Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thẩm quyền của tòa án trong tư pháp quốc tế...

Tài liệu Thẩm quyền của tòa án trong tư pháp quốc tế

.PDF
111
651
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUỐC TUẤN THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Trung Tín HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Trang Mở đầu Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ 1.1. 1.1.1. Khỏi niệm thẩm quyền của Toà ỏn trong Tƣ phỏp Quốc tế Khái niệm thẩm quyền của Toà án 1.1.1.1. Khỏi niệm thẩm quyền 1.1.1.2. Thẩm quyền của Toà án 1.1.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp Quốc tế 1.1.2.1. Khái niệm Tư pháp Quốc tế 1.1.2.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp Quốc tế 1.1.3. Các đặc điểm chính của thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp Quốc tế 1.1.3.1. Chủ thể giải quyết các vụ việc trong Tư pháp quốc tế là Toà án của quốc gia có thẩm quyền 1.1.3.2. Căn cứ pháp lý xác định thẩm quyền không chỉ bó hẹp trong luật quốc nội 1.1.3.3. Có quyền áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của quốc gia khác 1.1.3.4. Có quyền công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam 1.1.3.5. Có quyền ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước ngoài và thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của nước ngoài cho Việt Nam 1.2. Tiêu chí xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp Quốc tế 1.2.1. Các tiêu chí xác định thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế ở một số quốc gia 1.2.2. Các tiêu chí xác định thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp 1 5 5 5 5 8 11 11 14 16 16 19 21 23 24 26 26 28 1.2.3. quốc tế theo các Điều ước quốc tế Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế 33 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ 38 Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế 38 2.1. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. trƣớc thời điểm Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế từ khi có Bộ luật tố tụng dân sự Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Thẩm quyền công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định 50 50 65 của Trọng tài nước ngoài và tương trợ tư pháp 2.3. 2.3.1. 2.3.2. Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế theo các Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên Đối với yêu cầu tuyên bố một người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi Đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc chết và 72 73 73 2.3.4. xác nhận sự kiện chết Đối với tranh chấp về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng Đối với vụ việc ly hôn và công nhận hôn nhân vô hiệu 2.3.5. 2.3.6. 2.3.7. Đối với quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái Đối với tranh chấp về cấp dưỡng Đối với yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi 75 2.3.8. 2.3.9. 2.3.10. Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng Đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Đối với tranh chấp về thừa kế tài sản 76 2.3.3. 74 74 75 75 76 77 2.3.11. 2.3.12. Đối với tranh chấp về lao động Về ủy thác tư pháp, công nhận và thi hành quyết định 77 77 Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ 84 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp Quốc tế Bối cảnh quốc tế Chủ trương của Đảng và Nhà nước là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về phân định thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp Quốc tế Tình hình thực tế của Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp Quốc tế Các giải pháp chung Hoàn chỉnh các tiêu chí xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế Ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức của cán bộ, công chức ngành Tòa án Cần có quy định, cơ chế cụ thể trong việc phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan Cải thiện từng bước cơ sở vật chất và hoàn thiện tổ chức của ngành Tòa án Phân công các Thẩm phán chuyên trách giải quyết các vụ án, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 3.1. 3.1.1. 3.1.2. 3.1.3 3.2. 3.2.1. 3.2.1.1. 3.2.1.2. 3.2.1.3. 3.2.1.4. 3.2.1.5. 3.2.1.6. 3.2.2. 84 85 87 94 95 95 96 97 98 100 102 102 105 107 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Với mục đích tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích vật chất hoặc giá trị tinh thần, cá nhân, tổ chức kinh tế cần phải xác lập các giao dịch vƣợt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia; các quan hệ dân sự (nói chung) vƣợt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia nếu phát sinh tranh chấp thì có thể chịu sự tài phán của nhiều quốc gia. Trong phạm vi quốc gia, sau khi đƣợc xác lập hoặc hình thành, các quan hệ dân sự thƣờng có sự phát triển dẫn đến sự thay đổi và chấm dứt. Việc thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ do các bên tham gia thoả thuận và định đoạt bởi một hoặc cả hai bên, tuỳ thuộc vào quan hệ hoặc nội dung thoả thuận mà có thể yêu cầu Trọng tài hoặc Toà án quốc gia giải quyết. Khi các quan hệ không còn chỉ tồn tại trong phạm vi quốc gia nữa, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nghĩa vụ của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các quốc gia, bằng việc ban hành luật quốc nội và ký kết hoặc tham gia các điều ƣớc quốc tế để xác định thẩm quyền cho Toà án của quốc gia mình. Ở nƣớc ta, trƣớc đây thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau nhƣ Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nƣớc ngoài, Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc ngoài,.... Nay, thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc quy định phần nào thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự và một số văn bản pháp luật chuyên biệt khác. 1 Về Điều ƣớc quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã ký kết 14 Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp với các nƣớc (Đức - đã hết hiệu lực ngày 16/4/1994, Liên Xô - Liên bang Nga kế thừa từ năm 1992 đến khi Hiệp định giữa Việt Nam và Nga ký kết tháng 8/1998 có hiệu lực, Tiệp Khắc - sau này, cả Séc và Slôvakia đều kế thừa Hiệp định này, Cu Ba, Hungary, Bungary, Ba Lan, Lào, Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Belarus). Trong các Hiệp định này, vấn đề liên quan tới Thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc ghi nhận. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá dân và tổ chức có quốc tịch của quốc gia đó; nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm trật tự công. Tuy nhiên, để hƣớng tới sự đồng thuận, đảm bảo quan hệ cùng có lợi giữa các quốc gia, chúng ta cần phải xây dựng khung pháp lý rõ ràng, xác định những nguyên tắc căn bản và cụ thể để quy định thẩm quyền của Toà án quốc gia và tham gia hoặc ký kết các điều ƣớc quốc tế liên quan đến việc xác định thẩm quyền của toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế” hiện nay mang tính cấp thiết. Không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn khi gia nhập hoặc ký kết các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Việc nghiên cứu thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan tâm nhƣ luận án tiến sỹ “Công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nƣớc ngoài” của tác giả Nguyễn Trung Tín, luận án tiến sỹ “Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nƣớc ngoài” của tác giả Nguyễn Hoài Phƣơng, hay bài viết “Một số vấn đề về xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế” của tác giả Đồng Thị Kim Thoa đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6/2006. 2 Các bài nghiên cứu này chƣa chuyên sâu và toàn diện về thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế mà mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó của thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế. Thực tế, hiện nay chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về vấn đề này. Vì vậy, đề tài này vẫn còn nhiều vấn đề để nghiên cứu. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài - Đề tài góp phần bổ sung các vấn đề lý luận về quy định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế. - Đánh giá thực trạng pháp luật quy định về thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế. - Đƣa ra định hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện nhiệm vụ sau đây: - Làm sáng tỏ các tiêu chí cơ bản trong việc xác định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế; - Nêu và phân tích các nguyên nhân các quốc gia muốn giành quyền xét xử đối với những tranh chấp, yêu cầu mà một trong các bên đƣơng sự là công dân hoặc tổ chức của nƣớc mình; - Làm rõ những bất cập và khó khăn nảy sinh khi quy định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế; - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về việc quy định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế; nghiên cứu thực thực trạng pháp luật quốc nội và điều ƣớc quốc tế và kiến giải xung đột thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế nhằm đƣa ra định hƣớng hoàn thiện luật thực định về vấn đề này. 3 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nƣớc và Pháp quyền. Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trƣờng và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, Tác giả còn đặc biệt coi trọng sử dụng các phƣơng pháp phân tích quy phạm; điển hình hoá, mô hình hóa các trƣờng hợp xung đột thẩm quyền, phƣơng pháp so sánh, phân tích, đánh giá để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra. 6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI - Nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn pháp luật quy định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế để tìm ra những tồn tại trong quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quy định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế Chƣơng 3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế. 4 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Toà án 1.1.1.1. Khái niệm thẩm quyền Theo từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền” đƣợc hiểu là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một số vấn đề theo pháp luật [35, tr. 922]. “Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào đƣợc sử dụng phổ biến trong pháp luật nhƣ thuật ngữ “thẩm quyền”. Trong pháp luật nƣớc ngoài, chúng ta còn thƣờng gặp thuật ngữ thẩm quyền ngay trong tên các văn bản pháp luật, nhất là về tổ chức bộ máy nhà nƣớc, bởi vì nội dung các văn bản đó thực chất là các quy định về thẩm quyền. Tuy vậy, ngay trong văn bản pháp luật nƣớc ngoài, thƣờng cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc dù thực chất vấn đề là quy định về thẩm quyền. Ở nƣớc ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ một phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đƣa ra một định nghĩa đầy đủ về nó, tuy các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống văn bản pháp luật và có vị trí đặc biệt quan trọng. Là khái niệm quan trọng và rất phổ biến, nhƣng kể từ những năm 80 đến nay – những năm nền khoa học pháp lý của Việt Nam mới bắt đầu hình thành và phát triển, và cả thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hơn mƣời năm trở lại đây, chƣa có bài viết nào riêng về khái niệm “thẩm quyền”, dù dƣới dạng đơn giản nhất. Trong khoa học pháp lý càng thấy rõ sự thiếu hụt những nghiên cứu cơ bản, hay những giới thiệu nghiêm túc các khái niệm cơ bản, nền tảng đã đƣợc khoa học pháp lý thế giới nghiên cứu kỹ lƣỡng từ rất 5 lâu và cập nhật vào thực tiễn khoa học pháp lý và quản lý nƣớc nhà, trong đó có khái niệm “thẩm quyền”. Nhiều bất cập trong các quy định pháp luật về thẩm quyền nói chung và về phân cấp quản lý nói riêng, có nhiều nguyên nhân, nhƣng có khi chỉ do một nguyên nhân đơn giản là không nắm vững khái niệm thẩm quyền và phƣơng pháp phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nƣớc. Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền" thƣờng đƣợc hiểu là phạm vi các quyền hạn của cơ quan hoặc ngƣời có chức vụ nào đó, hay nói cách khác là thẩm quyền pháp lý. "Thẩm quyền" với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất. Do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ chặt chẽ với nó, nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền. Trong bài viết với tiêu đề “tính hệ thống của thẩm quyền” tạp chí nghiên cứu lập pháp tháng 9 năm 2005, Tiến sĩ Nguyễn Cửu Việt đã nêu 09 quan điểm của các học giả Xô Viết và Việt Nam về khái niệm thẩm quyền, trên cơ sở đó, đã đi đến kết luận “thẩm quyền là một hiện tƣợng nhà nƣớc quyền lực và pháp lý phức tạp có nội dung chức năng và vỏ bọc pháp lý, là một hệ thống (chứ không phải là một tập hợp giản đơn) các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm lớn sau đây: i) Một là, các quyền và nghĩa vụ để thực hiện các chức năng nhất định mà cơ quan nhà nƣớc đƣợc trao để giải quyết những vấn đề, quản lý những đối tƣợng/khách thể nhất định trong những lĩnh vực nhất định của đời sống nhằm đạt những nhiệm vụ nhất định; ii) Hai là, các quyền hạn cụ thể để thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung nói trên (là quyền thực hiện các hình thức hoạt động cụ thể nhƣ ban hành hay tham gia vào việc ban hành quyết định, quyền đình chỉ, sửa đổi hay bãi bỏ quyết định, quyền áp dụng các biện pháp cƣỡng chế,...)” [34, tr. 40]. này, đ. 2cùng cấp (ví dụ giữa Quốc hội, Chính Phủ, Tòa án, Viện kiểm sát…), Tòa án các cấp khác nhau (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp 6 huyện…), giữa các đơn vị trong cùng một Tòa án (Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hình sự…), giữa quân sự và dân sự (Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự), với các loại cơ quan cùng thực hiện quyền lực tƣ pháp (Tòa án, Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, ở bình diện quốc tế, nKhi cùng một vụ việc có liên quan đến nhiều quốc gia thì vấn đề thẩm quyền của quốc gia nào cũng cần phải đặt ra. Với cách tiếp cận này thì có lẽ quan điểm về thẩm quyền của Tiến sĩ Nguyễn Cửu Việt mới chỉ trong phạm vi quốc gia. Và nhƣ vậy, việc nghiên cứu vấn đề thẩm quyền để thực hiện quyền tƣ pháp của nhà nƣớc trong quan hệ giữa các quốc gia là không thể không làm, đặc biệt đối với Toà án. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì quyền tƣ pháp đƣợc giao cho Tòa án thực hiện là chủ yếu. Nhƣ vậy, có thể đi đến kết luận, Thẩm quyền là quyền năng pháp lý xuất phát từ quyền lực nhà nƣớc (quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tƣ pháp) đƣợc xác định theo quy định của pháp luật, đối với (những) vụ việc/lĩnh vực nhất định. 1.1.1.2. Thẩm quyền của Toà án Theo Từ điển tiếng Việt thì Tòa án là cơ quan nhà nƣớc có nhiệm vụ xét xử các vụ phạm pháp, kiện tụng. [35, tr. 1002] Tòa án là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [11, đ. 127]. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc ra các phán quyết bảo đảm cho quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nƣớc. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của 7 cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác [37, đ. 1]. Ở nƣớc Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các Tòa án quân sự; Các Tòa án khác do luật định. Trong trƣờng hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt [14, đ. 2]. Nhƣ vậy, trong hệ thống Tòa án của Việt Nam có Tòa án nhân dân các cấp, Tòa án quân sự các cấp và các Tòa án khác do luật định hoặc trong trƣờng hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc biệt và chỉ có Tòa án mới là cơ quan xét xử, từ hình sự, hành chính đến dân sự (theo nghĩa rộng). Do Tòa án quân sự có đặc thù riêng theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự, có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những ngƣời đƣợc trƣng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; hoặc những người khác phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội, nên Tòa án mà tác giả nghiên cứu ở đây là Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân là cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc có chức năng bảo vệ xã hội, bảo vệ pháp chế, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân. Để việc giải quyết vụ việc đƣợc thuận tiện, khách quan thì việc nghiên cứu thẩm quyền của tòa án là hoàn toàn phù hợp về lý luận cũng nhƣ thực tiễn và cũng là điều kiện để bảo đảm trật tự pháp luật và pháp chế, tránh sự trùng lặp trong hoạt động giữa các cấp, các ngành; bên cạnh đó, việc nghiên cứu thẩm quyền của tòa án còn bao gồm việc xem xét Tòa án của 8 Việt Nam có thẩm quyền giải quyết hay không hay là thuộc thẩm quyền của Tòa án nƣớc ngoài khác. Tức là việc xác định thẩm quyền của tòa án về thực chất là tránh sự trùng lặp/xung đột thẩm quyền giải quyết vụ việc giữa các cấp, các ngành và cả giữa các quốc gia. Xác định thẩm quyền là công việc bắt buộc của Tòa án. Cụ thể là xem xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu cùng các tài liêu chứng cứ chứng minh để quyết định trả lại đơn hoặc thụ lý vụ việc. Nếu bỏ quan công việc này sẽ ảnh hƣởng đến công tác giải quyết vì quyết định giải quyết vụ việc của Tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi Tòa án giải quyết đúng thẩm quyền. Xác định thẩm quyền của Tòa án là việc làm quan trọng và có tính liên tục, bởi nó đƣợc đặt ra không những ở giai đoạn thụ lý vụ án mà còn ở các giai đoạn sau nhƣ giai đoạn chuẩn bị xét xử hay xét xử tại phiên tòa. Ngoài ra, tính liên tục còn đƣợc thực hiện ở các cấp xét xử trong trƣờng hợp vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án luôn phải kiểm tra lại thẩm quyền giải quyết vụ việc đúng hay chƣa. Trong thực tế, do chƣa xác định rõ thẩm quyền nên dẫn đến vi phạm, nhiều bản án, quyết định bị kiểm tra phát hiện xét xử sai về thẩm quyền, nếu ngay từ đầu xác định đúng thẩm quyền thì sẽ không gây tốn kém công sức và tiền của của cơ quan nhà nƣớc và của các đƣơng sự, cũng nhƣ ảnh hƣởng đến quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia. Trách nhiệm của Toà án là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân... Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chƣa có một khái niệm thống nhất về thẩm quyền của Toà án. Luật tố tụng của các nƣớc thƣờng quy định phạm vi quyền hạn của Toà án. Ngoài ra, có một số nƣớc không giới hạn thẩm quyền của Toà án trong các văn bản luật, ở đó các thẩm phán khi thực hiện quyền của Toà án, họ đƣợc sáng tạo pháp luật, giải thích pháp luật trên cơ sở 9 mục đích điều chỉnh, lẽ công bằng, lƣơng tâm đạo đức nghề nghiệp. Các quyền năng này có thể coi là quyền năng bẩm sinh của Thẩm phán, bởi lẽ họ có quyền đƣa ra phán quyết về tính hợp pháp cho hành vi của con ngƣời. Xuất phát từ việc giới hạn thẩm quyền của Toà án trong pháp luật tố tụng, từ các quy định trong các bản hiến pháp của Việt Nam “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” các tác giả viết Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện tƣ pháp đã đƣa ra định nghĩa “Thẩm quyền của Tòa án là quyền xem xét, giải quyết vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra quyết định khi giải quyết vụ việc đó” [30]. Tuy nhiên, khi nghiên cứu chức năng của Toà án Việt Nam và của các nƣớc trên thế giới cho thấy, nếu các quy định về giới hạn thẩm quyền của Toà án trong văn bản luật không đƣợc hiểu một cách mềm dẻo và linh hoạt, thì trong tƣơng lai Máy tính sẽ là công cụ quyết định số phận của con ngƣời trong tố tụng hình sự và quyết định quyền và lợi ích của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự (mọi chứng cứ tài liệu đƣợc nhập vào máy tính và nó sẽ tự động đƣa ra kết quả); vai trò của các Thẩm phán sẽ mờ nhạt, khi đó tính nhân bản sẽ không còn hiện hữu trong các phán quyết. Hiện tại, Luật tổ chức toà án nhân dân hiện hành của Việt Nam có quy định “Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” [14, đ. 1]. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ này, thì không thể không trao cho thẩm phán các quyền bẩm sinh của họ. Bởi lẽ, bên cạnh đó, các quan hệ xã hội luôn biến đổi, nhà làm luật không thể dự liệu hết các khả năng có thể xảy ra, quyền lợi của tổ chức, cá nhân mặc định phải đƣợc bảo vệ trong mọi 10 trƣờng hợp, hay nói cách khác, Toà án luôn luôn thụ lý mọi yêu cầu bảo vệ quyền lợi và sức khoẻ của tổ chức, cá nhân. Nhƣ vậy, nếu chỉ xuất phát từ những quyền của Toà án đƣợc quy định trong luật thực định thì không thể đƣa ra đƣợc một định nghĩa đầy đủ về thẩm quyền của Toà án. Ở góc độ nghiên cứu, thẩm quyền của Toà án không chỉ giới hạn theo luật thực định mà phải đƣợc mở rộng theo chức năng, vị trí vai trò của Toà án và đặc biệt hơn nữa là phải mở rộng theo các vụ việc cụ thể mà pháp luật chƣa quy định. Trên cơ sở đó, tác giả đƣa ra định nghĩa về thẩm quyền của Toà án nhƣ sau: Thẩm quyền của Toà án là quyền năng pháp lý của Toà án theo quy định của pháp luật có quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng. 1.1.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế 1.1.2.1. Khái niệm Tư pháp quốc tế Từ những năm đầu của thế kỷ XX cho đến nay đã xuất hiện hàng loạt các định nghĩa khác nhau về Tƣ pháp quốc tế. Nhƣ, “Tƣ pháp quốc tế là tổng hợp các quy tắc quy định quyền hạn của những ngƣời nƣớc ngoài và thẩm quyền của pháp luật các nƣớc đối với các vấn đề liên quan tới tƣ pháp” (Rolen), hay “Tƣ pháp quốc tế là một ngành luật mà đối tƣợng của nó là việc xác định quốc tịch và địa vị dân sự của ngƣời nƣớc ngoài tại nƣớc sở tại, giải quyết xung đột pháp luật và xung đột về thẩm quyền tài phán trong không gian và thời gian giữa các quốc gia độc lập” (Barơtin), hoặc “Tƣ pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc nhằm quy định pháp luật nƣớc nào đƣợc áp dụng đối với những quan hệ pháp luật giữa các cá nhân không cùng quốc tịch, không cùng nơi cƣ trú hoặc đƣợc áp dụng đối với những hành vi đã xảy ra ở nƣớc ngoài, hoặc đƣợc áp dụng trong tất cả các trƣờng hợp khi phát hiện ra vấn đề sử dụng luật của một nƣớc này trên lãnh thổ của nƣớc khác.” 11 (Axerơ)…[29, tr. 11]. Những định nghĩa trên chƣa nêu bật đƣợc bản chất, phạm vi điều chỉnh của ngành luật Tƣ pháp quốc tế. Thực tế, tên gọi Tƣ pháp quốc tế có thể đƣợc gọi một cách chính danh hoặc theo quy ƣớc tuỳ thuộc vào việc phân chia hệ thống pháp luật thành luật công hay luật tƣ. Ở nƣớc ta, hệ thống pháp luật không phân chia thành công, tƣ nên Tƣ pháp quốc tế chỉ đƣợc gọi theo quy ƣớc. Theo Từ điển tiếng Việt thì Tƣ pháp quốc tế đƣợc hiểu là tổng thể nói chung những nguyên tắc và quy phạm pháp lý quy định quan hệ giữa công dân nƣớc này với các nƣớc khác hay với công dân các nƣớc khác [35, tr. 1071] Tuy ở nƣớc ta, Tƣ pháp quốc tế chỉ mang tính quy ƣớc nhƣng tác giả cho rằng đã là một ngành luật, một bộ môn khoa học thì ngoài việc giải quyết vấn đề xung đột pháp luật, vấn đề tố tụng dân sự quốc tế, Tƣ pháp quốc tế cũng có đối tƣợng điều chỉnh, chủ thể, nguồn luật và phƣơng pháp điều chỉnh. Vì vậy tác giả cho rằng định nghĩa về Tƣ pháp quốc tế trong giáo trình Tƣ pháp quốc tế của Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội do PGS.TS Nguyễn Bá Diến (chủ biên) là một định nghĩa khoa học, đáp ứng đƣợc các tiêu chí là một ngành luật và là một bộ môn khoa học. “Tƣ pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự-kinh tế-thƣơng mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài.”[29, tr. 13]. Mặc dù vậy, sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực pháp luật, cụm từ “kinh tế” không còn đƣợc sử dụng mà thay vào đó là “kinh doanh”; để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, theo tác giả, Tƣ pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan 12 hệ dân sự, kinh doanh, thƣơng mại, hôn nhân - gia đình, lao động và tố tụng dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, về nội dung, Tƣ pháp quốc tế bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự (quan hệ dân sự hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài, đó là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nƣớc ngoài, phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nƣớc ngoài. [7] Về hình thức, Tƣ pháp quốc tế bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật giải quyết các vấn đề tố tụng liên quan đến các vụ việc mang tính chất dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài nghiên cứu: 1) thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài; 2) địa vị tố tụng của ngƣời nƣớc ngoài và pháp nhân nƣớc ngoài; 3) địa vị tố tụng của quốc gia nƣớc ngoài và các đại diện lãnh sự và ngoại giao của quốc gia đó; 4) vấn đề ủy thác tƣ pháp; và 5) vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Thẩm quyền của Tòa án Tƣ pháp quốc tếđƣợc nghiên cứu là một bộ phận của tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, bao gồm 1) thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài; 2) vấn đề ủy thác tƣ pháp; và 3) vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, chủ thể nhân danh Nhà nƣớc hoặc nhân danh công lý để thực hiện quyền giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài chính là Toà 13 án quốc gia (nói chung). Khái niệm thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc tác giả làm rõ trong tiểu mục liền dƣới đây. 1.1.2.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế Có nhiều tiêu chí để phân loại Tòa án, có thể là theo tiêu chí hệ thống tổ chức (Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa hành chính, Tòa lao động), tiêu chí cấp bậc-2 cấp xét xử: Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm (nếu Tòa án cấp huyện xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm chính là Tòa án cấp tỉnh; nếu Tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm mà bản án quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao), có thể là theo tiêu chí lãnh thổ (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện). Việc đề cập đến các tiêu chí trên để thấy rằng Tòa án phải giải quyết không chỉ các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) mà còn cả các vụ việc hình sự và hành chính với các quy trình tố tụng khác nhau, từ đó dùng phƣơng pháp loại trừ tác giả chỉ nghiên cứu thẩm quyền của Tòa án theo tố tụng dân sự đƣợc áp dụng vào trƣờng riêng biệt là tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc tranh chấp/yêu cầu về dân sự, về hôn nhân và gia đình, về kinh doanh, thƣơng mại và lao động (bao gồm cả các vụ án và các việc có yếu tố nƣớc ngoài). Xét về bản chất, các quan hệ pháp luật này đều có cùng tính chất là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân đƣợc hình thành trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết và tự định đoạt của các chủ thể. Đây chính là những đặc trƣng của vụ việc dân sự nên các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 14 Ở Việt Nam, thẩm quyền của tòa án trong tố tụng dân sự đƣợc xác định dƣới các góc độ là thẩm quyền theo loại vụ việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, ngƣời yêu cầu. Nếu căn cứ vào các góc độ trên, chúng ta thấy, thẩm quyền của tòa án trong tố tụng dân sự là quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, các văn pháp luật chuyên ngành và các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thẩm quyền của Tòa án, mà cụ thể trong tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, có liên quan đến các Tòa thuộc Tòa án cấp tỉnh hoặc Tòa án nhân dân tối cao - gồm Tòa kinh tế, Tòa dân sự, Tòa lao động (riêng Tòa án nhân dân tối cao có thêm 3 Tòa phúc thẩm). Việc xác định vụ việc thuộc Tòa kinh tế, hay Tòa dân sự… không có ý nghĩa đối với việc xác định rằng vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không, hay Tòa án cấp tỉnh ở địa phƣơng nào có thẩm quyền giải quyết. Việc đề cập đến cả thẩm quyền của các Tòa án theo lãnh thổ chỉ nhằm mục đích xác định đối với vụ việc dân sự theo nghĩa rộng này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam thì lại cũng cần phải tìm hiểu xem nếu đã thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam thì pháp luật có quy định tiêu chí xác định cụ thể là Tòa án nào hay không? Để thực thi các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực Tƣ pháp quốc tế một cách hiệu quả, thì các quốc gia không thể không trao thẩm quyền cho cho Toà án. Do vậy, các quốc gia cũng phải xây dựng những quy phạm pháp luật tố tụng và tham gia hoặc ký kết các điều ƣớc quốc tế để xác định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong việc giải quyết các quan hệ dân sự mang tính 15 quốc tế. Trong trƣờng hợp giữa các quốc gia chƣa ký kết hoặc gia nhập Điều ƣớc quốc tế thì có thể xác định thẩm quyền theo nguyên tắc có đi có lại. Và nhƣ vậy, thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế không chỉ căn cứ vào pháp luật tố tụng dân sự trong nƣớc mà còn căn cứ vào các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại. Từ những phân tích trên, theo tác giả, Tƣ pháp quốc tếthẩm quyền của Toà án trong tƣ pháp quốc tế là quyền năng pháp lý của Toà án quốc gia đƣợc quy định trong luật thực định của quốc gia, trong các điều ƣớc quốc tế mà quốc gia đó là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại; có quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự quốc gia. 1.1.3. Các đặc điểm chính của thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế Từ khái niệm trên, ta thấy, thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế là quyền tài phán đối với những vụ việc có liên quan, tức là không chỉ có thẩm quyền xét xử, mà các vụ việc đó có các Điều ƣớc quốc tế điều chỉnh, nên không thể phân định thẩm quyền hay là các nguyên tắc, quy tắc về thẩm quyền, vì vậy, có lẽ tác giả dùng từ xác định và tiêu chí xác định thẩm quyền sẽ phù hợp hơn. Để phân biệt với thẩm quyền của tòa án trong hoạt động tố tụng dân sự thông thƣờng và hoạt động tố tụng trong công pháp quốc tế, chúng ta thấy thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế có các đặc điểm chính sau 1.1.3.1. Chủ thể giải quyết các vụ việc trong Tư pháp quốc tế là Toà án của quốc gia có thẩm quyền Dựa trên quan điểm về nguyên tắc chủ quyền quốc gia thì Tòa án nhiều nƣớc đều có thẩm quyền xét xử đối với cùng một vụ việc do các vụ việc dân 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan