Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ...

Tài liệu Tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ

.PDF
129
176
76

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Khoa luËt NGUYỄN HỮU QUÂN THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Chuyên ngành : Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đức Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU QUÂN THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 1.1. Khái niệm và chủ thể của tham nhũng trong hoạt động khoa học và công nghệ 1.1.1. Khái niệm tham nhũng 1.1.2. Chủ thể của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ 1.2. Các dạng tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ 1.2.1. Tham nhũng diễn ra dưới dạng gây khó khăn cho người khác khi giải quyết công việc 1.2.2. Tham nhũng diễn ra dưới dạng mang lại quyền, lợi ích cho chủ thể khác một cách bất hợp pháp 1.2.3. Tham nhũng diễn ra dưới dạng gian lận, trốn tránh pháp luật và các tiêu chuẩn, các thoả thuận 1.2.4. Tham nhũng diễn ra dưới dạng thông đồng, móc ngoặc Chương 2: NHẬN DIỆN THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 2.1. Tham nhũng trong giai đoạn xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ 2.2. Tham nhũng trong giai đoạn giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ 2.2.1. Hành vi tham nhũng của thư ký hội đồng 2.2.2. Hành vi tham nhũng của thành viên hội đồng 2.3. Tham nhũng trong giai đoạn triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ 2.3.1. Nhóm hành vi gian gian lận 2.3.2. Nhóm hành vi thông đồng, móc ngoặc 2.4. Tham nhũng trong giai đoạn đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ 2.4.1. Hành vi tham nhũng trong hoạt động đánh giá, nghiệm thu cấp cơ sở 3 6 12 12 12 21 30 31 32 33 35 37 39 43 45 46 49 51 65 69 70 2.4.2. Hành vi tham nhũng trong hoạt động đánh giá, nghiệm thu cấp nhà nước 2.5. Một số đặc điểm rút ra qua nghiên cứu nhận diện tham nhũng trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ 2.5.1. Đặc điểm về quyền lực 2.5.2. Đặc điểm về lợi ích 2.5.3. Đặc điểm về phạm vi và mức độ 2.6. Những khó khăn khi xác định hành vi tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ Chương 3: NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 3.1. Nguyên nhân tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ 3.1.1. Tham nhũng do chế độ thù lao đối với những người thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa tương xứng 3.1.2. Tham nhũng do cơ chế quản lý, sử dụng kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa phù hợp 3.1.3. Tham nhũng do ảnh hưởng tiêu cực của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý 3.2. Hậu quả của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ 3.2.1. Làm mất cơ hội nghiên cứu của các nhà khoa học khác 3.2.2. Gây thiệt hại về kinh tế cho đất nước 3.2.3. Làm tha hoá đội ngũ trí thức, ảnh hưởng xấu đến giá trị đạo đức và chuẩn mực xã hội 3.2.4. Cản trở nỗ lực đổi mới, phát triển khoa học và công nghệ 3.3. Phương hướng, giải pháp phòng, chống tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ 3.3.1. Xu hướng phát triển của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thời gian tới 3.3.2. Một số giải pháp phòng, chống tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở Việt Nam KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 4 71 73 73 78 81 83 86 86 86 88 91 97 97 99 100 102 103 103 105 115 117 124 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN KH&CN Khoa học và công nghệ UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng là quốc nạn không chỉ của riêng một quốc gia nào. Cuộc chiến chống tham nhũng đang hàng ngày, hàng giờ xảy ra mọi lúc, mọi nơi, ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng được xác định là “cản trở những nỗ lực đổi mới, tác động tiêu cực tới sự phát triển của đất nước, bóp méo các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Nghiêm trọng hơn, tham nhũng còn làm xói mòn lòng tin của nhân nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và đe dọa sự tồn vong của chế độ ta” [37]. Nhận thức được những tác hại đó, thời gian qua, đặc biệt là từ 1998 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về vấn đề phòng, chống tham nhũng. Quyết tâm phòng, chống tham nhũng được khẳng định mạnh mẽ qua việc Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (tháng 11 năm 2005, chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2006). Những năm gần đây, khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong những lĩnh vực được Nhà nước quan tâm đầu tư lớn. Hàng năm, lĩnh vực này được đầu tư khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước (tương đương 0,5% GDP), trong đó có một phần không nhỏ dành cho nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý các nhiệm vụ KH&CN không ngừng được đổi mới theo hướng tích cực, phù hợp với thực tiễn. Không thể phủ nhận những thành tựu phát triển về mọi mặt của đất nước do kết quả của việc đầu tư cho KH&CN đem lại nhưng cũng vẫn tồn tại thực tế là, nhiều đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chưa đem lại hiệu quả, chậm hoặc 6 không được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, hoặc bị thất bại, gây lãng phí, thất thoát kinh phí..., mà một trong những nguyên nhân là kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học đã bị "sử dụng sai mục đích, sai chế độ quy định". Thực chất, các hành vi được coi là "sử dụng kinh phí sai mục đích, sai chế độ quy định" hết sức đa dạng. Ví dụ như hành vi dùng kinh phí được cấp, hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học để mua xe ôtô phục vụ mục đích cá nhân; ngụy tạo các bằng chứng về khả năng của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN để chiếm đoạt kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học; lập hợp đồng khống và sử dụng hoá đơn, chứng từ giả để hợp thức hóa kinh phí một cách bất hợp pháp; "làm lại" một đề tài nghiên cứu khoa học để lấy kinh phí nhiều lần; "xin - cho" các đề tài, dự án KH&CN để vụ lợi... Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Ví dụ, ngay cùng một hành vi "lập hợp đồng khống và sử dụng hoá đơn chứng từ giả để hợp thức hóa kinh phí", có quan điểm cho rằng đó là điều bình thường, có quan điểm coi đó chỉ là vi phạm quy chế, nhưng quan điểm khác lại quy kết và khẳng định đó là hành vi vi phạm nghiêm trọng - tham nhũng. Thực tế cũng cho thấy rằng, nhận thức về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng nói chung, trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nói riêng của một bộ phận không nhỏ các chủ thể có liên quan còn ở mức độ hạn chế. Họ coi tham nhũng là hành vi phức tạp, khó hiểu hoặc là một vấn đề chẳng bao giờ liên quan đến mình, đơn vị mình... Một trong những lý do chính là chưa có các quy định, chưa có hệ thống khái quát các hành vi cụ thể để làm cơ sở tham khảo xác định tham nhũng trong lĩnh vực này. Mặt khác, nhiều hành vi có dấu hiệu vi phạm nhưng bản chất vụ việc thực ra là do cơ chế quản lý không còn phù hợp với thực tiễn khiến chủ thể buộc phải vi phạm để thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả ("tình ngay lý gian"). Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã từng đánh giá: "Tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người" [36]. 7 Một vấn đề quan trọng nữa là việc phòng ngừa tham nhũng trong lĩnh vực KH&CN được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng (Điều 25) mới chỉ dừng ở mức độ quy định chung: "- Việc xét, tuyển chọn, giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN và việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN phải được tiến hành công khai. - Cơ quan quản lý KH&CN, đơn vị nghiên cứu KH&CN phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, các khoản hỗ trợ, viện trợ, đầu tư, các khoản thu từ hoạt động KH&CN". Tức là phạm vi điều chỉnh mới chỉ đề cập đến "đầu vào và đầu ra" của nhiệm vụ với chủ thể chính là cơ quan quản lý, đơn vị nghiên cứu mà chưa tiếp cận vấn đề sâu hơn ở quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Như vậy, nghiên cứu về tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN là việc làm thiết thực, cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu và giải quyết vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề phòng, chống tham nhũng đang ngày càng được quan tâm. Những năm gần đây đã có nhiều văn bản pháp quy, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về tham nhũng và phòng chống tham nhũng. Việc nhận diện tham nhũng trong một số lĩnh vực cụ thể như xây dựng, kế hoạch và đầu tư đã được một số chuyên gia, nhà khoa học của Viện Khoa học Thanh tra thực hiện, nhưng chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về tham nhũng trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: "Tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. 3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu của đề tài Với quan điểm "Phòng còn hơn chống" và "Biết để phòng, tránh" thì việc nghiên cứu về tham nhũng trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, gợi ý 8 một số giải pháp phòng, chống dưới góc độ quản lý nhà nước là nhằm cụ thể hóa và có góc nhìn sâu, rộng hơn về vấn đề này, góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể có liên quan để chủ động phòng, tránh, chống tham nhũng, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra và phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu KH&CN là hoạt động đang từng bước được xã hội hóa nên các nhiệm vụ KH&CN cũng hết sức đa dạng, được thực hiện bởi nhiều nguồn kinh phí khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ xác định và điều chỉnh tham nhũng ở khu vực công (liên quan đến quyền lực công và tài chính công) nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Đó cũng chính là các nhiệm vụ KH&CN được thực hiện chủ yếu hiện nay, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng hơn cả. Nhiệm vụ KH&CN được thể hiện và tổ chức thực hiện dưới nhiều loại hình khác nhau, do nhiều cơ quan được phân cấp quản lý như: chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước; chương trình nông thôn - miền núi; đề tài, dự án độc lập cấp nhà nước (do Bộ KH&CN quản lý), đề tài, dự án các cấp như cấp bộ, tỉnh, cơ sở… Việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN bao gồm hai hình thức: - Hình thức thực hiện các chương trình nghiên cứu KH&CN. Chương trình KH&CN gồm một số đề tài, dự án KH&CN nên việc thực hiện chủ yếu là các thủ tục mang tính hành chính. - Hình thức thực hiện các đề tài, dự án KH&CN. Hình thức này thể hiện rõ nét hoạt động nghiên cứu khoa học. Do vậy, đề tài sẽ tiếp cận vấn đề sâu hơn trên phương diện hoạt động nghiên cứu khoa học, tức là đối với hình thức thứ hai. 9 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Đề tài là phương pháp hệ thống, tổng hợp, điều tra xã hội học, phân tích, so sánh để nhận diện tham nhũng trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ KH&CN bằng việc khái quát, hệ thống hoá các hành vi, đưa ra đặc điểm, nhận định nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng. Trên cơ sở đó, gợi ý một số giải pháp phòng, chống dưới góc độ quản lý nhà nước. Đề tài đã tiến hành một cuộc điều tra xã hội học về nhận thức và quan điểm đối với tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN mà đối tượng là cán bộ của 63 sở KH&CN trên cả nước, nhằm đảm bảo tính khách quan của một số nhận định, kết luận nêu trong Đề tài. Ngoài ra, Đề tài có sử dụng tư liệu và viện dẫn quan điểm của một số nhà khoa học, nhà quản lý trong lĩnh vực KH&CN. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn đã phân tích và làm rõ nguyên nhân, hậu quả, đặc điểm và xu hướng phát triển của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Trên cơ sở đó đưa một số giải pháp phòng, chống tham nhũng nhằm từng bước hạn chế tệ nạn này. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách để phòng, chống và xử lý các hành vi tham nhũng cụ thể trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương và Kết luận Chương 1: Những vấn đề lý luận về tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN 10 Chương 2: Nhận diện tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN Chương 3: Nguyên nhân, hậu quả và giải pháp phòng, chống tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng, hành vi tham nhũng nói chung và trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nói riêng là một hiện tượng xã hội, có tính chất phức tạp. Vì vậy, không một công trình nghiên cứu nào có thể phản ánh đầy đủ thực trạng, lý giải được rõ ràng các nguyên nhân và đề xuất được hệ thống giải pháp hữu hiệu để loại bỏ hoàn toàn. Đề tài này chỉ góp thêm một tiếng nói, dựa trên việc phân tích và khái quát các hành vi vi phạm đã và có thể xảy ra trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN để nhận diện, tìm hiểu nguyên nhân, nâng cao nhận thức về tham nhũng trong lĩnh vực này cho các chủ thể có liên quan để chủ động phòng, tránh và chống tham nhũng, đồng thời cũng gợi ý một số giải pháp phòng, chống tệ nạn này dưới góc độ quản lý nhà nước. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 1.1. Khái niệm và chủ thể của tham nhũng trong hoạt động khoa học và công nghệ 1.1.1. Khái niệm tham nhũng Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phức tạp và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Nó gây tổn hại đến sự công bằng, dân chủ trong xã hội bởi các tác động xấu ảnh hưởng tới việc sử dụng các nguồn lực và quyền lực của Nhà nước cũng như phá hoại các hoạt động quản lý của Nhà nước. Thậm chí, có ý kiến còn ví "đó là một loại vi-rút có khả năng làm què quặt các chính phủ, làm mất uy tín của các tổ chức công và các tập đoàn tư nhân, có ảnh hưởng mang tính phá hoại đến nhân quyền của người dân, do vậy hủy hoại xã hội cùng với sự phát triển của nó, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân dân, đặc biệt là những người nghèo" [35]. Tệ nạn này diễn ra ở hầu hết các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, tiềm lực kinh tế và có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào có sự hiện diện của yếu tố quyền lực công, từ người cung cấp các dịch vụ công đến các nhà hoạch định chính sách, đảm bảo thực thi chính sách pháp luật của mỗi quốc gia. Thậm chí trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế toàn cầu hoá đang chiếm ưu thế và sự hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới được coi "là thước đo vị thế, là tấm vé bước lên con tàu tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia" thì tham nhũng cũng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ mỗi nước. Cho đến nay, tham nhũng chưa được định nghĩa rõ ràng và đạt được sự thống nhất giữa các quốc gia, thậm chí trong một quốc gia. Ở Áo, tham nhũng được hiểu "là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột". Ở Đức lại quan niệm "tham 12 nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành". Ở Thụy Sỹ, "tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân". In-đô-nê-xi-a định nghĩa tham nhũng đơn giản là "việc dùng các chức vụ trong bộ máy chính quyền để phục vụ cho mục đích cá nhân một cách trái pháp luật". Dưới góc độ quốc tế, Ngân hàng thế giới định nghĩa "tham nhũng là sự lợi dụng chức vụ công để tư lợi". Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) coi "tham nhũng là sự lợi dụng chức vụ, vai trò và nguồn lực công để trục lợi cá nhân". Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) - tổ chức phi chính phủ đi đầu trong những nỗ lực chống tham nhũng coi "tham nhũng là hành vi vi phạm của công chức trong khu vực công, dù là chính trị gia hay công chức dân sự, trong đó họ làm giàu một cách không đúng đắn hoặc bất hợp pháp cho bản thân hay cho người thân của mình bằng cách lạm dụng quyền lực công đã giao cho họ". Trong “Tools to support transparency in local govermance”(công cụ hỗ trợ cho tính minh bạch trong công tác cai trị ở địa phương), TI đã nêu một định nghĩa của Klitgaard, MacLean, Abaroa và Parris, được nhiều định chế quốc tế và học giả sử dụng như sau: “Tham nhũng có nghĩa là lạm dụng chức vụ cho lợi ích riêng”. Chức vụ là một vị trí công tác dựa trên cơ sở niềm tin, mà từ đó một người được nhận một thẩm quyền hành động nhân danh một định chế nào đó. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng được định nghĩa đơn giản hơn, trong một phạm vi hẹp, đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng”. 13 Tuy nhiên, dù quan niệm về tham nhũng trên thế giới không giống nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm, coi đó là hành vi sử dụng quyền lực công nhằm mưu lợi cá nhân một cách bất hợp pháp. Ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt thì "tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của" [44]. Đây là một khái niệm tương đối đơn giản về một vấn đề phức tạp. Quan niệm này xuất phát từ chính bản thân cụm từ "tham nhũng" gồm 2 yếu tố: tham và nhũng. "Tham" là hám lợi, tư lợi, vụ lợi; "nhũng" là lợi dụng quyền hành, chức trách được giao để sách nhiễu, nhũng nhiễu nhằm thỏa mãn lòng tham. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, quan niệm về tham nhũng cũng có những sự khác biệt nhất định. Thời kỳ phong kiến, với đặc thù vương quyền và thần quyền tối thượng đều nằm trong tay nhà vua, hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương (theo phẩm hàm) đều có quyền hành và ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống người dân. Nguồn sống của triều đình và bộ máy giúp việc chủ yếu trông và các loại sưu thuế do người dân đóng góp, trong đó, một phần khá lớn được chuyển về hoàng cung, phần còn lại do các quan địa phương thay mặt triều đình nắm giữ, quản lý ở tại địa phương. Chính vì vậy, đặc thù tham nhũng của hệ thống quan lại trong giai đoạn này chủ yếu là nhận hối lộ và biến tài sản công thành tài sản riêng. Quan niệm và các hành vi tham nhũng cũng được đề cập trong nhiều điều luật cụ thể. Tất nhiên, thuật ngữ "tham nhũng" chưa được sử dụng để xác định cho các tội danh cụ thể mà chỉ là những tội mang tính chất lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi qua mối quan hệ với dân hoặc với công quỹ. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1998 (trước khi Pháp lệnh Phòng, chống tham nhũng được ban hành), nhiều quy định về phòng, chống tham nhũng được Nhà nước ban hành nhưng một định nghĩa chính thức về tham nhũng vẫn chưa có. Tham nhũng chủ yếu thể hiện qua nhiều tội danh cụ thể trong pháp luật hình sự với hình phạt khá nghiêm khắc 14 như các quy định về tội tham ô tài sản XHCN trong Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, tội nhận hối lộ trong Pháp lệnh Trừng trị tội hối lộ… Tuy nhiên, đặc trưng “chức vụ, quyền hạn” và “vụ lợi” của hành vi tham nhũng đã hình thành và dần rõ nét. Tham nhũng lần đầu tiên được định nghĩa chính thức và cụ thể trong một văn bản pháp luật, đó là Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000). Theo đó, tham nhũng được hiểu là "hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức". Với định nghĩa này, các hành vi tham nhũng được xác định cụ thể gồm: - Tham ô tài sản XHCN; - Nhận hối lộ; - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; - Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; - Giả mạo trong công tác vì vụ lợi. Tương ứng với các hành vi này là các loại tội tương ứng được quy định trong Bộ luật Hình sự. Cũng theo quy định của Pháp lệnh Chống tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn được xác định rõ là cán bộ, công chức; sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ xã, phường, thị trấn và những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ. Như vậy, tham nhũng được 15 xác định là các hành vi nêu trên nếu xảy ra trong khu vực công, khu vực nhà nước. Đó cũng là điểm khác biệt cơ bản với quan niệm về tham nhũng của các quốc gia phát triển trên thế giới đang có xu hướng quan niệm tham nhũng bao gồm cả khu vực tư nhân. Trong dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI (tháng 6/2005), tham nhũng được định nghĩa là “hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi”. Người có chức vụ, quyền hạn được xác định là “người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật hoặc điều lệ của tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, người được giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ và có quyền hạn khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ đó”. Như vậy, khái niệm tham nhũng đã được mở rộng hơn, không chỉ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức của nhà nước mà còn gồm của cả người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức xã hội, doanh nghiệp ngoài nhà nước. Nghĩa là, tham nhũng theo pháp luật được xác định bao gồm cả khu vực tư. Tuy nhiên, trước khi Luật phòng, chống tham nhũng được thông qua cũng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về tham nhũng. Có ý kiến cho rằng quan niệm về tham nhũng cần xác định là hành vi có đủ 3 yếu tố "quyền lực", "vụ lợi" và "xảy ra ở khu vực công" như trong Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 là phù hợp. Ý kiến khác cho rằng quan niệm về tham nhũng cần mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước. Có ý kiến đề nghị coi tham nhũng còn bao gồm cả hành vi của những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng do có mối quan hệ với người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng mối quan hệ này để vụ lợi. Luật Phòng, chống tham nhũng được ban hành năm 2005 đã xác định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi". 16 Ngoài các hành vi tham nhũng đã được Pháp lệnh đề cập, nhiều hành vi tiêu cực cũng đã được Luật bổ sung và xếp vào hệ thống các hành vi tham nhũng, bao gồm: - Tham ô tài sản: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. - Nhận hối lộ: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận lợi ích vật chất (của hối lộ) do đã hoặc sẽ làm hay không làm một việc có lợi cho bên đưa hoặc theo yêu cầu của bên đưa hối lộ. - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vượt quá quyền hạn được giao nhằm chiếm đoạt tài sản. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao làm trái công vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. - Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vượt quá quyền hạn được giao làm trái công vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Xét về bản chất, lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi cũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ vì vụ lợi nhưng có điểm khác là chủ thể đã vượt quá quyền hạn của mình hay nói cách khác, chủ thể đã thực hiện việc làm không thuộc thẩm quyền và nội dung việc làm đó là sai. Tuy nhiên, ở trường hợp lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi thành nhiệm vụ, công vụ nội dung việc làm của chủ thể là sai nhưng việc làm đó thuộc phạm vi chức trách của chủ thể. Trường hợp lạm quyền có tính nguy hiểm cao hơn, vì hành vi đã vượt quá phạm vi chức trách. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình 17 thức nào để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm. - Giả mạo trong công tác vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu hoặc làm, cấp giấy tờ giả nhằm mục đích vụ lợi. - Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đại diện cho cơ quan, tổ chức, địa phương thông qua việc đưa hối lộ, môi giới hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình và thông qua đó để đạt được lợi ích cá nhân. Hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Nhưng hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội phạm) vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng. - Lợi dụng chức vụ quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ lợi ích công. Hành vi này bao gồm: sử dụng tài sản của Nhà nước vào việc riêng; cho thuê tài sản của Nhà nước, cho mượn tài sản của Nhà nước; sử dụng tài sản của Nhà nước vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn (khoản 2 Điều 3 Nghị định số 120/2006/NĐ-CP 18 ngày 20/10/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng). - Nhũng nhiễu vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn thể hiện sự cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhằm đòi hỏi, ép buộc công dân, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân khác phải nộp những khoản chi phí ngoài quy định hoặc phải thực hiện những hành vi khác vì lợi ích của người thực hiện hành vi nhũng nhiễu (khoản 3 Điều 3 Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng). - Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã không thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà pháp luật buộc phải làm để được trao một lợi ích nhất định nào đó. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật, cản trở quá trình phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật thông qua các hình thức như thư tay, điện thoại, nhắc nhở, bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền... Như vậy, có thể thấy rằng, không chỉ trong cộng đồng quốc tế mà ngay cả ở nước ta vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng. Nhìn chung, tồn tại hai khái niệm phổ biến sau: Tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người khác thuộc khu vực nhà nước (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức 19 chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…) nhưng không phải là cán bộ, công chức, viên chức; chủ thể của hành vi tham nhũng cũng có thể là người thuộc khu vực tư nhân. Theo nghĩa hẹp và là khái niệm chính thống được pháp luật Việt Nam quy định (Luật Phòng, chống tham nhũng) thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi; người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà nước, tức là ở các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị hay nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Quan niệm về tham nhũng như vậy có lý do là để bảo đảm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng tập trung vào những hành vi tham nhũng phổ biến nhất, đảm bảo tính trọng tâm, trọng điểm đồng thời hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới chính sách khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra cũng có quan điểm cho rằng, nếu chiếu theo định nghĩa chung của quốc tế mà xét, có lẽ gần hết hệ thống cán bộ, công chức Việt Nam đều mắc tội tham nhũng. Tính chính xác của quan điểm này còn phải xem xét nhưng đó là một nhận xét đáng để suy nghĩ. Bởi vì ở các nước, khi mức lương cơ bản của công chức nói chung đã đáp ứng đủ những nhu cầu bình thường thì tham nhũng chủ yếu là để nói về những quan chức muốn làm giàu bất chính. Còn ở Việt Nam, khi đồng lương trên giấy tờ không đủ để chi trả những nhu cầu thiết yếu (ăn, ở, đi lại, học hành...) và nguồn thu nhập ngoài lương cao hơn nhiều lần so với cái gọi là lương thì cần phân biệt công chức tham nhũng thành hai loại: loại thứ nhất là tham nhũng tệ hại cần lên án, làm không tốt chỉ tìm cách gian lận, móc ngoặc để bòn rút của công, gây khó dễ cho tổ chức, cá nhân để vụ lợi. Loại thứ hai là buộc phải tham nhũng để tồn tại hoặc có ý thức làm nghiêm túc, làm tốt nhưng cơ chế bất hợp lý nên tìm cách để đối phó. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan