báo L/C, bảo lãnh.., dịch vụ kiều hối, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng, kinh doanh vàng bạc đá quý và các dịch vụ khác.  Phòng kế toán tài chính làm dịch vụ mở tài khoản, quản lý tài khoản, tiền gửi, thực hiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế, hạch toán chi nhánh.  Phòng nguồn vốn làm nhiệm vụ khai thác, huy động các nguồn tiền gửi với 9 Quỹ tiết kiệm đặt rải rác ở các phường trong quận.  Phòng ngân quỹ thực hiện hoạt động thu chi tiền mặt, ngân phiếu và các quỹ tiết kiệm, làm dịch vụ quản lý các chứng từ có giá.  Phòng kiểm soát nội bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh về các mặt hoạt động của Ngân hàng, việc thực hiện các quy định, quy chế của nhà nước, của NHCT Việt Nam.  Phòng tổ chức hành chính làm công tác điều động, thực hiện quản lý nhân sự, hành chính, mua sắm tài sản, trang thiết bị.  Phòng giao dịch Cầu Diễn thực hiện các nghiệp vụ kế toán, tín dụng, kho quỹ. 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình năm 2000
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan