Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tham vấn tâm lý cho một học sinh đồng tính nữ ở trường trung học phổ thông đinh ...

Tài liệu Tham vấn tâm lý cho một học sinh đồng tính nữ ở trường trung học phổ thông đinh tiên hoàng thành phố hà nội

.DOC
64
1062
115

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học: Thạc sĩ. Lê Thị Loan đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô giáo Khoa Giáo dục, Học viện QLGD đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian tôi học tập và thực hiện khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn trường THPT Đinh Tiên Hoàng, thành phố Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình tôi nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Xin được cảm ơn bạn bè, gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ. Hà Nội, tháng 05 năm 2012 Sinh viên Trịnh Thùy Linh Trịnh Thùy Linh 1 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................4 MỞ ĐẦU............................................................................................................5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................8 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU......................................................................8 1.1.1. Các nghiên cứu về tham vấn tâm lý....................................................8 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới.....................................8 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.......................................9 1.1.2. Các nghiên cứu về đồng tính nữ.......................................................10 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới...................................10 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.....................................11 1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN................................................................................13 1.2.1. Tham vấn tâm lý...............................................................................13 1.2.1.1. Khái niệm tham vấn..................................................................13 1.2.1.2. Mục đích của tham vấn tâm lý..................................................14 1.2.1.3. Các hình thức tham vấn tâm lý.................................................15 1.2.2. Đặc trưng của người đồng tính nữ ở độ tuổi THPT..........................16 1.2.2.1. Khái niệm, nguyên nhân...........................................................16 1.2.2.2. Những đặc điểm tâm lý cơ bản của học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT...................................................................................................19 1.2.3. Tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT..........21 Chương 2: QUY TRÌNH TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................................................................24 2.1. ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU............................................................................................24 2.1.1. Môi trường xã hội.............................................................................24 2.1.2. Môi trường học đường......................................................................25 2.2. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU......................................................................................26 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................................................27 2.3.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết.......................................27 Trịnh Thùy Linh 2 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp 2.3.2. Phương pháp quan sát.......................................................................27 2.3.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)..........................28 2.3.4. Phương pháp tham vấn trò chuyện...................................................29 2.3.5. Phương pháp trắc nghiệm.................................................................29 Chương 3: KẾT QUẢ THAM VẤN TÂM LÝ CHO HỌC SINH ĐỒNG TÍNH NỮ Ở TRƯỜNG THPT ĐINH TIÊN HOÀNG..................................31 3.1. XÂY DỰNG CHÂN DUNG GIA ĐÌNH CỦA EM HỌC SINH ĐỒNG TÍNH NỮ Ở TRƯỜNG THPT ĐINH TIÊN HOÀNG................................................................31 3.2. THỰC TRẠNG NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA THÂN CHỦ....................34 3.2.1. Khó khăn tâm lý của thân chủ sau khi công khai là đồng tính luyến ái nữ........................................................................................................35 3.2.2. Khó khăn tâm lý của thân chủ trong mối quan hệ với gia đình........37 3.2.3. Khó khăn tâm lý của thân chủ trong mối quan hệ với bạn bè, với cô giáo chủ nhiệm............................................................................................39 3.2.4. Khó khăn tâm lý của thân chủ trong mối quan hệ với người yêu.....42 3.2.5. Mức độ khó khăn tâm lý của thân chủ..............................................43 3.3. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP THAM VẤN........................................................................45 3.3.1. Tăng cường trách nhiệm của thân chủ đối với bản thân...................45 3.3.2. Khuyến khích các thành viên trong gia đình thể hiện sự đồng cảm với thân chủ bằng hành động...........................................................................45 3.3.3. Tăng cường nhận thức của thân chủ về đồng tính luyến ái..............46 3.3.4. Thay đổi định kiến của bố thân chủ về đồng tính luyến ái...............46 3.3.5. Thay đổi thái độ, cách ứng xử của tập thể lớp và nhà trường đối với người đồng tính luyến ái............................................................................47 3.3.6. Giúp thân chủ xác định lại xu hướng tình dục của bản thân.............47 3.4 TIẾN TRIỂN CỦA THÂN CHỦ.................................................................................48 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................51 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................54 Trịnh Thùy Linh 3 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DASS - 21: LES: NXB: THPT: TV: THCS Trịnh Thùy Linh Thang đo trầm cảm, âu lo, stress - 21 câu Lesbian (Đồng tính nữ) Nhà xuất bản Trung học phổ thông Tham vấn Trung học cơ cở 4 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện tượng đồng tính luyến ái nói chung và đồng tính luyến ái nữ nói riêng cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như căn nguyên nảy sinh hiện tượng. Có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đứng trên nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học để giải quyết vấn đề này như: Tâm lý học, sinh lý học, xã hội học, tính dục học, khoa học giáo dục và cả các nghiên cứu tôn giáo... Tuy nhiên, khi mà các nhà khoa học đang tập trung nghiên cứu vấn đề đồng tính luyến ái nói chung và đồng tính nữ nói riêng thì hiện tượng này đã và đang tồn tại, đấu tranh trong một xã hội "dị tính". Đời sống của người đồng tính luôn phải chịu các tác động tiêu cực từ xã hội và cả tâm lý sợ hãi của bản thân họ do những nhận thức sai lầm và quan điểm kỳ thị vì xu hướng tình dục không phổ biến này. Những vấn đề mà người đồng tính thường gặp có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của bản thân họ như: vấn đề thay đổi xu hướng tình dục đồng tính luyến ái, hội chứng sợ đồng tính luyến ái (homophobia), công khai xu hướng tình dục của người đồng tính. Ở Việt Nam, đồng tính luyến ái không phải là một vấn đề mới nhưng những nghiên cứu nghiêm túc nhất, quy mô nhất lại được diễn ra một cách nhỏ lẻ. Các yếu tố văn hóa, chính trị và hành lang pháp luật của đất nước ta chưa công nhận vấn đề này, điều ấy làm cho vấn đề này trở thành nhạy cảm, khiến nhiều cá nhân và bản thân người đồng tính nói chung và đồng tính nữ nói riêng khó khăn, ái ngại khi đề cập tới. Cho nên, thái độ của gia đình, nhà trường và xã hội đối với người đồng tính luyến ái còn nhiều kì thị, khắt khe, tiêu cực. Cái nhìn của xã hội gây ra rất nhiều trở ngại cho những người đồng tính luyến ái, khiến họ không thể phát triển theo đúng con người thật của bản thân mình. Việc đó khiến họ bị mất cân bằng tâm lý, mặc cảm, thu mình lại sống không đúng với bản thân, với giá trị thật của mình. Vì vậy cần phải giúp người bị đồng tính có cái nhìn đúng đắn về giá trị của bản thân, vượt qua mặc cảm trở thành những con người có ích cho gia đình và xã hội. Tham vấn tâm lý là một bộ môn khoa học đặc thù của khoa học tâm lý nói chung và tâm lý học lâm sàng nói riêng. Đồng thời nó cũng là một hoạt động cụ Trịnh Thùy Linh 5 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp thể đã từng bước giúp đỡ nhiều đối tượng và nhóm đối tượng có thể giải quyết được các khó khăn tâm lý, sang chấn tâm lý, các rối nhiễu tâm lý mà họ gặp phải. Đối tượng hoạt động này cũng vô cùng đa dạng bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị, gia cảnh, giới tính, tôn giáo,.... Tuy vậy, hoạt động tham vấn cho học sinh đồng tính nữ ở các trường THPT lại chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới, vẫn trở thành một vấn đề bỏ ngỏ, chưa được quan tâm nhiều. Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài "Tham vấn tâm lý cho một học sinh đồng tính nữ ở trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng - thành phố Hà Nội". 2. Mục đích nghiên cứu Từ nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng những khó khăn tâm lý của em học sinh đồng tính nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng để đề xuất biện pháp tác động đến thân chủ nhằm góp phần giúp thân chủ xóa bỏ những mặc cảm, tự ti, góp phần tạo điều kiện cho thân chủ hòa nhập với xã hội. 3. Đối tượng, khách thể 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính luyến ái nữ ở THPT Đinh Tiên Hoàng. 3.2. Khách thể nghiên cứu - Em học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng. - Bố mẹ, giáo viên chủ nhiệm, bạn bè, người yêu của em học sinh đồng tính luyến ái nữ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở trường THPT 4.2. Nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý của học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng 4.3. Đề xuất biện pháp tác động đến thân chủ để khắc phục những khó khăn tâm lý tự ti, mặc cảm 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận 5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết 5.2.2. Phương pháp quan sát 5.2.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp Trịnh Thùy Linh 6 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp 5.2.4. Phương pháp tham vấn trò chuyện 5.2.5.Phương pháp trắc nghiệm 6. Phạm vi nghiên cứu Vì thời gian ngắn, điều kiện còn hạn chế. Do đó trong phạm vi đề tài này tôi chỉ chọn nghiên cứu trên 01 học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề xuất thì đề tài bao gồm ba chương cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận. Chương 2: Quy trình tổ chức và phương pháp nghiên cứu. Chương 3: Kết quả nghiên cứu. Trịnh Thùy Linh 7 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các nghiên cứu về tham vấn tâm lý 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới Tham vấn tâm lý từ lâu đã được manh nha và phát triển trong một lịch sử lâu dài qua nhiều giai đoạn khác nhau, có thể kể ra ba giai đoạn như sau: Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: ngành tham vấn tâm lý khởi đầu với các nhà tiên phong triển khai các khái niệm cơ bản theo trường phái phân tâm, các lý thuyết nghiên cứu về quá trình phát triển tâm lý con người và sự ra đời của công tác tham vấn nghề. Có thể kể đến các tác giả sau: + W. Wundt (1832-1920) và F. Galton (1822-1911) với việc phát triển phòng thực nghiệm kiểm tra sự khác biệt về thể chất con người. + G. S. Hall (1846-1924) và J. Cattell (1860-1940) với việc phát triển trắc nghiệm đo nhân cách. + F. Parsons (1859-1908) với hai tác phẩm “Cẩm nang hướng nghiệp” và “Chọn nghề” được xem là có ảnh hưởng lớn nhất đến công tác hướng nghiệp ở Mỹ. Giai đoạn giữa thế kỷ XX: ngành tham vấn tâm lý phát triển mang tính chuyên nghiệp với các phương thức trị liệu đa dạng. + Lý thuyết “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố” của E. Williamson đề xuất các bước của một hoạt động tham vấn (phân tích vấn đề, tiếp xúc, lập hồ sơ, chuẩn đoán, trợ giúp và theo dõi). + C. Rogers với “Tham vấn và trị liệu tâm lý” – tác phẩm được cho là có ảnh hưởng lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp sau này – đã đưa tham vấn tâm lý từ chỗ có định hướng (do ảnh hưởng của việc hướng nghiệp) sang tham vấn tập trung vào thân chủ (phương pháp thân chủ trọng tâm). Bên cạnh những hướng tiếp cận chính trên, thập kỷ 60 của thế kỷ XX đánh dấu sự ra đời của rất nhiều lý thuyết và cách tiếp cận mới như: tiếp cận hành vi của Bandura (1969), phép trị liệu hiện thực của William Glasser (1961-1965), tiếp cận Gestalt của Fritz Perls (1969), tiếp cận ứng xử học của Bern (1964)… Giai đoạn cuối thế kỷ XX đến nay: tham vấn tập trung vào lĩnh vực văn hóa, còn gọi là tham vấn xuyên văn hóa. Vẫn dựa trên nền tảng các lý thuyết tâm lý học, nhưng tham vấn tâm lý Trịnh Thùy Linh 8 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp chuyển sang hướng tiếp cận thân chủ có cân nhắc đến sự khác biệt về văn hóa. “Thế giới của những nhà tham vấn” của E. D. Neukrug đã dẫn ra rất nhiều các giá trị văn hóa cần xét đến trong mối quan hệ tham vấn (ngôn ngữ gốc, quyền hành, trách nhiệm, quan niệm ứng xử, giao tiếp, tôn giáo, gia đình…) của các nền văn hóa khác nhau (người châu Á, người châu Phi, người Mỹ latinh…). 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước Trong giai đoạn khởi đầu của hoạt động tham vấn (cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX), tham vấn được xem là một bộ phận của công tác xã hội. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của ThS. Nguyễn Thị Oanh ở TP. Hồ Chí Minh như: “Tâm lý truyền thông và giao tiếp”, “Tư vấn học đường”, “Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển” (phần “Các hoạt động xã hội và công tác xã hội chuyên nghiệp”), “Tài liệu tập huấn về công tác xã hội”. Các công trình nghiên cứu và hồ sơ tâm lý mà cố BS Nguyễn Khắc Viện và cộng sự của ông ở Trung tâm N-T có thể xem là có vai trò tiên phong trong lĩnh vực tham vấn và trị liệu nói chung, trong đó có tham vấn tâm lý. Năm 1995 – 1996, các khóa tập huấn đầu tiên về tham vấn trẻ em do Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, đặt nền tảng tâm lý tham vấn cho cán bộ làm việc trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em sau này. Các cán bộ giảng dạy (TS. Nguyễn Thị Mỹ Lan, PGS-TS. Trần Thị Minh Đức, TS. Bùi Xuân Mai, cán bộ lãnh đạo ngành Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Hà Nội và Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam) đã biên soạn bài giảng cho lớp tập huấn các lớp tham vấn trẻ em này. Từ cuộc hội thảo đầu tiên tại Hà Nội năm 2002, bàn về thực trạng công tác tham vấn trẻ em, đến nay đã có khá nhiều cuộc hội thảo liên quan đến tham vấn tâm lý, công bố các công trình nghiên cứu, các quan điểm, lý luận và thực hành về tham vấn tâm lý. Có thể kể đến là: + Hội thảo quốc tế về kinh nghiệm trợ giúp tâm lý do trường Đại học KHXH&NV Hà Nội tổ chức 2 lần vào các năm 2003 và 2008. + Hội thảo về tham vấn và trị liệu tâm lý do khoa Tâm lý học – ĐHSP Hà Nội tổ chức năm 2006. + Hội thảo khoa học quốc gia: Tư vấn tâm lý – giáo dục, lí luận, thực tiễn và định hướng phát triển, Tp Hồ Chí Minh, 2006. Trịnh Thùy Linh 9 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp Song song với các nghiên cứu về tham vấn tâm lý nêu trên là sự xuất hiện và phát triển hoạt động của rất nhiều các cơ sở, các trung tâm và dịch vụ tham vấn tâm lý. Ví dụ như Trung tâm tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình (thuộc hội Tâm lý giáo dục học Tp HCM), Trung tâm tư vấn Hướng Dương (thuộc Liên đoàn Lao động Tp HCM), Trung tâm N-T, Công ty tham vấn Share, các đường dây tư vấn 1088 hoặc 1900… 1.1.2. Các nghiên cứu về đồng tính nữ 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association, APA) không đưa ra lý giải khoa học cho hiện tượng đồng tính nói chung và đồng tính nữ nói riêng mà chỉ nêu các dẫn chứng, nghiên cứu để đưa đến kết luận có tính chất hiển nhiên về sự tồn tại của khuynh hướng tình dục đó nhằm loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi các bệnh về rối loạn tâm thần và hướng dẫn xã hội giúp đỡ những người đồng tính luyến ái hòa nhập cộng đồng để có cách nhìn cảm thông hơn với những người này. APA đã loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các triệu chứng và bệnh rối loạn tâm thần vào năm 1973. Đồng thời vào tháng 12/1992, APA đã đưa ra lời kêu gọi thế giới cùng hành động để bảo vệ quyền lợi của những người đồng tính luyến ái: “Xét thấy luyến ái đồng giới tự thân nó không hề hàm chứa việc có hay không sự thiệt hại, tính ổn định, sự tin cậy, trong năng lực xã hội chung hay khả năng tác nghiệp (ở người đồng tính ái), Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ kêu gọi các tổ chức y tế trên thế giới và cá nhân các nhà tâm thần học ở các quốc gia hãy thúc đẩy trên đất nước mình việc bãi bỏ những trừng phạt pháp lý đối với tình cảm và tình dục đồng giới có sự đồng thuận giữa những người trưởng thành. Ngoài ra, APA cũng kêu gọi các tổ chức và cá nhân này hãy thực hiện mọi việc có thể để giảm đi những sỉ nhục có liên quan đến luyến ái đồng giới, ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào”. Hiện nay, các nhà khoa học chưa tìm ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này ở một số người trong xã hội nhưng hầu hết đều cho rằng khuynh hướng tình dục trên chịu sự chi phối của cả yếu tố sinh học và xã hội. Trường phái tâm thần học của Sigmund Freud đưa ra quan điểm: Trong khi hầu hết loài người sinh ra với khuynh hướng tình dục dị giới thì tâm sinh lý, với sự phát triển riêng của mình do Trịnh Thùy Linh 10 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp các yếu tố bên trong và bên ngoài chi phối đã tạo ra hiện tượng đồng tính luyến ái. Kết quả các cuộc nghiên cứu, thống kê và khảo sát của các nhà nghiên cứu tâm thần học, nhi khoa khác đều đi đến kết luận đồng tính luyến ái không phải là sự rối loạn tâm thần mà là một hiện tượng bình thường trong tự nhiên, những người có khuynh hướng tình dục trên hoàn toàn không phải do sự lựa chọn chủ quan của họ. Ngày 17/5/1990 Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã xóa bỏ đồng tính luyến ái nói chung và đồng tính nữ ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Có thể nhận thấy gần như tất cả quan điểm liên quan đến đồng tính (dù trên phương diện khoa học hay tôn giáo) đều thống nhất rằng: trong xã hội thật sự tồn tại một nhóm ít người có khuynh hướng tình dục đồng giới. Đồng tính luyến ái không phải là một bệnh và những người đồng tính cần được sự quan tâm, chia sẻ của xã hội, không nên có các hành vi kỳ thị, xa lánh họ chỉ vì họ là người đồng tính. 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam, một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) về sự kì thị người đồng tính nữ cho thấy: 1,5% đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính; 4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở; 4,5% từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính; 15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính. Một nghiên cứu khác về sức khỏe và tinh thần của người nữ quan hệ với người cùng giới đã đưa ra một số biểu hiện của thái độ kì thị người đồng tính như: định kiến và phân biệt đối xử, lăng mạ và bạo hành thể xác ở gia đình, chê cười tại trường học, sa thải hoặc từ chối tuyển dụng tại nơi làm việc, gây áp lực phải lấy chồng và có con, một số người đồng tính còn kì thị với chính bản thân, coi mình mắc bệnh kinh niên và dị thường, hoặc có suy nghĩ hoặc hành động tự tử. Hội chứng sợ đồng tính luyến ái đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực, đe dọa đời sống tinh thần và sức khỏe người đồng tính khiến cho việc hòa nhập xã hội của họ gặp nhiều khó khăn. Sự gia tăng hay ngầm không phản đối những hành vi kỳ thị trên đồng thời là dấu hiệu đi xuống của đạo đức khi con người mặc nhiên để những điều bất công đó được tồn tại. Các nghiên cứu trong nước đồng quan điểm cho rằng, trên phương diện khoa học người đồng tính nữ được xem như một người bình thường nhưng thực tế Trịnh Thùy Linh 11 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp cuộc sống lại đặt người đồng tính vào những nguy cơ bị xâm hại, đe dọa xâm hại đến đời sống của họ xuất phát từ các thái độ tiêu cực của xã hội. Những định kiến, kỳ thị nêu trên tạo ra sự uy hiếp và đối xử không công bằng với bộ phận người đồng tính trong xã hội – một nhóm người yếu thế, đang chịu những tổn thương nhất định trong việc hòa nhập với cuộc sống thật của mình và với cộng đồng người nói chung. Sự tồn tại của người đồng tính nữ trong xã hội với những khó khăn, thử thách mà họ đang chịu đựng sẽ là các căn cứ quan trọng để đưa ra kiến nghị về việc thừa nhận các quyền cho người đồng tính nữ. Tóm lại, các nghiên cứu về tham vấn tâm lý và đồng tính nữ trên thế giới và trong nước từ trước tới nay đều đi đến khẳng định rằng người đồng tính nữ là một trong những đối tượng cần tham vấn tâm lý trước những sự kì thị và khó khăn khi họ tiếp cận với xã hội. Tuy nhiên, số người đồng tính nữ tìm tới hoạt động tham vấn tâm lý không nhiều, các hoạt động tham vấn tâm lý cho họ cũng gặp nhiều khó khăn trong tính chất đặc thù của hoạt động này. Đối với học sinh đồng tính nữ thì việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn khi các em gặp nhiều khó khăn trên nhiều phương diện khác nhau. Chính vì vậy mà tôi đã lựa chọn việc tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng làm đề tài nghiên cứu cho mình. 1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.2.1. Tham vấn tâm lý 1.2.1.1. Khái niệm tham vấn Tham vấn tâm lý (Counseling Psychology) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15 năm nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt Nam mà trên thế giới, thuật ngữ tham vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó chỉ những hoạt động của những người giúp đỡ thông thường, hoặc của tình nguyện viên, họ được xem là những người làm công tác trợ giúp. Hoặc thuật ngữ này dùng cho những người làm tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ - xã hội, hoặc các trường học với nền tảng kiến thức về tâm lý học, công tác xã hội hoặc các ngành khác. Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ (ACA, 1997) cho rằng: Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khỏe, tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc Trịnh Thùy Linh 12 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý. Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng định nghĩa tham vấn tâm lý của PGS.TS Trần Thị Minh Đức. Theo đó, trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn tự phát và ai cũng có thể tự cho mình là nhà tham vấn khi họ muốn làm công việc trợ giúp người khác thì một định nghĩa về tham vấn đầy đủ hơn có thể phát biểu là: Tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách hàng – người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ). Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. Dù là với khái niệm nào đi nữa, cần khẳng định bản chất của tham vấn tâm lý là hoạt động hay phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ không phải là hoạt động đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường hiểu. Sự trợ giúp ở đây được thể hiện qua việc giúp người có vấn đề hiểu được chính họ, hoàn cảnh của họ, phát huy được tiềm năng, năng lực vốn có của chính mình. Với ý nghĩa này, tham vấn còn có tác dụng giúp đối tượng nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống. Toàn bộ quá trình tham vấn thể hiện ở các giai đoạn hợp tác khác nhau đòi hỏi việc sử dụng các kỹ năng khác nhau của nhà tham vấn. Nhà tham vấn cần có thời gian để hiểu vấn đề của thân chủ và con người thân chủ. Cũng như vậy, thân chủ cần có thời gian để kiểm nghiệm khách quan vấn đề của mình. Quá trình tham vấn hướng tới những kiến thức và nhân cách làm người, gắn với sự trưởng thành của thân chủ và cả nhà tham vấn. Điều này khác hẳn với việc cho lời khuyên, ra quyết định thay cho thân chủ. Và đây cũng là cơ sở chủ yếu để phân biệt tham vấn tâm lý với các loại hình tư vấn, trị liệu khác. Nói tóm lại, quá trình tham vấn tâm lý nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời của mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình, và nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm Trịnh Thùy Linh 13 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ. Quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, dám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình. Vì thế có thể nói tham vấn tâm lý là một quá trình phát triển. 1.2.1.2. Mục đích của tham vấn tâm lý * Mục đích chung + Sứ mệnh của tham vấn tâm lý là hỗ trợ và phát triển. + Đạt được những thay đổi ở người đến tham vấn (thân chủ, khách hàng), những thay đổi ấy có thể diễn ra trong 3 lĩnh vực cơ bản sau: Cảm nhận: tham vấn tâm lý có thể làm thay đổi cách mà khách hàng cảm nhận về vấn đề và bản chất xã hội. Thông thường đây là cái đích đầu tiên mà người ta đặt ra trong quá trình tham vấn, giúp cho khách hàng nhận ra vấn đề, thay đổi cách nhìn nhận của họ. Niềm tin: khách hàng thay đổi niềm tin, xây dựng niềm tin về bản thân và sự phát triển. Tham vấn tâm lý hướng đến việc tạo ra những thay đổi về niềm tin. Thông thường, giai đoạn này trong tham vấn tâm lý thường diễn ra khá dài mới xây dựng được niềm tin cho khách hàng. Kĩ năng và thói quen: tham vấn tâm lý hướng tới việc phát triển khách hàng, tạo những kỹ năng mới để họ đương đầu một cách hiệu quả với các vấn đề của họ, những kỹ năng tận dụng tối đa các cơ hội, giảm thiểu những yếu tố trở ngại trong môi trường, hình thành thói quen ứng xử mới. * Mục đích cụ thể - Giúp thân chủ giảm bớt các cảm xúc tiêu cực trong hoàn cảnh khó khăn và cảm thấy thoải mái khi trò chuyện về nan đề của mình. - Giúp thân chủ tăng thêm hiểu biết về bản thân và hoàn cảnh của họ; giúp thân chủ biết chấp nhận nan đề của mình như nó đang có. - Giúp thân chủ đưa ra các quyết định lành lành mạnh và có khả năng xử lý được nan đề. - Hướng dẫn thân chủ thi hành các quyết định của họ và có khả năng dự phòng các tình huống tương tự xảy ra trong tương lai. Các cá nhân khi có nhu cầu trợ giúp tùy vào các mục đích họ đặt ra mà nhà tham vấn tiến hành hoạt động và xác định thời gian công việc giúp đỡ. Mục tiêu tham vấn luôn luôn được xác định từ thân chủ và nhà tham vấn cần nắm rõ nhu cầu tham Trịnh Thùy Linh 14 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp vấn của thân chủ. Với một số thân chủ, sự trợ giúp đơn thuần chỉ là giải tỏa cảm xúc (đạt mục đích I). Vì vậy, việc lắng nghe thân chủ giải tỏa và sử dụng kĩ năng thấu cảm để thân chủ lấy được tôn trọng, được chấp nhận là đủ. Nhưng với một số thân chủ khác, mục tiêu tham vấn không đơn thuần chỉ là giải tỏa cảm xúc, nhận biết vấn đề của mình, hay biết cách đưa ra các biện pháp đối phó, mà hơn thế nữa họ cần thay đổi hành vi. Do đó, nhà tham vấn phải dành nhiều thời gian và cân nhắc các phương pháp tiếp cận để giúp thân chủ đạt được cả 4 mục tiêu tham vấn của họ. 1.2.1.3. Các hình thức tham vấn tâm lý Trong những năm gần đây, ở Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức tham vấn khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân. Hiện Nay tham vấn là một hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày, được phát triển với nhiều mức độ khác nhau. Chúng ta có thể khái quát vào các loại hình tham vấn tâm lý sau: - Tham vấn trực tiếp - Tham vấn qua thư/báo in - Tham vấn qua đài - Tham vấn qua điện thoại - Tham vấn qua trang wed - Tham vấn qua email 1.2.2. Đặc trưng của người đồng tính nữ ở độ tuổi THPT 1.2.2.1. Khái niệm, nguyên nhân * Đồng tính nữ Xét về góc độ giới tính, ngày nay chúng ta có thể chia thành 4 loại: giới nam, giới nữ, giới thứ 3 (đồng tính nam hoặc đồng tình nữ) và giới thứ 4 (nam-nữ chỉ “gắn bó” về mặt tinh thần chứ không có yếu tố tình dục). Tuy nhiên, có 1 loại mà có thể xem đó là một xu hướng tình dục, đó là người lưỡng tính (có quan hệ tình dục với cả nam và nữ). Những người được gọi là người đồng tính (hay còn gọi là người thuộc giới thứ 3) khi những người này có khuynh hướng thích, yêu và quan hệ tình dục với người cùng giới với mình. Nam với nam người ta gọi là “gay”, nữ với nữ người ta gọi là “les”. Yếu tố tình dục dường như khá quan trọng ở người đồng tính nam (gay). Người đồng tính nam đến với nhau chủ yếu là ham muốn về mặt thể xác. Trịnh Thùy Linh 15 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp Chính vì thế, mối quan hệ này rất lỏng lẻo và rời rạc, thời gian gắn bó của 2 người với nhau là khá ngắn, họ có rất nhiều bạn tình vì thế sự chung thủy là rất hiếm nên nhiều người đồng tính nam (gay) cảm thấy buồn và chán nản vì khó tìm một người chung thủy trong giới của họ. Người đồng tính nam (gay) dễ dàng chấm dứt một mối quan hệ khi nhu cầu về thể xác đã được thỏa mãn. Ngược lại, ở người đồng tính nữ (les) thì lại khác. Yếu tố gắn bó chính trong mối quan hệ này là tình cảm. Vì thế, 2 người nữ lúc đầu chỉ là cảm mến nhau, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, cảm thông vì hoàn cảnh của 2 người khá giống nhau, sống chung với nhau và theo quy luật hình thành tình cảm thì tình cảm này dần lớn lên và phát triển thành tình yêu và có yếu tố tình dục. Vì thế, đồng tính nữ có thời gian gắn bó lâu dài hơn đồng tính nam, tình cảm rất mãnh liệt. Nếu một trong 2 người không muốn tiếp tục vì không còn tình cảm hoặc đến với một người khác thì sẽ bị đối phương níu kéo, theo đuổi ráo riết và thậm chí là giết hại người bạn đời của mình vì không muốn đánh mất hay san sẻ tình cảm đó cho người khác. * Các căn nguyên của đồng tính nữ Xét về nguyên nhân, về cơ bản chúng ta có thể phân đồng tính nữ thành 2 loại: đồng tính nữ có căn nguyên sinh học (nhiều người gọi là “đồng tính nữ thật”) và đồng tính nữ có căn nguyên tâm lý xã hội (nhiều người gọi là “đồng tính nữ giả”). a) Đồng tính có căn nguyên sinh học Trong mỗi người chúng ta, có 2 loại hóc môn giới tính: Testosterone và Oestrogen. Oestrogen hay còn gọi là hóc môn nữ tính, có tác dụng hình thành hình hài người nữ và nữ tính ở người phụ nữ. Nếu là một nữ thực thụ thì lượng Oestrogen không những đủ để hình thành hình hài của người nữ mà còn thể hiện nữ tính của người phụ nữ. Nếu lượng Oestrogen (hooc môn nữ tính) ở người nữ chỉ đủ hình thành hình hài người nữ thôi, chứ không đủ để thể hiện nữ tính, trong khi đó lượng Testosterone (hóc môn nam tính) có khuynh hướng gia tăng quá mức thì người nữ đó sẽ có hình hài là nữ nhưng tính tình, cách hành xử và giọng nói thì mạnh mẽ như con trai, thích tiếp xúc với người nữ hơn và họ nghĩ mình là nam nên tìm một đối tượng là nữ. Vì thế, có hiện tượng là đồng tính nữ (les). Đồng tính có căn nguyên sinh học như đã trình bày ở trên có thể điều trị theo y học bằng cách duy trì việc bổ sung hóc môn và rèn luyện hành vi, thói quen Trịnh Thùy Linh 16 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp trong giao tiếp và thậm chí có thể chuyển đổi giới tính. b) Đồng tính có căn nguyên tâm lý - xã hội Một căn nguyên nữa được lý giải cho hiện tượng đồng tính nữ đó là các căn nguyên tâm lý - xã hội. Đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội là loại đồng tính mà nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố tâm lý xã hội. Sau đây là một số nguyên nhân điển hình: + Mong đợi của bố mẹ về giới tính của con trước khi sinh: Nhiều trường hợp, bố mẹ mong có con trai nên trong giai đoạn thai giáo, việc giáo dục thai nhi được tiến hành theo cách giáo dục cho nam. Khi sinh ra đời, đứa trẻ là một nữ chứ không phải là nam. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn muốn đứa trẻ đó là một người nam chứ không phải là nữ nên cho trẻ mặt đồ của nam, chơi những trò chơi của nam và giáo dục theo cách với nam… Tất cả những điều này dần làm cho trẻ không thể định hướng giới tính của mình một cách chính xác mà bị lệch lạc. Trẻ nghĩ mình là một người nam trong khi thân thể là một người nữ. Vì thế, trẻ có khuynh hướng gần gũi và thích tiếp xúc với nữ hơn và đối tượng trong tình yêu và hôn nhân đó là một nữ. + Gia đình có bố mẹ ly thân/ly hôn: Mặc dầu chưa có số liệu thống kê một cách chính xác, tuy nhiên, qua tiếp cận lâm sàng một số trường hợp đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội cho thấy, hầu hết trẻ nữ rơi vào hoàn cảnh của những gia đình mà bố mẹ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn xung đột, ly thân và ly hôn. Trẻ nữ luôn chứng kiến những bất hòa xảy ra giữa bố mẹ chúng và không thể tin tưởng vào mối quan hệ tình cảm khác giới như mối quan hệ tình cảm của bố mẹ chúng hiện tại. Trẻ nữ có xu hướng làm ngược lại để tránh sự đỗ vỡ như mẹ và bố chúng, đó là tìm đến mối quan hệ đồng giới để được an toàn. + Khủng hoảng về hình mẫu: Trong gia đình, thông thường trẻ nữ có khuynh hướng chọn cho mình một mẫu người mà mình sẽ hướng tới. Hình mẫu của trẻ nữ đó là mẹ, chị gái, bà nội/ngoại, cô, dì, người hàng xóm, hoặc là một nữ diễn viên/ca sĩ mà trẻ thần tượng. Cơ chế bắt chước đã giúp trẻ nữ xây dựng mô hình giới tính của mình theo hình mẫu mà chúng đã lựa chọn. Tuy nhiên, vấn đề sẽ khác khi trẻ bị khủng hoảng về hình mẫu. Người mẹ trong gia đình không phải là hình mẫu cho trẻ hướng đến bởi vì người mẹ thì nghiện ngập, ngoại tình, đánh đập và hành hạ con cái, sống ích kỷ…làm cho trẻ nữ không tin tưởng, hoài nghi về bố mẹ, thậm chí là ghét/căm thù người mẹ. Trẻ nữ cũng không chọn được ai để làm Trịnh Thùy Linh 17 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp hình mẫu cho mình, vì thế trẻ có khuynh hướng làm ngược lại bằng cách chứng minh mình có thể làm người đàn ông tốt (trong khi thân thể của mình là nữ). + Ảnh hưởng của tuổi thơ: Trẻ nữ bị bạn bè trêu chọc là "pê-đê" khi còn nhỏ hoặc bị người đồng tính nữ lạm dụng tình dục hay cưỡng hiếp. + Tính tò mò của tuổi trẻ và bạn bè xấu rủ rê: Nhiều bạn nữ bước vào thế giới đồng tính chỉ vì bị bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo hay vì tò mò, muốn khám phá, trải nghiệm cái mới mà mọi người đang theo thử xem nó như thế nào nhưng khi bước vào rồi thì không có đường ra. Đây là nguyên nhân chính mà giới trẻ nói chung và nữ giới lứa tuổi THPT hiện nay bước vào thế giới thứ 3 theo trào lưu mới và không cân nhắc những tai hại đáng tiếc có thể xảy ra. Đây là những trẻ đáng trách hơn là đáng thương. 1.2.2.2. Những đặc điểm tâm lý cơ bản của học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT Nhìn chung học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT thường có những đặc điểm tâm lý sau: * Về trạng thái xúc cảm, tình cảm Họ đã trải qua các rối loạn trong quá khứ thường bộc lộ các triệu chứng như dễ nôn nóng bất an, hay có cảm xúc phiền muộn, mất ngủ, kém tập trung, thường có trạng thái kích động, trí tuệ kém, dễ mệt mỏi, căng cơ hay choáng váng, thu gọn, cuộn tròn mình lại, dễ dẫn đến trầm cảm, lo âu. Họ thường có mặc cảm có lỗi, hay giận dữ và có ác cảm với người khác – hay hoài nghi thiếu tin tưởng, khó diễn tả cảm xúc bằng lời do muốn đè nén tâm trạng và cũng ít bao giờ khuyến khích nói về mình và thường không đủ ngôn từ để diễn tả tâm trạng của mình vào lúc đó. * Về tính cách Họ thường có những biểu hiện về mặt tính cách như sau: + Mất đi sự ham thích và sinh lực: Họ dễ đau khổ, lo lắng hoặc sợ sệt, có thể ngồi im một chỗ suốt ngày, không ham thích một hoạt động nào. + Ít tập trung và hay bứt rứt: Họ dễ buồn bã, lo lắng nên thường khó tập trung, đôi khi căng thẳng quá thì lại trở nên hiếu động, chạy nhảy lăng xăng và dễ bị kích động. + Hung hăng, phá phách: Họ dễ có thái độ hung hăng, phá phách vì họ khó diễn tả cảm xúc bằng lời, họ thích đánh nhau khi họ cảm thấy căng thẳng, tức giận hoặc sợ hãi, họ thường bắt chước những hành vi hung bạo vì họ từng là nạn nhân Trịnh Thùy Linh 18 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp của những hành vi bạo lực tinh thần hay thể xác. + Không nói thật: Vì họ thường ước mơ một hoàn cảnh khác, tránh né những hoàn cảnh trong thực tế hay cố gắng lấy lòng người khác (nói những gì họ muốn nghe) nên họ dễ nói dối (có khi cho đó là chuyện bình thường) và cũng không muốn tiếp xúc để phải bộc lộ. + Có tính đa nghi: Họ thường không tin vào người khác nếu đã từng bị đối xử hung bạo. Tuy nhiên, những học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT có khi bám chặt vào người khác, nhất là người bạn giống như họ vì sợ bị bỏ rơi. + Họ khó tính và dễ nổi nóng: Dưới vẻ chịu đựng và chấp nhận, họ rất khó kết bạn và có nhiều sự đòi hỏi đôi khi khá cực đoan. + Họ thiếu khả năng diễn đạt: Họ không phải lúc nào cũng có thể nói về tâm trạng của mình, có thể vì quá bối rối hay sợ hãi nên khó xác định được tâm trạng của mình hoặc không biết cách diễn tả. * Về kĩ năng sống Có thể thấy đặc điểm rõ nhất về tâm lý là học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT hầu như không có hay rất ít kĩ năng sống trước những nạn bạo lực học đường, kì thị và tệ nạn của xã hội, mà lại biểu hiện chính là: + Không quý trọng bản thân: Họ có những nhận thức tiêu cực về cách sống vì thế không có sự trung tín, dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội, thường có những quan hệ tình dục đồng giới sớm và luôn nhìn những sự quan tâm chăm sóc người khác với mình dưới ánh mắt nghi ngại. + Không xây dựng được định hướng: Họ không có một suy nghĩ hay lựa chọn hợp lý nào cho tương lai, họ không tin vào năng lực bản thân mình, thiếu sự khoan dung nên thường cho người khác xấu xa và có ác ý với mình nên cũng không tin tưởng những định hướng mà người khác đưa ra với mình. + Thiếu sự tự tin và bản lĩnh: Có một số người trong số họ tỏ ra lanh lợi nhưng đó chỉ là trong những ứng xử mang tính bề ngoài, hay chỉ biết những kĩ xảo để đem lại quyền lợi trước mắt cho những nhu cầu vật chất của mình mà không nghĩ đến những ích lợi lâu dài hơn. Đây là một thách thức lớn cho các hoạt động đưa họ trở lại hòa nhập với cộng đồng. + Thiếu sự linh hoạt và thích nghi: Họ thường cho rằng, mình buộc phải làm những điều mà người khác không muốn mình làm vì quyền lợi của họ chứ không phải cho mình, và vì thế họ không có được sự linh hoạt và chủ động mà Trịnh Thùy Linh 19 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A Khoá luận tốt nghiệp thường có thái độ nói gì nghe nấy, chỉ gì làm nấy, thiếu sáng tạo và tìm tòi để có thể đạt được những kết quả tốt hơn, đây cũng là một trở ngại mà những người làm công tác giáo dục cho họ phải vượt qua. + Không có khả năng từ chối: Nói chữ "không" là điều có vẻ như đơn giản, nhưng thực sự khó khăn với một số người và đặc biệt đối với học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT, vì thế khi tiếp cận với những nhu cầu vật chất hay những lời đề nghị đường mật, những lời đe dọa… thì họ ít có năng lực phản đối mà thường cúi đầu chấp nhận để rồi rơi vào những trạng thái nặng nề, dằn vặt bản thân mình hay có khi không đánh giá được những hậu quả để lại cho sự nhu nhược của mình. Mặc dù vậy, ở học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT cũng có những năng lực như sự cần cù, chịu khó – chấp nhận những thực tế, ít mơ mộng và có những em có những nghị lực, ý trí vượt qua những kì thị, nạn bạo lực học đường, để tìm cách để vươn lên, cố gắng hòa nhập với trường lớp và cộng đồng. Các em này thường tỏ ra chững chạc, trưởng thành trước tuổi, có ý thức trách nhiệm trong công việc và rất chịu khó học tập. 1.2.3. Tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT Cần nhấn mạnh rằng học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT là đối tượng được xếp vào nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cùng với những nhóm đối tượng có khó khăn về tâm lý khác như: học sinh đồng tính nam ở độ tuổi THPT, trẻ bị lạm dụng tình dục, trẻ chịu các sang chấn tâm lý, trẻ bị bạo lực học đường, trẻ có hoàn cảnh khó khăn khác... Do đặc thù của một cuộc sống gặp nhiều sự kì thị và hoài nghi, bản thân họ rất dễ gặp những vấn đề về tâm lý, nên họ luôn có nhu cầu được giúp đỡ, trong đó có nhu cầu được tham vấn tâm lý. Từ những kết luận trên chúng ta có thể hiểu hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở trường THPT như sau: Đó là một quá trình tương tác giữa tham vấn viên (trong các phòng tham vấn học đường ở trường THPT) với học sinh đồng tính nữ ở trường THPT. Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), học sinh đồng tính nữ ở trường THPT hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. * Tiến trình tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ Trịnh Thùy Linh 20 Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan