Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp...

Tài liệu Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp

.PDF
33
334
68

Mô tả:

Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp
Trung tâm Nghiên cứu Trung tâm Chính sách và Phát triển Phân tích và Dự báo (DEPOCEN) (CAF) Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp1 Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Đức Nhật, Nguyễn Cao Đức (Bản thảo số 3) Hà nội, ngày 7 tháng 8 năm 2008 1 Bài viết phục vụ Hội thảo “Tình hình kinh tế Việt Nam và vai trò, trách nhiệm của Quốc hội” trong khuôn khổ hợp tác giữa Ủy ban Kinh tế Quốc Hội và Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam, 2-3/7/2008 Mũi Né, Phan Thiết. Do hạn chế về mặt thời gian cũng như khả năng tiếp cận các số liệu, bài viết này sử dụng nhiều nguồn số liệu khác nhau, cũng như dựa trên số liệu được cung cấp trong các báo cáo khác. Người đọc cũng nên lưu rằng trong một số trường hợp có sự khác biệt đáng kể về mặt số liệu giữa các nguồn khác nhau. Các số liệu ở đây chỉ mang tính minh họa và tham khảo. Mọi y kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ [email protected] hoặc [email protected] Vietnam’s current account deficits 1 Mục lục I. Mở đầu............................................................................................................................. 3 II. Tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam ............................... 5 III. Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai................................................ 9 IV. Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai ................................. 16 4.1 Đầu tư tăng cao? ..................................................................................................... 16 4.2 Mức tiết kiệm thấp .................................................................................................. 21 4.3 Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai............................................... 22 4.4. Gợi y về giải pháp ............................................................................................... 26 V. Lời kết .......................................................................................................................... 28 VI. Một số tài liệu tham khảo ........................................................................................... 29 Hộp số 1 ............................................................................................................................ 31 Hộp số 2 ............................................................................................................................ 32 Phụ lục 1: Tình hình tài khoản vãng lai của các nước châu Á trước khủng hoảng 1997 . 33 Vietnam’s current account deficits 2 I. Mở đầu Trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, giá dầu tăng cao, khủng hoảng nhà đất ở Mỹ, thì ở trong nước cùng với lạm phát tăng cao, thi trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán mất điểm liên tục, việc thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản vãng lai 2 trong năm 2007 rất lớn và những tháng đầu năm 2008 cho thấy chiều hướng ngày càng xấu đi đã làm dấy lên những quan ngại của nhiều nhà hoạch định chính sách cũng như các chuyên gia kinh tế cho rằng việc nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là đáng lo ngại, không thể kéo dài (unsustainable), và có thể dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Trong thời gian gần đây báo chí trong và ngoài nước cũng như các tổ chức nước ngoài đồng loạt đưa ra các báo cáo không tích cực về sự bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam. 3 Trong báo cáo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc hội 31/5/2008 cũng đề cập tới vấn đề nhập siêu có thể gây ra mất cân bằng cán cân thanh toán và ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Theo kinh nghiệm quốc tế cũng như l y thuyết kinh tế, khi thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và kéo dài mà không có các biện pháp cần thiết (như tăng lãi suất, hạ/phá giá (devaluate) đồng tiền, cắt giảm chi tiêu chính phủ, thì nền kinh tế có thể sẽ gặp phải nguy cơ khủng hoảng tiền tệ. Một trường hợp hay được lấy ra làm ví dụ đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ của Thái Lan năm 1997, khi nước này do thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn, cùng với các khoản vay nợ ngắn hạn không có khả năng thanh toán đã không thể giữ giá được đồng tiền, và dữ trữ ngoại hối bị cạn kiệt. 2 Trong các hạng mục của Tài khoản vãng lai thì Cán cân Thương mại là quan trọng nhất. Thông thường nếu có thâm hụt tài khoản vãng lai, thì nguyên nhân chủ yếu là do thâm hụt cán cân thương mại, nên trong bài viết này tác giả sử dụng các thuật ngữ thâm hụt tài khoản vãng lai, thâm hụt cán cân thương mại gần như tương đương nhau. Để hiểu rõ hơn, đề nghị xem Hộp 1. 3 Một số ví dụ: tờ Times Online, số ra ngày 13/6/2008 ra bài Việt Nam trên bờ khủng hoảng tiền tệ kiểu Thái (Vietnam on brink of Thai Baht-style currency crisis of 1997); Tờ Dismal Scientist ra ngày 11/6/2008 có bài “Việt Nam đang gặp phải khủng hoảng tiền tệ?” (Is Vietnam facing a currency crisis?), Tờ Thanhnien News ngày 20/4/2008 có bài “Thâm hụt tài khoản vãng lai đáng lo ngại”. Hay bài viết của Matt Steinglass đăng trên báo VOA, ngày 13/6/2008, với tiêu đề “Lam phát, thâm hụt thương mại là nguyên nhân lo ngại ở Việt Nam” (Inflation, trade deficit cause worry in Vietnam). Vietnam’s current account deficits 3 Trong năm 2007 mức thâm hụt thương mại lên tới 11 tỷ USD, với thâm hụt tài khoản vãng lai xấp xỉ 7 tỷ USD, tương đương 11% của tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 4 Thông thường với các nước trên thế giới, thâm hụt tài khoản vãng lai lên tới 5% của GDP đã là đáng lo ngại. Vào những tháng đầu năm 2008, xu hướng thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam còn tăng nhanh hơn nữa. Thâm hụt cán cân thương mại tính tới tháng 5 năm 2008 là 14,4 tỷ USD, cao hơn rất nhiều so với mức của năm 2007. Hình 1. Nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai, tính theo % của GDP Nguồn: Báo cáo của Barclays Capital Hình số 1 cho thấy tình hình nhập siêu và tài khoản vãng lai của Việt Nam trong những năm qua. Có thể nói, nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai không phải là một hiện tượng mới lạ với Việt Nam. Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam liên tục nhập siêu và bị thâm hụt tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, sang năm 2007, con số nhập siêu lớn và thâm hụt tài khoản vãng lai là rất lớn cao hơn nhiều so với các năm trước. Sang năm 2008, dự kiến con số nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai còn lớn hơn. Với các số liệu có được, rõ ràng là tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như của Việt Nam là không bền vững. 4 Số liệu trong báo cáo Taking Stock (2008) của Ngân hàng Thế giới. Theo số liệu trong báo cáo tháng 5 năm 2008 của Economist Intelligence Unit, thì số liệu thâm hụt cán cân thương mại và tài khoảng vãng lai năm 2007 của Việt Nam là vào khoảng 4 tỷ USD và 3 tỷ USD. Vietnam’s current account deficits 4 Có thể nói, các nhận định của các báo cáo nước ngoài cũng có cơ sở khi đưa ra những nhận định không được sáng sủa về tình hình kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bức tranh của nền kinh tế Việt Nam có ảm đạm như vậy hay không? Rủi ro của một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán và hệ quả là khủng hoảng tiền tệ là hiện hữu đến mức độ nào? Đâu là nguyên nhân của tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, và đâu là những giải pháp khả thi? Đây là những câu hỏi mà tác giả của bài viết này muốn trả lời. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài viết này do thiếu số liệu, tính phức tạp của vấn đề kinh tế vĩ mô, những yếu tố không lường trước được, cũng như hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, nên kết những phát hiện, kết luận và gợi y được đưa ra trong bài viết này hoàn toàn chỉ mang tính trao đổi giữa những người nghiên cứu có quan tâm đến nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bài viết này được bố cục như sau: Phần II của bài viết sẽ xem xét vấn đề nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam một cách tổng quát. Phần III đánh giá nguy cơ của một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán. Phần IV sử dụng một số đẳng thức cơ bản trong kinh tế học vĩ mô để phân tích nguyên nhân của thâm hụt tài khoản vãng lai và đưa ra những gợi y về giải pháp. Phẩn V đưa ra một số nhận định và kết luận. II. Tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam Để có một cái nhìn khách quan về tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam, chúng ta cần so sánh với tình hình của các nước điều kiện và hoàn cảnh gần gũi với ta. Hình 2 là biểu đồ tình hình tài khoản vãng lai của các nước trong khu vực châu Á. Ngoại trừ Ấn độ là cũng có thâm hụt tài khoản vãng lai, Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN có thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng kể cả so với Ấn độ, thì về mặt tương đối mức độ thâm hụt của Việt Nam là quá lớn, lên tới khoảng 10% của GDP so với khoảng 2% của Ấn độ. So với các nước láng giềng trong khu vực như Thai lan, Phillipine, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, thì tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam là rất đáng lo ngại. Hầu hết các nước trong khu vực đều có thặng dư tài khoản vãng lai, trong khi đó Việt Nam lại thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo số liệu của báo cáo của Meril Lynch cho thấy, tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP, thì các nước đều có tỷ lệ thặng dư trên GDP khá lớn, Thái Lan là hơn 5% và Malaysia là hơn 10%. Bức tranh ở Việt Nam Vietnam’s current account deficits 5 lại hoàn toàn ngược lại, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam trong năm 2007 lên tới gần 10%. 5 Hình 2. Tài khoản vãng lai của các nước khu vực châu Á (% của GDP) năm 2007 Nguồn: Báo cáo của Merrill Lynch Có thể nói trong điều kiện một nền kinh tế mở, việc xuất hiện tình trạng thâm hụt hay thặng dư hoàn toàn là điều bình thường. Với Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng cao, ở giai đoạn đầu của phát triển, thâm hụt tài khoản vãng lai là điều hết sức bình thường, và nhiều khi là cần thiết để có thể tận dụng được nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nếu con số thâm hụt chỉ ở mức vừa phải (thông thường là dưới 5%), thì không đáng lo ngại. Nhưng khi thâm hụt tài khoản vãng lai vượt ngưỡng này sẽ gây ra rủi ro cho nền kinh tế. Nếu so với Thái Lan trước khủng hoảng, thâm hụt tài khoản vãng lai của nước này vào năm 1995-1996 là khoảng 8% (xem phụ lục 1). 5 Có một số sai khác nhỏ giữa các nguồn số liệu khác nhau. Số liệu của WB cho thấy là khoảng 11%. Vietnam’s current account deficits 6 Hình 3. Tài khoản vãng lai các thị trường mới nổi năm 2007 (% của GDP) Nguồn: Báo cáo của Merrill Lynch Hình 4. Thâm hụt thương mại của Việt Nam theo tháng Đơn vị: Tỷ USD Nguồn: Báo cáo của HSBC Hình 3 là biểu đồ so sánh Việt nam với những nước được coi là những nền kinh tế mới nổi. Việt Nam không phải là nước duy nhất bị thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng ở mức độ so sánh tương đối thì Việt Nam vượt xa các nước khác về mức độ thâm hụt tài khoản Vietnam’s current account deficits 7 vãng lai. Những tháng đầu năm 2008, tình hình trở nên khá nghiêm trọng, khi nhập khẩu tăng đột biến. Hình 4, cho thấy con số nhập siêu của Việt Nam xấu đi nghiêm trọng theo từng tháng. Rõ ràng là, với tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như vậy, việc các báo trong và ngoài nước, cũng như các tổ chức nước ngoài bầy tỏ quan ngại về nền kinh tế VN là không phải không có căn cứ. Thâm hụt tài khoản vãng lai tốt hay xấu? Trước khi chuyển sang phần đánh giá khả năng ảnh hưởng của thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, chúng ta cần phải trả lời một câu hỏi là: Nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai tốt hay xấu? Ơ đây, nếu chỉ nhìn vào con số nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai thì chắc chắn sẽ không có câu trả lời rõ ràng. Câu trả lời tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô, cũng như phụ thuộc vào tình hình tài khoản vốn. Tuy nhiên, có một điểm cần nhấn mạnh là bản thân việc nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai về nguyên tắc là không tốt và cũng không xấu. Nó chỉ xấu khi thâm hụt quá lớn và dẫn tới khủng hoảng cán cân thanh toán, mất giá đồng tiền. Để đưa ra một nhận xét về mức độ thâm hụt cán cân thương mại của một quốc gia là tốt hay xấu, chúng ta cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể, không thể chỉ nhìn vào con số thâm hụt/thặng dư thương mại (hay thâm hụt/thặng du tài khoản vãng lai) để rồi cho rằng thâm hụt đó là xấu hay tốt. Tuy nhiên, dường như có một quan niệm phổ biến (không chỉ ở Việt Nam) là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là không tốt và thể hiện một nền kinh tế yếu kém và ngược lại xuất siêu và có thặng dư trên tài khoản vãng lai, thì quan niệm này cho rằng thặng dư thương mại là điều tốt và thể hiện một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù trong một số ít trường hợp, quan niệm như trên không phải là không đúng, nhưng theo ly thuyết kinh tế thì không hẳn là như vậy. Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Vietnam’s current account deficits 8 Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền kinh tế yếu kém. Ngược lại, một tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cân cân thương mại (thặng dự hay thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào. 6 Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước. Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998. III. Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản xuất. Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, một gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên thông thường, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia đình là không vay đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để 6 Suranovic (1999) cho rằng một trong những nguyên nhân là do thuật ngữ. Bất kể trong hoàn cảnh nào, thì từ thâm hụt thường có nghĩa xấu, và ngược lại thặng dư thường có nghĩa tốt, và con người thường thích những điều gì đó dư thừa. Vietnam’s current account deficits 9 đáp ứng cho các nhu cầu NK của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá. Hình 5 Tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của Việt Nam trong những năm qua Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Barclays Capital. Con số của năm 2007 là số ước lượng, còn số của năm 2008 là số dự kiến Như Hình số 5 cho thấy, không phải đến năm 2007 Việt Nam mới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng đến năm 2007 thì tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai tăng mạnh, và dự kiến trong năm 2008 sẽ thâm hụt còn lớn hơn nữa. Cũng theo Hình số 5, trước năm 2008, mặc dù Việt Nam liên tục bị thâm hụt tài khoản vãng lai, nhưng trong cán cân thanh toán, tài khoản vốn luôn có thặng dư. Trong trường hợp của Việt Nam trong năm 2007, mặc dù tài khoản vãng lai thâm hụt lớn, nhưng do triển vọng của nền kinh tế được nhận định là tốt nên tài khoản vốn lại thặng dư do các nguồn như đầu tư trực tiếp (FDI) đạt 6,5 tỷ USD, viện trợ chính thức (ODA) đạt 1,6 tỷ USD, đầu tư gián tiếp (Portfolio investment) đạt 6,2 tỷ USD, và kiều hối đạt hơn 6 tỷ USD. So với năm 2007, triển vọng của nền kinh tế trong năm 2008 không còn được đánh giá là tốt như năm 2007, do một loạt các vấn đề như lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán đi xuống. Cụ thể là Quốc hội đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ mức 8,5-9% Vietnam’s current account deficits 10 xuống còn mức 7% trong năm 2008. 7 Điều này làm dấy lên mối lo ngại là với mức nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, nếu nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam bao gồm ODA, FDI, kiều hối, đầu tư gián tiếp không đủ để đáp ứng khoản thâm hụt, hoặc tệ hơn nữa dòng vốn “nóng” ngắn hạn lại có thể chảy ra ngoài, thì có thể tạo ra áp lực đối với đồng tiền Việt Nam, dẫn tới mât giá đồng tiền, khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng kinh tế. Về cơ bản thâm hụt tài khoản vãng lai có thể được hiểu là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho chính phủ và người tiêu dùng của một nước khác vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức. Thông thường điều này sẽ không có vấn đề gì nếu như khoản thâm hụt nhỏ. Nhưng nếu khoản thâm hụt này là lớn, đến một mức độ hoặc đến một thời điểm nào đó, các nhà đầu tư sẽ mất lòng tin vào việc là họ sẽ thu lại được khoản đầu tư/ khoản đã cho vay, và khi đã mất lòng tin, rất có thể sẽ xẩy ra đổ vỡ, do tất cả các nhà đầu tư sẽ bán tháo và tìm cách rút tiền ra để tránh mất thêm tiền. Tuy nhiên, không ai có thể dự đoán được một cách chính xác là khi nào thì lòng tin sẽ bị khủng hoảng! Trong điều kiện của Việt Nam, có hàng loạt các báo cáo của nước ngoài đưa ra các cảnh báo về mức độ nghiêm trọng của mức độ thâm hụt của tài khoản vãng lai của VN. Điều này có nghĩa là gì? Ơ một mức độ nào đó, so với các nước khác thì mức thâm hut tài khoản vãng lai của VN là quá lớn, và ở một khía cạnh khác, Chính phủ cần có những biện pháp để cải thiện tài khoản vãng lai, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư. 8 Để có thể đưa ra một số nhận định về khả năng khủng hoảng cán cân thanh toán, khủng hoảng tiền tệ, chúng ta xem xet một số trường hợp sau: 9 7 Xem bài viết “Nâng lên đặt xuống chỉ tiêu GDP” đăng trên Sài Gòn Giải phóng số 20 năm 2008. Trong bài viết này có số liệu về tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, ngoài việc dẫn tới lạm phát, nó cũng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước và làm thâm hụt tài khoản vãng lai. Một số nghiên cứu của nước ngoài cho rằng mức 7% này là khó đạt được. 8 Nhiều người có so sánh tình hình của Việt Nam hiện nay với tình hình của Thái Lan những năm 1997 trước khi xẩy ra khủng hoảng dẫn tới việc đồng Bath Thái mất giá. Mặc dù VN giống Thái Lan ở tình trạng thâm hụt cán cân thương mại (nhập siêu) lớn, nhưng điểm khác biệt căn bản giữa VN và Thái Lan chính là việc Thái Lan có các khoản nợ ngắn hạn quá nhiều, còn VN thì không. 9 Để đơn giản hóa vấn đề, ta chỉ xét tài khoản vãng lai nhu sau: Tài khoản vãng lai = Cán cân thương mại (hàng hóa và dịch vụ) + Kiều hối + Viện trợ không hoàn lại + Lãi đầu tư nước ngoài chuyển về nước. Vietnam’s current account deficits 11 Trường hợp 1: Tốc độ nhập siêu từ nay đến cuối năm không thay đổi Theo số liệu ghi nhận trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhập siêu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, như vậy mỗi tháng VN nhập siêu khoảng 2,7 tỷ USD. Nếu ta giả thiết rằng tốc độ nhập siêu từ nay đến cuối năm 2008 không thay đổi, thì đến cuối năm 2008, nhập siêu của VN có khả năng lên tới 34,6 tỷ USD. Trường hợp 2: Với một số biện pháp hành chính cũng như kinh tế của chính phủ, tốc độ nhập siêu sẽ giảm xuống. Với con số gần đây nhất, quí 2 của năm 2008, thâm hụt cán cân thương mại giảm từ 8,3 tỷ trong quí 1 xuốn còn 6,4 tỷ trong quí 2 (giảm 33%). 10 Như vậy, nếu giả thiết rằng các quí 3 và 4, tỷ lệ nhập siêu sẽ ở mức của quí 2, thì cả năm VN sẽ nhập siêu khoảng 27,5 tỷ USD. Trường hợp 3: Nếu giả thiết rằng trong quí 3 và quí 4, tốc độ nhập siêu sẽ giảm với tốc độ 33%, thì con số nhập siêu của quí 3 và 4 sẽ là 4,85 tỷ USD và 3,7 tỷ USD, và cả năm VN sẽ nhập siêu khoảng 23,3 tỷ USD. 11 Nếu ta giả thiết rằng, trong năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam cũng bằng năm 2007 là 2,1 tỷ USD (theo dự báo của Ngân hàng Thế giới thì mức chuyển lợi nhuận ra khỏi VN năm 2008 sẽ cao hơn 2007, nhưng ở đây ta chỉ giả thiết là ở mức năm 2007). Kiều hối sẽ đạt mức 8,2 tỷ USD (số dự báo cho năm 2008 của Ngân hàng thế giới). Giải ngân FDI sẽ ở mức 6,5 tỷ USD của năm 2007 (cao hơn mức dự báo của Ngân hàng Thế giới). 12 ODA ở mức 5 tỷ USD (là mức cam kết của các nước tài 10 Báo Vietnam News, ra ngày 23 tháng 6 năm 2008. Nếu VN có thể giảm được nhập siêu ở mức độ như trường hợp 3 thì có thể coi là một thành công. Theo thông tin mới nhất, nhập siêu trong tháng 5 của năm 2008 chỉ còn là 1,3 tỷ USD (Thời báo kinh tế Việt Nam số 150 ra ngày 23/6/2008). Nếu ta giả thiết là từ nay đến cuối năm, mỗi tháng ta chỉ nhập siêu khoảng 1,3 tỷ USD, thì cả năm 2008 VN sẽ nhập siêu khoảng 23,5 tỷ USD, tương đương với trường hợp 3. 12 Theo số liệu mới nhất đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 151, ngày 24/6/2008, thì trong 6 tháng đầu năm 2008, FDI đạt hơn 31 tỷ USD (vốn đăng ky). Riêng trong tháng 6 tổng số vốn đầu tư đăng ky là hơn 16 tỷ USD. Tỷ lệ giải ngân của các dự án FDI trong năm 2008 cũng khá cao, với mức vốn thực hiện là khoảng 5 tỷ USD. Đây có thể nói là một tín hiệu khá lạc quan, vì như vậy áp lực giảm giá đồng VN do thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ thấp đi. Đáng lưu y là trong số này có những dự án bất động sản rất lớn, như dự án của tập đoàn Good Choice (HK) trị giá hơn 11 tỷ USD đầu tư vào khu vui chơi giải trí, khách sạn. Về lâu dài có thể tạo ra thâm hụt cán cân thương mai. Theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 21/6/2008, con số đăng k y đầu tư trực tiếp FDI vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm đạt 31,6 tỷ USD 11 Vietnam’s current account deficits 12 trợ cho VN) 13 và vốn đầu tư gián tiếp là 2 tỷ USD (mức dự báo của Ngân hàng Thế giới). Bảng 1 dưới đây, tổng kết thâm hụt thương mại năm 2007 và so sánh với ba khả năng của năm 2008. Bảng 1: Cán cân thanh toán Việt Nam, một số tình huống Tài khoản vãng lai Thâm hụt Lợi nhuận FDI thương mại chuyển ra Tài khoản vốn Kiều hối ODA FDI Đầu tư Tổng cộng gián tiếp ngoài Năm 2007 -10,3 - 2,1 6,4 4 6,5 6,2 10.70 Trường hợp 1 -34,6 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -15.00 Trường hợp 2 -27,7 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -8.10 Trường hợp 3 -23,3 - 2,1 8,2 5 6,5 2(?) -3.70 Đơn vị: Tỷ USD. Các giả thiết là do tác giả đưa ra. Như có thể thấy, với thâm hụt thương mại khoảng hơn 10,3 tỷ USD, và lợi nhuận của doanh nghiệp FDI chuyển ra nước ngoài khoảng 2,1 tỷ USD. Trong năm 2007, các nguồn tiền để cân bằng con số 12,4 tỷ này là từ các nguồn như FDI, kiều hối, ODA và đâu tư gián tiếp, và do các nguồn tiền này lớn, nên Việt Nam có thặng dư cán cân thanh toán, khoảng 10 tỷ USD. 14 Các trường hợp từ 1 đến 3 cho thấy tình hình có thể diễn ra của tài khoản vãng lai của Việt Nam. Ở trường hợp 1, nếu không hạn chế được nhập siêu, và các điều kiện khác là rất thuận lợi, thì VN sẽ thiếu khoảng 15 tỷ USD, và buộc phải sử dụng tới dự trữ ngoại hối. Theo thông tin mới nhất, thì dự trữ ngoại hối của VN là khoảng 20 tỷ USD. Với khoản dự trữ ngoại hối này, Việt Nam có thể đảm bảo được nhu cầu ngoại tệ trong trường hợp xấu nhất. Do đó, khả năng và nguy cơ xẩy ra khủng hoảng là không đến mức nghiêm (http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/06/789712/). Mặc dù FDI cao như vậy, nhưng con số này mới chỉ là con số cam kết, con số quan trọng hơn chính là con số FDI tực hiện (giải ngân). Nếu trên thực tế, việc giải ngân các dự án FDI cao hơn con số dự kiến ở đây, thì là một điều hết sức đáng mừng. Vấn đề đặt ra là liệu sang năm 2009 chúng ta có tiếp tục thu hút và giải ngân FDI tốt hay không? 13 Trên thực tế không bao giờ việc giải ngân sẽ đạt được mức cam kết. Tuy nhiên giả thiết này đưa ra để dễ hình dung. Ngoài ra, trong những năm tới, nguồn ODA có thể sẽ giảm sút, ví dụ như viện trợ của EU cho Việt Nam năm 2008 là 665 euro triệu so với 719 triệu euro năm 2007. Nên trên thực tế, con số giải ngân ODA có thể sẽ thấp hơn, và khả năng thâm hụt sẽ còn cao hơn. http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=265723&ChannelID=11 14 Về mặt kỹ thuật, cán cân thanh toán bao giờ cũng cân bằng do có các bút toán dự trữ ngoại hối. Khi có chênh lệch giữa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, thì lúc đó sẽ có các giao dịch liên quan tới dự trự ngoại hối. Vietnam’s current account deficits 13 trọng như báo chí và các báo cáo của nước ngoài nhận định. Điều lưu y ở đây là trong các phân tích này, chúng ta giả thiết các dòng vốn chẩy vào VN là không thay đổi. Nếu thực tế không phải như vậy, thì tình hình sẽ nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhóm tác giả thì dự trữ ngoại hối như vậy là khá mỏng manh với một số l y do như sau: (i) Ngân hàng nhà nước và Chính phủ có quyết tâm sử dụng cả 20 tỷ USD dự trữ ngoại hối để bảo vệ đồng tiền hay không? Nếu không, thì điều này có nghĩa là thực tế dữ trự ngoại hối có thể sử dụng cho mức thâm hụt tài khoản vãng lai là không tới 20 tỷ USD. Kinh nghiêm thực tế cũng cho thấy trong nhiều trường hợp, mặc dù khả năng bảo vệ đồng tiền là có thừa, nhưng nếu giới đầu cơ không tin vào quyết tâm bảo vệ đồng tiền của Chính phủ, thì họ sẽ tiến hành tấn công tiền tệ (speculative attack). Ví dụ kinh điển của trường hợp này là Hồng Kông năm 1997-1998. Mặc dù dự trữ ngoại hối của Hồng Kông là rất lớn và thừa khả năng bảo vệ đồng tiền của mình. Nhưng giới đầu cơ lại không tin vào quyết tâm của chính quyền Hồng Kông trong việc bảo vệ đồng tiền, nên họ liên tục đầu cơ giá xuống. Mặc dù giới đầu cơ đã thất bại trong việc tấn công đồng Đô la Hồng Kông, nhưng bài học ở đây từ trường hợp của Hồng Kông là Chính phủ cần có một thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm của mình. (ii) Trong trường hợp xấu, nếu có xẩy ra tấn công tiền tệ (speculative attack), Việt Nam có thể sử dụng tới Quỹ dự phòng bình ổn của các nước ASEAN. Mặc dù về mặt ly thuyết, điều này là khả thi. Nhưng trên thực tế, bao giờ cũng gặp phải vấn đề khó khăn về thực tiễn và giải ngân. Điển hình là trường hợp của Thái Lan năm 2007. Trong khủng hoảng tài chính năm 1997, IMF mặc dù có cam kết cho Thái Lan vay tiền là hơn 17 tỷ USD, nhưng lại đi kèm các điều kiện rất chặt chẽ và thực tế giải ngân của IMF rất chậm so với tình hình thực tế. 15 15 Và IMF lại đưa ra nhiều điều kiện bắt buộc không phù hợp với tình hình thực tế các nước bị khủng hoảng. Sau khi trải qua khủng hoảng, một phản ứng chính sách của các nước này để không còn phải lệ thuộc vào IMF là xây dựng dự trự ngoại hối lớn. Các nước này đã thực hiện được điều này thông qua việc tài khoản vãng lai của họ luôn trong tình trạng thặng dư. Vietnam’s current account deficits 14 Như vậy, nếu không thực hiện các biện pháp để hạn chế thâm hụt tài khoản vãng lai, thì dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt. Điểm lưu y ở đây, là chúng ta giả thiết các điều kiện khác thuận lợi, ví dụ như kiếu hối về với khối lượng lớn, FDI không suy giảm, giải ngân được ODA. Nhưng trên thực tế, khi tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi, các nhà đầu tư mất lòng tin vào nền kinh tế, thì khó có thể đảm bảo được việc duy trì các dòng vốn chẩy vào Việt Nam. Trường hợp 2 và 3, tương đối khả quan hơn, nếu các biện pháp hạn chế nhập siêu của chính phủ phát huy tác dụng. Trong hai trường hợp trên, thì trường hợp thứ 3 là tương đối gần với con số thâm hụt thương mại lên tới mức 20 tỷ USD mà chính phủ đưa ra. 16 Tuy nhiên, với cả hai trường hợp 2 và 3 thì gần như chắc chắn là chính phủ phải sử dụng tới dự trữ ngoại hối để cân bằng cán cân thanh toán. Như vậy dự trữ ngoại hối quốc gia sẽ bị suy giảm và nếu kéo dài hơn nữa thì sẽ cạn kiệt. Trên thực tế, với tình hình tốc độ nhập siêu đã giảm như báo chí đưa gần đây, chúng ta có thể hy vọng rằng trường hợp 1 sẽ không xảy ra. Đồng thời, mặc dù tình hình kinh tế có khó khăn, nhưng dường như các nhà đầu tư vẫn còn lạc quan và tin tưởng vào triển vọng kinh tế của Việt Nam. Lòng tin này thể hiện qua việc các cam kết đầu tư FDI trong 6 tháng vừa qua tăng kỷ lục. Nếu như Việt Nam có thể cải thiện được tình hình thực hiện các dự án đầu tư này (giải ngân tốt), thì áp lực đối với cán cân thanh toán sẽ giảm đi. 17 Điểm mấu chốt của phần phân tích này là với mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, cán cân thanh toán dễ mất ổn định. Chính phủ và Quốc hội với vai trò giám sát cần thực hiện những biện pháp không chỉ nhằm cắt giảm nhập siêu, thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008, mà còn cần những biện pháp dài hạn hơn cho những năm 2009 và sau đấy, để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. 16 Báo điện tử thời báo kinh tế Việt Nam, ra ngày 27/6/2008, phỏng vấn Thống đốc Nguyễn Văn Giàu. Theo bài báo này, cán cân thanh toán Việt Nam sẽ tiếp tục có thặng dư khoảng 2,5 tỷ USD, nhờ vào các nguồn FDI, đầu tư gián tiếp, du lịch, kiều hối. http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=ec18332fd07d19 17 Một câu hỏi trái chiều là liệu có phải do lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô như hiện nay, mà chúng ta phải gấp rút cấp phép các dự án FDI lớn hay không? Vietnam’s current account deficits 15 IV. Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai Như phân tích ở trên, nguy cơ của khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng đồng tiền Việt Nam mặc dù nhỏ, nhưng không phải là không hiện hữu. Để đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện thâm hụt tài khoản vãng lai, trong phần này các tác giả sẽ sử dụng một số đẳng thức căn bản trong kinh tế học vĩ mô để xác định nguyên nhân, đồng thời cũng đưa ra một số suy nghĩ về giải pháp hạn chế nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo Bernanke (2007) Chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang Hoa Kỳ thì thâm hụt tài khoản vãng lai chính bằng sự chênh lệch giữa đầu tư trong nước và tiết kiệm trong nước. 18 Như vậy, ở mức độ cơ bản nhất ta cần xem xét, hai vấn đề đó là đầu tư và tiết kiệm trong nước. Theo l y thuyết kinh tế, thâm hụt tài khoản vãng lai là do sự mất cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm. Chúng ta sử dụng một đẳng thức cơ bản trong kinh tế học nói lên quan hệ giữa tài khoản vãng lai, mức tiết kiệm và đầu tư như sau 19 CA = S – I (1) Trong đó CA (current account) là mức thâm hụt/thặng dư của tài khoản vãng lai, S (domestic savings) là mức tiết kiệm trong nền kinh tế và I (investment) là đầu tư. Đẳng thức cơ bản này cho thấy rất rõ mối quan hệ giữa thâm hụt tài khoản vãng lai (nhập siêu) với mức tiết kiệm và đầu tư trong nước. Cũng theo đẳng thức này, vấn đề của thâm hụt Tài khoản vãng lai không nằm ở chính sách thương mại, mà có nguồn gốc ở các vấn đề kinh tế vĩ mô. 4.1 Đầu tư tăng cao? 18 Ben Bernanke (2007) cho rằng một trong những ly do giải thích cho sự thâm hụt cán cân thanh toán của Hoa Kỳ, là mức độ tiết kiệm tại các nước đang phát triển, nhất là các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc) tăng lên một cách mạnh mẽ, còn ở Hoa Kỳ thì mức tiết kiệm lại thấp đi và mức tiêu dùng tăng cao, dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai. 19 Xem Hộp số 2. Vietnam’s current account deficits 16 Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai là do nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Nếu thâm hụt là do nhu cầu đầu tư tăng cao thì thâm hụt không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì khi đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất, thì trong tương lai năng suất sẽ cao hơn và sẽ sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Tuy nhiên, nếu nhu cầu đầu tư tăng cao là vào khu vực bất động sản, thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này thường không làm tăng năng suất (như đầu tư vào máy móc, thiết bị), cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng để trả nợ (thông qua xuất khẩu). Những ly do dẫn tới dầu tư tăng cao: 1. Chính sách tiền tệ: Một trong những nguyên nhân có liên quan đến đầu tư tăng cao là chính sách tiền tệ nơi lỏng của Việt Nam trong thời gian qua. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nơi lỏng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước, do trong ngắn hạn điều này làm giảm lãi suất. Ngoài tác động trên, chính sách tiền tệ còn có tác động thông qua tỷ giá. Để nghiên cứu về tác đông của chính sách tiền tệ thông qua tỷ giá, có lẽ cần một bài viết đầy đủ hơn. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng ta có thể hình dung như sau: Thông thường, khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì sẽ tạo nên áp lực giảm giá đồng tiền nội tệ so với đồng tiền của nước khác. Nếu tỷ giá hối đoái được tự do thay đổi, thì khi đó, nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn và xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn. Tuy nhiên, khi tỷ giá không được tự do thay đổi (tỷ giá cố định), thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá. Việc duy trì một đồng tiền nội tệ đã lên giá như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong suốt một thời gian dài Việt Nam đã duy trì tỉ giá cố định gắn vào đồng USD. Khi lạm phát thấp đây làm một chính sách hợp l y để làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2006, và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư (cả gián tiếp và trực tiếp) chảy vào Việt nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng Nhà nước đã tung một lượng tiền lớn ra để mua USD (làm tăng dự trữ ngoại hối), dẫn tới một lượng cung tiền rất lớn trong hệ thống thanh toán của Việt Nam. Theo một số con số Vietnam’s current account deficits 17 thống kê, cung tiền tăng 135%, là con số rất lớn (mặc dù NHNN đã có những động thái để rút tiền ra khỏi lưu thông). Với mức cung tiền lớn và đột biến vào lưu thông để duy trì tỷ giá cố định như trình bầy ở trên, năm 2007 lại là năm tăng trưởng tín dụng nóng. Điều này đã làm cho lạm phát tăng rất cao, dự kiến ở mức trên 20%. Tác động của lạm phát, như trình bầy ở trên, có tác dụng làm đồng tiền mất giá, nhưng việc duy trì tỷ giá cố định về cơ bản là việc duy trì một đồng tiền định giá quá cao đã làm cho hàng VN mất tính cạnh tranh (trở nên đắt hơn) và hàng NK trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là một nguyên nhân của tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Phải thấy rằng tỷ giá cứng là một nguyên nhân dẫn đến thâm hụt thương mại. Trong bối cảnh hiện tại, do tính phức tạp và mức độ nhạy cảm từ sự biến động tỷ giá, việc điều chỉnh cần thận trọng. Trong tương lai gần, cần điều chỉnh tỷ giá để đảm bảo mức thâm hụt tài khoản vãng lai chấp nhận được 2. Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã chứng kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa, lên sàn, phát hành thêm cổ phiếu. Năm 2007 còn được nhìn nhận là năm của IPO. Bản chất của các hoạt động này, kể cả việc thực hiện cổ phẩn hóa (không chỉ của các công ty nhà nước) là các hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp để đầu tư. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh của thị trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của VN đã tăng lên rất nhiều. Hệ quả tất yếu của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư tăng vọt của các doanh nghiệp Việt Nam, một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp đã chảy vào Việt Nam (Xem hình số 6). Liên quan tới việc tăng trưởng của thị trường chứng khoán là nguồn vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn chảy vào Việt Nam do chênh lệch lãi suất của trái phiếu Chính phủ VN với trái phiếu Chính phủ của các nước khác. Theo l y thuyết kinh tế, các nhà đầu tư quốc tế đã thực hiện thành công một nghiệp vụ arbitrage, tận dụng chênh lệch lãi suất giữa hai khoản đầu tư mà về mặt ly thuyết là có mức độ rủi ro như nhau (cùng là trái phiếu chính phủ). Luồng tiền đầu tư gián tiếp chảy vào Việt Nam, có tác dụng gián tiếp làm cho nhu cầu đầu tư và tiêu dùng (xem phần dưới) tăng lên. Vietnam’s current account deficits 18 Hình 6: Nguồn vốn đầu tư gián tiếp Nguồn: Báo cáo của Merril Lynch Thông qua các quan sát tình hình xã hội những năm gần đây, mặc dù chưa có con số chính xác, nhưng dường như ở Việt Nam mức độ tiết kiệm giảm đi còn mức độ đầu tư lại cao lên. Đây chính là một nguyên nhân l y giải cho thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam. Khi nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao, mà nguồn tiết kiệm trong nước lại không đáp ứng đủ, trong khi đó nguồn vốn tiết kiệm tại các nước xung quanh lại cao, thì rõ ràng là nhu cầu đầu tư trong nước sẽ được đáp ứng bởi nguồn vốn tiết kiệm dư thừa của các nước khác. Điều này một phần thể hiện thông qua con số đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tron năm 2007 và đầu năm 2008. Trong năm 2007, con số đầu tư gián tiếp mà Việt Nam chính thức ghi nhận được theo số liệu của Ngân hàng thế giới là vào khoảng 6,2 tỷ USD. Như vậy, chính nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao trong khi mức độ tiết kiệm không tăng theo kịp hoặc giảm đi là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Vietnam’s current account deficits 19 Cũng liên quan tới vấn đề đầu tư, đó là dòng vốn FDI chảy vào VN cũng góp phần làm tăng thâm hụt cán cân thương mại, nhất là các dự án đầu tư vào bất động sản. Tương tự như trên, khi đầu tư vào bất động sản, nhìn chung sẽ không làm cải thiện tình hình XK của VN, mà lại làm tăng nhu cầu NK, do đó làm tăng nhập siêu. Tuy nhiên, vấn đề NK do các dự án FDI thường không gây ra vấn đề cho tài khoản vãng lai, do các nhà đầu tư về cơ bản sẽ mang ngoại tệ vào VN để trả cho nhu cầu NK của họ. Trong những tháng đầu năm 2008, đầu tư FDI vào Việt Nam tăng mạnh, nhưng chủ yếu là chảy vào các dự án kinh doanh bất động sản, khách sạn (chiếm tới 54% tổng số vốn đăng ky) 20 Giải pháp để giảm đầu tư Mặc dù đẳng thức (1) rất đơn giản, nhưng lại có y nghĩa rất to lớn. Đó là để giảm được thâm hụt tài khoản vãng lai, thì chúng ta cần làm giảm nhu cầu đầu tư trong nước. Điều này đặc biệt có y nghĩa khi nền kinh tế phát triển quá nóng. Như chúng ta đều biết, khi lãi suất tăng, thì nhu cầu đầu tư sẽ giảm. Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản từ mức 8,75 lên mức 12%, và sau đó lên mức 14%. Đây là một bước đi đúng, vừa để mức lãi suất này thể hiện đúng với điều kiện của thị trường, vừa cho phép các NH nâng lãi suất để hạn chế đầu tư. Mặc dù theo nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá, thì mặc dù mức lãi suất của VN đã tăng rất cao, nhưng mức lãi suất thực vẫn âm do lạm phát cao hơn lãi suất danh nghĩa. Mặc dù đã tăng cao, nhưng với mức lãi suất thực âm, thì việc hạn chế và làm giảm nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân sẽ khó đạt hiệu quả. Nếu như lãi suất danh nghĩa được tăng cao hơn nữa, thì cùng một mũi tên sẽ đạt được hai mục đích, đó là kiềm chế lạm pháp và hạn chế nhu cầu đầu tư để cải thiện tình trạng thâm hụt của tài khoản vãng lai. Cùng với việc tăng lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước dường như đã và đang thưc hiện chính sách thu hẹp tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng. Ngoài tác động làm hạn chế lạm phát, biện pháp này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư và sẽ hạn chế được thâm hụt tài khoản vãng lai. 20 Theo báo điện tử http://www.vnn.vn, số ra ngày 8/5/2008 Vietnam’s current account deficits 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
ôn tập ttnh...
16
508
119