LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình tiến hành tố tụng, giai đoạn xét xử chiếm vị trí rất quan
trọng. Bởi các giai đoạn khác có đạt được hiệu quả hay không có vai trò rất
lớn ở công tác xét xử tại tòa án. Việt Nam ghi nhận và đảm bảo thực hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Trong đó, xét xử sơ thẩm được quy định chặt chẽ từ thẩm quyền xét xử,
chuẩn bị xét xử, những quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa cho
đến khi xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Nói riêng vấn đề
thẩm quyền xét xử sơ thẩm được quy định rất cụ thể trong chương XVI Bộ
luật tố tụng Hình sự 2003 (BLTTHS 2003).
Hiện nay, pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm được quy định khá
phù hợp với thực tiễn cũng như năng lực xét xử của Tòa án nước ta. Tuy
nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ quan, các quy định của luật tố
tụng Hình sự vẫn còn nhiều hạn chế và rất cần có những đề suất đổi mới và
hoàn thiện nó. Nhằm góp phần đem lại những hiểu biết sâu sắc hơn nữa về
vấn đề này, em xin lựa chọn đề bài số 10: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.” làm đề tài
bài tập học kì của mình.
BÀI LÀM
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam.
1. Khái quát chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Tòa án.
Theo từ điển Luật học, thẩm quyền xét xử là: “sự phân định thẩm
quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau”. Theo giáo trình luật Tố
tụng hình sự (TTHS) trường Đại học Luật Hà Nội: “Thẩm quyền xét xử sơ
thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định
của pháp luật”.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phân định theo những
căn cứ sau: căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng; các nguyên tắc cơ bản
của TTHS; tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng; số lượng cán bộ và cơ sỏ vật chất
của cơ quan tiến hành tố tụng và căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm 1. Dựa trên những căn cứ này, pháp luật hiện
hành phân định thẩm quyền của Tòa án như sau:
- Thẩm quyền xét xử theo sự việc: là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng: là sự phân định thẩm quyền xét
xử giữa Tòa án nhân dân (TAND) và Tòa án quân sự (TAQS) căn cứ vào tính
chất của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: là sự phân định thẩm quyền xét xử
căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.
1()
Xem: Nguyễn Văn Huyên, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2002
1
2.1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
a. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực.
Theo quy định tại khoản 1 điều 170 BLTTHS 2003 thì:
“Điều 170. Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ
thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây :
A) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
B) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh;
C) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219,
221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ
luật hình sự.”
Như vậy, theo khoản 1 Điều 170, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của TAND huyện và TAQS khu vực bao gồm các loại tội phạm ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất
được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi 2009 (BLHS) là 15 năm tù,
trừ trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170. So với quy định
của BLTTHS 1988, thầm quyền xét xử sơ thẩm quy định theo hướng tăng
cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện. Đây cũng là một biện pháp
giảm lượng án tồn đọng ở TAND cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm TAND tối cao,
là một bước cải cách phù hợp với chuyên môn, cơ sở vật chất của ngành Tòa
án.
Việc mở rộng thẩm quyền cho TAND huyện xuất phát từ lí do sau: một
là, các Thẩm phán ở Tòa cấp huyện đã được nâng cao trình độ chuyện môn
nghiệp vụ hơn so với trước đây, có khả năng xét xử các vụ án mà mức hình
phạt cao nhất đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống. Hai là, việc tăng thẩm
quyền này giảm lượng án tồn đọng ở TAND cấp tỉnh, dảnh thời gian cho Tòa
2
cấp tỉnh giải quyết các vụ án phức tạp, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Ba là, cơ sở vật chất của Tòa án cấp huyện phần nào đã được cải thiện nâng
cấp. Số lượng biên chế thẩm phán ổn định cũng chính là lí do giúp cho ngành
Tòa án làm việc tốt hơn. Bốn là, giảm bớt được chi phí và thời gian tiến hành
tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa vì lí do vắng mặt của người tham
gia tố tụng. Năm là, một trong những mục đích của việc xét xử là giáo dục
quần chúng nhân dân chấp hành đúng pháp luật, và việc xét xử ở Tòa cấp
huyện có thể thực hiện tốt mục đích này.
b. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và TAQS quân
khu.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ Luật TTHS 2003, “Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ
án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử”.
Như vậy, có thể thấy TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc
thẩm quyền của TAND cấp huyện và TAQS khu vực có thẩm quyền. Đó là
những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà mức cao
nhất của khung hình phạt là 15 năm tù, hoặc những vụ án không thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp dưới quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170.
Thứ hai, TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu có thể lấy những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới lấy lên để xét xử. Những vụ án cần lấy
lên cấp trên pháp luật chưa quy định rõ và giải thích trường hợp nào phải lấy
để giải quyết. Trong thực tế, TAND cấp tỉnh và TAQS quân khu lấy những vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới trong trường hợp là:
- Những vụ án có tính chất phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá
thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành)
3
- Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an,
cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc
trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.2
2.2 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử
của các tòa án căn cứ vào những dấu hiệu địa điểm nhất định. Thẩm quyền
này của các tòa án được quy định tại Điều 171, 172 BLTTHS 2003.
Theo đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về tòa án nơi có tội phạm
được thực hiện. Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội
phạm được thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng tiết
kiệm được thời gian hơn trong việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập
chứng cứ, triệu tập người làm chứng hoặc những người liên quan trong vụ án.
Mặt khác, việc xử lý vụ án nơi tội phạm được thực hiện cũng đảm bảo tốt hơn
sự có mặt của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc
không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì tòa án nơi kết thúc điều tra có
thẩm quyền xét xử. Ví dụ: một người chuyên hành nghề trộm cắp trên các
chuyến tàu, thời điểm phạm tội và địa điểm phạm tội thường không thể xác
định được, vậy áp dụng nguyên tắc này thì tòa án nơi tội phạm được phát
hiện, nơi bị cáo cư trú hoặc bị bắt có thẩm quyền xét xử (xác định dựa vào
thẩm quyền điều tra).
Riêng đối với “tòa án quân sự quân chủng hoặc tổ chức tương đương
có tổ chức tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm không phụ thuộc vào
nơi thực hiện tội phạm, nếu người phạm tội thuộc đơn vị của quân chủng
hoặc tổ chức tương đương, hoặc tội phạm gây thiệt hại trực tiếp cho quân
chủng hoặc tổ chức tương đương( 3)”. Nếu không xác định được nơi thực hiện
tội phạm hoặc trong nhiều trường hợp có nhiều bị can thuộc nhiều đơn vị
2()
Xem: Thông tư 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao –
Bộ tư pháp – Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS 1988.
4
khác nhau hay tội phạm đó được thực hiện ở nhiều nơi, nếu Viện kiểm sát
quân sự truy tố bị can trước tòa án quân sự nào thì tòa án quân sự đó có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm.
Ngoài ra, Tòa án cấp trên (trừ Tòa án nhân dân tối cao – theo quy định
tại điều 20 Luật tổ chức TAND 2002) của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa
án quân sự khu vực có thể xét xử sơ thẩm, căn cứ vào một số quy định sau:
- Theo quy định tại khoản 2 điều 171: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài
nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng
của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối
cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định
của Chánh án Tòa án quân sự trung ương”.
Theo như quy định trên đây thì khi bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu
xét xử ở Việt Nam thì bất kể bị cáo phạm tội gì (kể cả tội thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực) thì đều thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu trở
lên. Còn nếu bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự thì tòa án
quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm theo quyết định của Chánh án tòa án
quân sự trung ương.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp tội phạm xảy ra trên tàu
bay, tàu biển của Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải
Việt Nam thuộc về tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu
tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký. Quy định này là hoàn toàn
3()
Xem: Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công, “ Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự”, Nhà xuất bản
Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008 tr. 110
5
phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như quy tắc chung của Công pháp quốc tế.
Máy bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoạt động ở không phận hoặc
lãnh hải nước ngoài vẫn được xem là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy
tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của Việt Nam phải do tòa án Việt Nam
xét xử.
Trong trường hợp chuyển vụ án không thuộc thẩm quyền của mình cho
Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm
vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết
định. (Điều 174 BLTTHS 2003).
2.3. Thẩm quyền theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội. Nhìn
chung, việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng được quy
định theo nguyên tắc: những vụ án nào không thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.
Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: “Các
Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân
dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng
chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ
chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn
vị quân đội trực tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều
này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân
đội”.
Điều 4 pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: “Đối với
những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm
tội của họ đã được thực hiện trong thời gian phục vụ trong Quân đội hoặc
những người đang phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội
6
của họ đã được thực hiện trước khi vào Quân đội, thì Toà án quân sự xét xử
những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân
đội; những tội phạm khác do Tòa án nhân dân xét xử”.
Điều 5 pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: “Trong
trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau:
1. Trong trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những
bị cáo và tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 3 và Điều 4 của Pháp lệnh
này; những bị cáo và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân;
2. Trong trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử
toàn bộ vụ án”.
Theo các quy định trên đây thì, quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân
đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Trường
hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét
xử riêng thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc
thẩm quyền của mình. Những người không còn phục vụ trong quân đội mà
phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội;
hoặc những người bị phát hiện là phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự về những tội phạm liên quan đến bí mật
quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do Tòa án
nhân dân xét xử.
Thẩm quyền xét xử đối với thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật
quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội được xác định tùy từng trường hợp cụ
thể. Nếu vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí mật quốc
phòng như địa điểm, thiết bị, kế hoạch quân sự… thì Tòa án quân sự xét xử.
7
Những việc phạm tội khác, Tòa án quân sự có thể chuyển vụ án cho Tòa án
nhân dân. Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét và quyết định.
Ngoài ra, có một lưu ý là Theo quy định tại Điều 26, 29 Pháp lệnh tổ
chức Tòa án quân sự 2002 thì các vụ mà bị can, bị cáo khi phạm tội có cấp
bậc từ thượng tá trở lên, có chức vụ từ đoàn trưởng và tương đương trở lên
thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS cấp quân khu mà không phụ thuộc vào
loại tội được thực hiện thuộc loại nào. Các vụ án còn lại thuộc thẩm quyền
của TAQS khu vực.
II. Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
1. Những kết quả đạt được.
Sau hơn bảy năm chính thức được thi hành, Bộ luật TTHS 2003 đã
đóng góp quan trọng cho thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là
các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Có thể điểm qua một số kết quả
quan trọng sau đây:
Thứ nhất, việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp
huyện bước đầu có những kết quả đáng khích lệ. Án tồn đọng cũng như khối
lượng công việc cho các cơ quan tòa án cấp trên có chiều hướng giảm.
Nhờ sự mở rộng thẩm quyền mà đã làm giảm đi áp lực về thẩm quyền
xét xử phúc thẩm không chỉ cho các tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn cho tòa
án nhân dân tối cao để tòa án nhân dân tối cao có thể tập trung vào chức năng
giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử, v.v..
Thứ hai, Bên cạnh đặt ra chỉ tiêu cho các tòa án cấp huyện , chúng ta
cũng có nhiều biện pháp nâng cao năng lực cán bộ cũng như cơ sở vật chất,
đáp ứng yêu cầu cơ bản trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho công tác xét xử.
Ngoài ra, Việc thực hiện chủ trương tăng cường thẩm quyền xét xử cho
các tòa án cấp huyện đã tạo ra sự chuyển biến về nhận thức cho các cấp ủy
Đảng và chính quyền địa phương. Từ đó, có sự quan tâm hơn đối với hoạt
8
động trọng ngành tòa án nhân dân nói chung và các tòa án nhân dân cấp
huyện nói riêng.
2. Những bấp cập, vướng mắc khi áp dụng quy định luật Tố tụng
Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khi áp dụng các quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm BLTTHS còn một số vướng mắc bất cập sau:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 170 BLTTHS 2003 quy định TAND tỉnh và
TAQS quân khu có thể lấy những vụ án thuộc thẩm quyền của cấp dưới lên
xét xử. Tuy nhiên hiện nay chưa có bất kì một văn bản nào hướng dẫn về
trường hợp này. Quy định chung chung như vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện trong
áp dụng và trong thực tế sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do việc
khi chuyển vụ án từ cấp dưới sẽ phải làm lại cáo trạng truy tố. Mặt khác, việc
không quy định cụ thể và chưa có sự giải thích hướng dẫn nên việc nhận thức
và áp dụng trong thực tế sẽ khó có sự thống nhất và mỗi nơi sẽ có một cách
vận dụng riêng, có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết nhanh chóng vụ án.
Thứ hai, Bộ luật TTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm
trọng mà Toà án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170
(21 tội phạm cụ thể). Do đó, án tồn đọng của các vụ việc này vẫn còn tương
đối nhiều.
Thứ ba, khi Tòa án thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì
phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Thế nhưng BLTTHS chưa có
quy định cụ thể hay văn bản dưới luật hướng dẫn về thủ tục chuyển vụ án cho
tòa án có thẩm quyền.Vì vậy khi áp dụng còn thiếu tính thống nhất.
Thứ tư, mặc dù BLTTHS 2003 đã sửa đổi bổ sung về việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền, nhưng thực tiễn xét xử vẫn có một số trường hợp giữa
Viện kiểm sát và Tòa án không thống nhất với nhau về thẩm quyền xét xử, nên
vụ án đã không được giải quyết đúng thẩm quyền. Ví dụ trường hợp vụ án thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhưng Viện kiểm sát tỉnh
9
không truy tố nên vụ án không thể đưa ra xét xử. Hoặc có trường hợp vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án khác cùng cấp (huyện) nhưng khi Tòa án
thực hiện việc chuyển vụ án cho cho Tòa án có thẩm quyền xét xử thì Viện kiểm
sát cùng cấp không thay đổi cáo trạng nên Tòa án không thể xét xử được. Sở dĩ
như vậy là vì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền pháp luật mới chỉ đề
cập đến giải quyết tranh chấp giữa các tòa án theo quy định tại Điều 175 Bộ
luật TTHS mà chưa có quy định đối với việc thống nhất thẩm quyền giữa tòa
án và viện kiểm sát.
Thứ năm, Bộ luật TTHS 2003 không quy định trực tiếp phân biệt thẩm
quyền xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự mà việc này chỉ được
quy định tại Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 là một văn bản có hiệu
lực pháp lý thấp hơn. Từ đó, dẫn tới việc không phân định được rõ ràng mà
đặc biệt là đối với các vụ án liên quan đến cả hai hệ thống tòa án này.
Theo Điều 5 của Pháp lệnh trên thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân, vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của tòa án quân sự thì tòa án nhân dân xét xử tội phạm thuộc thẩm
quyền của tòa án nhân dân, tòa án quân sự xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền
của tòa án quân sự. Trường hợp không tách được vụ án thì tòa án quân sự sẽ
xét xử toàn bộ vụ án. Như vậy, dẫn tới việc mâu thuẫn với chính Điều 117 Bộ
luật Tố tụng hình sự: “chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần
thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với toàn bộ các tội phạm
và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan,
toàn diện của vụ án”.
Thứ sáu, hiện tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng
đối với việc xác định thẩm quyền xét xử của các vụ án có yếu tố nước ngoài.
Bộ luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử trong các trường hợp bị cáo
phạm tội ở nước ngoài còn các vụ án liên quan đến yếu tố nước ngoài khác:
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… là người nước ngoài; tội
phạm thực hiện cả nước ngoài và trong nước... thì không có quy định. Điều
10
này dẫn tới việc các cơ quan tiến hành tố tụng hết sức lúng túng trong việc
điều tra, truy tố, xét xử.
Có thể nói một trong những nguyên nhân tác động tới việc xét xử còn
nhiều vướng mắc chính là do các quy định pháp luật trong Bộ luật TTHS
cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, còn tồn tại nhiều vấn
đề chưa được đề cập, giải quyết tạo thành những “lỗ hổng”, giảm hiệu lực
cũng như gây nhiều vướng mắc cho thực tiễn thi hành. Điều này đã đặt ra yêu
cầu phải có những phương hướng khắc phục nhằm hoàn thiện các quy định
của Bộ luật TTHS.
3. Một số đề suất hoàn thiện quy định của Luật Tố tụng Hình sự về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Thứ nhất, BLTTHS hạn chế nhiều trường hợp vụ án hình sự mà tòa án
cấp huyện không được xét xử tại khoản 1 Điều 170, đó chủ yếu là các tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Xuất phát từ thực tiễn
là năng lực thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan
tiến hành tố tụng ở cấp huyện nói riêng đã được nâng cao rất nhiều so với thời
điểm BLTTHS có hiệu lực thi hành. Do đó, đối với các tội phạm quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS, trong thời điểm hiện tại, các Toà án
cấp huyện đã có khả năng xét xử hầu hết các tội phạm này, vì vậy chỉ nên quy
định Toà án cấp huyện không được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 điều
luật sau thay vì 21 Điều như hiện nay đó là Điều 172; 216; 217; 218; 219;
221; 222; 223; 263.
Thứ hai, Bộ luật TTHS nên quy định cụ thể trường hợp nào tòa án
nhân dân cấp tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu được lấy những vụ án thuộc
thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án quân sự cấp khu vực lên để
xét xử, như vậy sẽ tránh được sự tùy tiện.
Thứ ba, Theo quy định tại đoạn 3 Điều 171, trường hợp bị cáo phạm
tội ở nước ngoài bị đưa về nước xét xử, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định
11
của Chánh án Tòa án quân sự trung ương. Quy định này là chưa chính xác.
Bởi hiện nay theo quy định của BLTTHS không có một cấp TAQS nào cao
hơn TAQS cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cả, vì ngay từ năm
2000 chúng ta bỏ quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm đông thời trung
thẩm của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao và tòa án quân sự trung ương.
Do vậy, em kiến nghị bỏ hai từ trở lên ở đoạn này. Ngoài ra, cũng cần quy
định rõ về thẩm quyền của tòa án nào được xét xử những trường hợp vụ án có
liên quan đến yếu tố nước ngoài như: bị can, bị cáo là người nước ngoài, tội
phạm xảy ra ở trong nước và nước ngoài, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự là người nước ngoài… nhằm thống nhất trong giải quyết giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ tư, cần giải quyết mối quan hệ giữa tòa án với viện kiểm sát trong
trường hợp không thống nhất được về thẩm quyền theo việc. Chúng ta nên
quy định ngay từ đầu giai đoạn điều tra, truy tố: Viện kiểm sát truy tố không
đúng thẩm quyền phải chuyển hồ sơ, phải thay đổi bản cáo trạng chứ không
phải đến khi xét xử mới đề ra vấn đề không thuộc thẩm quyền theo việc.
Trường hợp không nhất trí với quyết định của tòa án thì viện kiểm sát có
quyền báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên.
Thứ năm, về quy định tại Điều 172 đối với tội phạm xảy ra trên tàu
bay, tài biển, khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam, Bộ
luật TTHS hiện hành quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nơi có sân
bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc Tòa án
nơi tàu bay, tàu biển đó đăng ký. Quy định như vậy dễ dẫn đến việc tranh
chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa các Toà án nói trên. Hơn nữa, khi sự việc
xảy ra thường mang tính khẩn cấp, việc quy định cả Toà án nơi đăng ký tàu
bay, tàu biển có thẩm quyền xét xử chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, thu thập chứng cứ và không đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời đối
với vụ án. Do đó, chỉ cần quy các tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận
12
hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án Việt Nam, nơi
có sân bay hoặc bến cảng trở vể đầu tiên ở trong nước.
Thứ sáu, bổ sung quy định đối với quy định phân biệt thẩm quyền xét
xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đặc
biệt là quy định rõ về đối tượng xét xử của hai loại tòa án này. Tránh tình
trạng việc phân định thẩm quyền chỉ được đề cập tại một văn bản có hiệu lực
pháp lý thấp hơn (Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự), trong khi việc phân
định thẩm quyền xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự luôn có những
vấn đề đáng quan tâm.
KẾT LUẬN
Xét xử là giai đoạn cực kỳ quan trọng của tố tụng hình sự, qua bản án
của Tòa án trong giai đoạn này sẽ quyết định số phận pháp lý của bị cáo là có
tội hay không có tội. Chính vì vậy việc quy định thẩm quyền xét xử phải được
quy định hết sức chặt chẽ ngay từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, quy định về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm càng chặt chẽ, hợp lý bao nhiêu thì càng tránh được tình
trạng xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Các quy định của Bộ luật tố tụng
năm 2003 về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là tương đối phù hợp với
thực tiễn, tuy nhiên không phải là không có những điểm bất hợp lý, vì vậy
13
trong thời gian tới hy vọng các nhà làm luật sẽ khắc phục những điều này và
quy định hợp lý hơn để Tòa án có thể xét xử đúng người đúng tội, không bỏ
lọt tội phạm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà
Nội- Nxb Tư pháp, Hà Nội 2006.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.
3. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
4. Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002.
14
5. Thông tư liên tịch số 01/TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BQP- BCA
ngày 18 tháng 4 năm 2005 Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự.
6. Nghị quyết 24/ 2003/QH11 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự
2003.
7. Luận văn thạc sĩ luật học, Trần Thị Lê Na, “Hoàn thiện quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của tòa án nhân dân các cấp”, Hà Nội,
2009.
8. Trường Đại học luật Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp Nhâm thị Thúy,
“thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo quy định của luật Tố tụng Hình
sự Việt Nam”, Hà Nội 2010.
9. Trường Đại học luật Hà Nội, luận án Thạc sỹ Luật học Đàm Văn
Dũng, “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp”, Hà Nội
1998.
10. Thông tư 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao –
Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp – Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTHS 1988.
11. Nguyễn Văn Huyên, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2002.
12. Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công, “ Trình tự, thủ tục giải quyết
vụ án hình sự”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008 tr. 110.
13. Nguồn tin trên Internet.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………..……………………………….........01
BÀI LÀM…………………………..…………………………..……………02
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.…………………………..…………………02
1. Khái quát chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
15
vụ án hình sự của Tòa án.…………………………..………………………..02
2. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.………………………………………...03
2.1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc.…………………………..……………03
a. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện và Tòa án quân sự khu vực.…………………………..………………03
b. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp
tỉnh và TAQS quân khu.…………………………..…………………………04
2.2 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.……………………………………….05
2.3. Thẩm quyền theo đối tượng…………………………..…………………07
II. Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm.…………………………..…………………………………..09
1. Những kết quả đạt được.…………………………..………………………09
2. Những bấp cập, vướng mắc khi áp dụng quy định
luật Tố tụng Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.……………………….10
3. Một số đề suất hoàn thiện quy định của Luật
Tố tụng Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.……………………………12
KẾT LUẬN…………………………..…………………………..………….15
16
- Xem thêm -