Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thái độ và nhu cầu của học viên nước ngoài đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong d...

Tài liệu Thái độ và nhu cầu của học viên nước ngoài đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong dạy học ở các lớp học tiếng việt tại trường đại học hà nội

.PDF
95
30
73

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM QUỲNH ANH THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU CỦA HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG DẠY HỌC Ở CÁC LỚP HỌC TIẾNG VIỆT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM QUỲNH ANH THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU CỦA HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG DẠY HỌC Ở CÁC LỚP HỌC TIẾNG VIỆT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 8 22 90 20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ THỊ THANH HƯƠNG HÀ NỘI, 2020 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thị Thanh Hương – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em thực hiện và hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Ngôn ngữ học – Học viện Khoa học xã hội đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình em học tập tại trường. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Hà Nội ngày 15 tháng 04 năm 2020 Tác giả luận văn Phạm Quỳnh Anh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các kết quả khảo sát và nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Quỳnh Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ....................................................................................................................7 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................7 1.2. Cơ sở lý luận .............................................................................................22 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................31 Chương 2. KHẢO SÁT VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LỰA CHỌN SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA GIÁO VIÊN TRONG CÁC LỚP HỌC TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ..............................................................33 TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI ................................................................33 2.1. Tình hình công tác giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ ở Việt Nam và ở khoa Việt Nam học – trường Đại học Hà Nội ........................................33 2.2. Đối tượng khảo sát của luận văn ..............................................................36 2.3. Bố cục và nội dung phiếu khảo sát ...........................................................36 2.4. Kết quả khảo sát qua bảng hỏi..................................................................37 Chương 3. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÂN TỐ TỚI THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI HỌC ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA GIÁO VIÊN TRONG LỚP HỌC TIẾNG VIỆT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI.........................................................................58 3.1. Nhân tố giới tính .......................................................................................58 3.2. Nhân tố độ tuổi..........................................................................................64 KẾT LUẬN.........................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................79 PHỤ LỤC............................................................................................................82 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Quan điểm của sinh viên đối với việc lựa chọn ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt và lý do lựa chọn quan điểm đó ..........................47 Bảng 2.2. Lý do người học lựa chọn học cùng giáo viên Việt Nam..................49 Bảng 2.3. Thái độ của sinh viên đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt .......................................................................................51 Bảng 2.4. Nhu cầu của người học đối với tỉ lệ kết hợp giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ của giáo viên .......................................................................................52 Bảng 2.5. Lý do người học thích nghe giáo viên nói chuyện (nằm ngoài nội dung bài học) trong các lớp học tiếng Việt .........................................................52 Bảng 2.6. Lý do hài lòng với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt .......................................................................................................53 Bảng 2.7. Lý do không hài lòng với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt ................................................................................................54 Bảng 3.1. Bảng thống kê về tỉ lệ hài lòng với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt theo giới tính ........................................................59 Bảng 3.2. Bảng so sánh về thái độ đối với việc kết hợp sử dụng giữa L1 và TL của giáo viên trong lớp học tiếng Việt giữa hai nhóm sinh viên nam và nữ .....60 Bảng 3.3. Bảng so sánh về nhu cầu người học đối với ngôn ngữ được giáo viên lựa chọn trong giảng dạy tiếng Việt giữa hai nhóm sinh viên nam và nữ .........62 Bảng 3.4. Thống kê kết quả đánh giá sự hài lòng của sinh viên đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên phân chia theo độ tuổi người học .......................64 Bảng 3.5. Lý do không hài lòng với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên (phân chia theo nhóm tuổi người học) ................................................................65 Bảng 3.6. Thống kê nhu cầu của người học đối với việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ của giáo viên theo trình độ ngoại ngữ của người học .................................72 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Độ tuổi của các sinh viên tham gia khảo sát..................................38 Biểu đồ 2.2. Quốc tịch của các sinh viên tham gia khảo sát ..............................39 Biểu đồ 2.3. Kênh tiếp xúc với tiếng Việt trước khi đến Việt Nam của người học ........................................................................................................................41 Biểu đồ 2.4. Trình độ ngoại ngữ đầu vào của người học ..................................42 Biểu 2.5. Xu hướng sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt .......................................................................................................................43 Biểu đồ 2.6. Xu hướng sử dụng ngôn ngữ của giáo viên khi giảng dạy các ....44 phân môn cụ thể ...................................................................................................44 Biểu đồ 2.7. Xu hướng lựa chọn ngôn ngữ của giáo viên khi tiến hành các .....44 hoạt động trên lớp ................................................................................................44 Biểu đồ 2.8. Nhu cầu của sinh viên đối với tỉ lệ sử dụng tiếng Việt (TL) của giáo viên trong lớp học ........................................................................................46 Biểu đồ 3.2. Biểu đồ thống kê về khả năng nghe hiểu của sinh viên khi giáo viên sử dụng tiếng Việt trong lớp học theo nhóm tuổi .......................................67 Biểu đồ 3.3. Biểu đồ so sánh sự nhu cầu về quốc tịch của giáo viên của các nhóm sinh viên phân chia theo độ tuổi ...............................................................68 Biểu đồ 3.4. Trình độ ngoại ngữ đầu vào của các sinh viên khoa Việt Nam học, trường Đại học Hà Nội ........................................................................................70 Bảng 3.5. Thái độ của sinh viên đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong lớp học tiếng Việt .......................................................................................71 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đã từ lâu, việc sử dụng ngôn ngữ đích (TG – Targe Language) hay tiếng mẹ đẻ (L1 - First Language) để giảng dạy ngoại ngữ luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận. Một số quan điểm cho rằng việc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giảng dạy ngoại ngữ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với cả người dạy và người học ngoại ngữ. Theo những người ủng hộ quan điểm này, việc sử dụng tiếng mẹ đẻ sẽ có tác dụng tích cực, giúp cho người học nhanh chóng nắm bắt được ngôn ngữ đích mà họ theo học. Bên cạnh đó, cũng có một số quan điểm lại cho rằng tiếng mẹ đẻ chính là rào cản trong quá trình học ngoại ngữ. Nó làm cho cả người dạy và người học đều thiếu đi sự chủ động trong việc học, tư duy cũng như áp dụng ngoại ngữ đang học trong thực tế. Với vai trò là một giảng viên giảng dạy bộ môn Thực hành tiếng Việt tại khoa Việt Nam học – Trường Đại học Hà Nội thường xuyên tiếp xúc với đối tượng học tập là các sinh viên nước ngoài, bản thân cá nhân tác giả cũng nhận thấy những băn khoăn, vướng mắc nhất định trong việc lựa chọn tiếng mẹ đẻ của học viên nước ngoài hay ngôn ngữ đích (tiếng Việt) để giảng dạy tiếng Việt cho các sinh viên, nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong việc dạy và học. Tuy đã có khá nhiều bài viết bảo vệ cho những quan điểm khác nhau như đã được nói tới ở trên, nhưng những nghiên cứu về việc nên sử dụng tiếng mẹ đẻ hay sử dụng ngôn ngữ đích trong lớp dạy ngoại ngữ sao cho hợp lý để có thể đạt được hiệu quả học tập tối ưu thì gần như chưa có. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề này. Có nhiều cách đo lường tác động của ngôn ngữ sử dụng trong dạy học ngoại ngữ đối với sự phát triển năng lực ngoại ngữ cho người học trong đó, nghiên cứu thái độ và nhu cầu của người học là một kênh tham chiếu quan trọng. Khi thực hiện nghiên cứu này, tác giả mong muốn có được những lý do và cơ sở chính xác về mặt khoa học và thực tiễn để có thể có được những định 1 hướng đúng đắn hơn nhằm điều chỉnh hành vi và thái độ sử dụng ngoại ngữ của người dạy trong việc giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ. Tuy còn nhiều hạn chế về thời gian, lực lượng và kinh phí để thực hiện nghiên cứu, nhưng với tinh thần làm việc nghiêm túc và sự nỗ lực hết mình, tác giả hy vọng luận văn này sẽ góp phần nhỏ, giúp cho người dạy hiểu về mặt lý luận, cơ sở khoa học cũng như có được những minh chứng thực tế để có thể có được những định hướng chính xác, sự điều chỉnh hành vi thích hợp và những chiến lược lựa chọn ngôn ngữ đúng đắn khi giảng dạy, để có thể mang lại cho người học ngoại ngữ nói chung và những người nước ngoài học tiếng Việt nói riêng có được những giờ học hiệu quả và bổ ích nhất. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tình hình nghiên cứu trên Thế giới Trên thế giới đã có rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề sự ảnh hưởng của L1 và TL trong các lớp dạy và học ngoại ngữ. Trong đó, phần lớn là nghiên cứu về sự ảnh hưởng của L1 và TL đối với việc dạy và học ngoại ngữ trong các lớp học tiếng Anh. Theo những nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu trên thế giới chia thành 3 nhóm quan điểm như sau: Nhóm 1 - Nhóm của những học giả có quan điểm ủng hộ việc sử dụng L1 trong các lớp học ngoại ngữ. Nhóm 2 - Nhóm những học giả có quan điểm ủng hộ việc sử dụng TL trong các lớp học ngoại ngữ. Nhóm 3 - Nhóm những học giả có quan điểm ủng hộ việc kết hợp cả L1 và TL ở trong các lớp học ngoại ngữ. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về thái độ nói chung cũng như nhu cầu và thái độ của người học nói riêng được các nhà nghiên cứu quan tâm đến. Chúng ta có thể kể đến những nghiên cứu về nhu cầu và thái độ đối với ngôn ngữ như: Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa thái độ và hành vi ngôn 2 ngữ (Vũ Thị Thanh Hương, 2005); Nhu cầu ngoại ngữ và thái độ của công chức đối với chính sách ngoại ngữ hiện nay ở Việt Nam (Vũ Thị Thanh Hương, 2012); Mối quan hệ giữa thái độ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Trịnh Cẩm Lan, 2012); Thái độ ngôn ngữ đối với những hiện tượng biến đổi trong tiếng Việt trên mạng Internet hiện nay (Trịnh Cẩm Lan, 2014); Nghiên cứu đánh giá tình hình sử dụng tiếng Việt và tiếng Gia-rai trên lớp học ở các lớp 1-2 vùng dân tộc thiểu số Gia-rai của tỉnh Gia Lai (Vũ Thị Thanh Hương, 2017);… Ngoài ra, tại Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về thái độ và nhu cầu của người học cũng như nghiên cứu về những yếu tố liên quan tới thái độ, nhu cầu của người học như: Động cơ học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến việc học ngoại ngữ (Trần Thị Thu Trang); Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Đà Lạt (Nguyễn Thuý Quỳnh Loan, 2011); … 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tiến hành nghiên cứu, phân tích và mô tả thái độ và nhu cầu của học viên nước ngoài đối với việc sử dụng ngôn ngữ để dạy học của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt và những nhân tố chi phối đến thái độ và nhu cầu của họ. Thông qua những kết quả nghiên cứu đó, luận văn hy vọng góp phần giúp giáo viên dạy tiếng Việt hiểu được thái độ và nhu cầu của người học, từ đó có được những định hướng và chiến lược tốt hơn trong việc sử dụng các ngôn ngữ khác nhau trong giảng dạy. Do đặc thù của đối tượng nghiên cứu (là các sinh viên nước ngoài đến từ nhiều quốc gia đang học tập tại khoa Việt Nam học – trường Đại học Hà Nội) nên ngôn ngữ được giáo viên sử dụng trong dạy học tiếng Việt là tiếng Anh (ngôn ngữ giao tiếp chung) và tiếng Việt (ngôn ngữ đích). Trong luận văn này, vấn đề đặt ra không phải là thái độ đối với việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của người 3 học đối với tiếng Việt, mà là thái độ và nhu cầu đối với việc sử dụng tiếng Anh và tiếng Việt đối với việc giảng dạy tiếng môn tiếng Việt. Luận văn thực hiện 4 nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về thái độ và nhu cầu của học viên nước ngoài đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong các lớp học ngoại ngữ. - Nghiên cứu các cơ sở lý luận liên quan đến đề tài. - Thực hiện khảo sát và miêu tả thái độ và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng các ngôn ngữ khác nhau trong các lớp học tiếng Việt. - Khảo sát và miêu tả một số nhân tố tác động tới thái độ và nhu cầu của học viên nước ngoài đối với việc sử dụng ngôn ngữ trung gian trong lớp học tiếng Việt. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những sinh viên nước ngoài năm thứ nhất và năm thứ 2 (niên khóa 2018-2022 và niên khoá 2019-2023) đang theo học chuyên ngành tiếng Việt và văn hóa Việt Nam tại khoa Việt Nam học, trường Đại học Hà Nội hệ đào tạo chính quy và ngắn hạn. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: (1) Phương pháp thu thập ngữ liệu, bao gồm: + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi + Phương pháp phỏng vấn sâu (2) Phương pháp phân tích, bao gồm: + Phương pháp phân tích miêu tả định lượng để đo lường thái độ, nhu cầu của học viên nước ngoài và mối tương quan giữa thái độ và nhu cầu của họ với các nhân tố khác như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình 4 độ tiếng Anh, trình độ tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ…. Miêu tả định lượng sẽ được hỗ trợ bởi phần mềm SPSS/PC. + Phương pháp phân tích miêu tả định tính nhằm tìm hiểu sâu những lý do và động cơ nằm sau những xu hướng thái độ và nhu cầu của người học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Về mặt lý luận Đưa ra những cơ sở khoa học, những lý thuyết có liên quan về việc sử dụng các ngôn ngữ trong những lớp học tiếng Việt, thông qua đó tìm ra những giải pháp phù hợp về mặt lý luận, làm cơ sở cho việc điều chỉnh hành vi, lựa chọn và sử dụng các ngôn ngữ khác nhau trong lớp dạy tiếng Việt cho người dạy. 6.2. Về mặt thực tiễn Thông qua những điều tra thực tế, nắm được tình hình chung về thái độ và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt. Đồng thời, thông qua đó, tiến hành phân tích và kết hợp với những cơ sở lý luận đã có ở trên, đưa ra những kiến nghị trong giảng dạy thực tế, giúp cho người dạy có cơ sở để lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ tốt hơn trong quá trình giảng dạy, nhằm mang đến hiệu quả cao hơn đối với công việc dạy và học tiếng Việt. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương. Chương 1 luận văn trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về sử dụng và thái độ đối với ngôn ngữ trong dạy-học ngoại ngữ và cơ sở lý luận liên quan đến việ nghiên cứu thái thái độ ngôn ngữ và những nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu và thái độ ngôn ngữ. 5 Chương 2 luận văn trình bày về nội dung khảo sát cũng như tổng hợp, phân tích kết quả khảo sát về “thái độ và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt. Trong chương 2, chúng tôi tiến hành khảo sát và nghiên cứu về 3 nội dung chính đó là:thực tế tình hình sử dụng ngôn ngữ trong các lớp dạy học tiếng Việt như một ngoại ngữ; thái độ của ngừoi học đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt; và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt. Chương 3 luận văn trình bày về một số yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học tiếng Việt. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, con người không chỉ có nhu cầu giao tiếp với những người nói cùng ngôn ngữ ở xung quanh mình, mà họ còn có nhu cầu được giao lưu với những người sử dụng ngôn ngữ khác ở những nơi xa xôi tới vùng đất của họ, hay những con người sử dụng ngôn ngữ khác ở những vùng đất mới mà họ có thể đi tới; cũng có thể là những kiến thức, những đặc trưng văn hoá của những cộng đồng người sử dụng một ngôn ngữ khác mà chúng ta cần tìm hiểu hay do nhu cầu giao thương buôn bán, do nhu cầu học tập hay tuyên truyền tôn giáo... Bởi vậy, ngoài việc sử dụng tiếng mẹ đẻ, xu hướng học thêm ngoại ngữ và ngôn ngữ thứ hai để đáp ứng những nhu cầu về giao tiếp và cập nhật những thông tin, kiến thức mới trên thế giới ngày càng phổ biến và trở thành một nhu cầu cần thiết của xã hội hiện đại. Song song với sự gia tăng không ngừng về nhu cầu học ngoại ngữ chính là sự phát triển của việc dạy-học ngoại ngữ và ngôn ngữ thứ hai. Cho tới nay, thật khó để có thể tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi “Việc dạy học ngoại ngữ bắt đầu từ khi nào và khởi nguồn từ đâu?”; nhưng có một điều chúng ta có thể chắc chắn rằng song ngữ luôn là xu hướng được hướng đến và phổ biến hơn việc chỉ sử dụng một ngôn ngữ đơn thuần. Ngoài ra, một điểm đáng nhấn mạnh nữa là trong chính quá trình dạy và học ngôn ngữ thì các ngôn ngữ lại có sự chuyển hoá vai trò cho nhau: Trong quá trình chinh phục Hy Lạp, người La Mã đã cố gắng để học tiếng Hy Lạp nhưng sau đó, người Hy Lạp lại cố gắng để học tiếng của người La Mã, … Vì thế, một trong những câu hỏi lớn được đặt ra cho các nhà giáo dục, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu ngôn ngữ là “Người ta dạy và học ngoại ngữ như thế nào?”. Câu hỏi này chính là thách thức, đồng thời cũng là động lực của 7 những nhà nghiên cứu để có thể tìm ra câu trả lời, tìm ra những phương pháp giảng dạy ngoại ngữ sao cho việc dạy và học có thể đạt được hiệu quả cao nhất. Và một trong những yếu tố quyết định để có thể trả lời câu hỏi đó chính là việc nên sử dụng ngôn ngữ trong các lớp dạy ngoại ngữ như thế nào để đạt hiệu quả dạy học cao nhất. Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi xin tạm gác lại những vấn đề khác và chỉ đề cập tới một khía cạnh của vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong các lớp dạy ngoại ngữ, đó là vấn đề sử dụng tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích trong giảng dạy ngoại ngữ của người dạy và thái độ người học đối với vấn đề đó. Để có thể làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 3 phương diện có liên quan trực tiếp tới thái độ và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp dạy – học tiếng Việt như một ngoại ngữ. Cụ thể, ba phương diện đó bao gồm: (i) Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong các lớp học ngoại ngữ; (ii) Thái độ và nhu cầu của người học về việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trong các lớp học ngoại ngữ và (iii) Các nhân tố có ảnh hưởng tới thái độ và nhu cầu của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong các lớp học ngoại ngữ. 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới a. Về sử dụng ngôn ngữ trong dạy học ngoại ngữ Bàn về vấn đề ngôn ngữ được sử dụng trong các lớp học ngoại ngữ, chúng ta chắc chắn phải kể đến hai loại ngôn ngữ cơ bản nhất, đó là ngôn ngữ mẹ đẻ của người học và ngôn ngữ đích (ngôn ngữ mục tiêu mà người học đang muốn hướng tới). Bởi vậy, trong các nghiên cứu về việc sử dụng ngôn ngữ trong dạy học ngoại ngữ cả ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ (L1) và ngôn ngữ đích (TL) tới khả năng tiếp thu ngôn ngữ đích của người học. Trên thế giới đã có rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề sự ảnh hưởng của L1 và TL trong các lớp dạy và học ngoại ngữ. Trong đó, phần lớn là nghiên 8 cứu về sự ảnh hưởng của L1 và TL đối với việc dạy và học ngoại ngữ trong các lớp học tiếng Anh. Theo những nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu trên thế giới chia thành 3 nhóm quan điểm như sau: Nhóm 1 - Nhóm của những học giả có quan điểm ủng hộ việc sử dụng L1 trong các lớp học ngoại ngữ. Nhóm 2 - Nhóm những học giả có quan điểm ủng hộ việc sử dụng TL trong các lớp học ngoại ngữ. Nhóm 3 - Nhóm những học giả có quan điểm ủng hộ việc kết hợp cả L1 và TL ở trong các lớp học ngoại ngữ. Những quan điểm ủng hộ sử dụng L1 trong các lớp học ngoại ngữ cho rằng, L1 hỗ trợ cho người học đồng thời làm giảm thiểu những ảnh hưởng do rào cản tâm lý, giúp cho người học cảm thấy tự tin hơn trong giới hạn khả năng của mình và đạt hiệu quả cao hơn khi học ngoại ngữ. Một số đại diện cho quan điểm này có thể kể tới như: Hall & Cook, Harbord, Scheffler & Dominska… Ví dụ như trong nghiên cứu của Nghiên cứu của Habor (1992) đã chỉ ra, sử dụng L1 trong lớp học ngoại ngữ sẽ tiết kiệm thời gian hơn, và thời gian đó có thể được tận dụng cho các hoạt động mở rộng khác. Các nhà nghiên cứu Seng & Hashim trong nghiên cứu của họ (2006) đã chỉ ra rằng, những sinh viên ở trình độ thấp thường gặp khó khăn trong việc diễn đạt suy nghĩ và quan điểm của họ một cách tự tin và chính xác, vì vậy họ cần được sử dụng cả TL để hỗ trợ diễn đạt. Ở một nghiên cứu khác, nhà nghiên cứu Liao (2006) đã nhận thấy rằng, nếu TL là loại ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong lớp học ngoại ngữ thì đối với một số câu hỏi của giáo viên, sinh viên sẽ lựa chọn cách im lặng bởi sự lo lắng vì mình không đủ vốn từ để hiểu và diễn đạt. Hay những ý kiến ủng hộ cho quan điểm này như: Nếu sử dụng TL trong lớp học ngoại ngữ sẽ cần thời gian khởi động khi bắt đầu bài học thì việc sử dụng L1 lại có thể khắc phục điều đó. Hay: một buổi học với toàn bộ TL sẽ làm cho người học cảm thấy quá mệt mỏi. v.v. 9 Hoàn toàn trái lại với những ý kiến của những nhà nghiên cứu nhóm ủng hộ chỉ sử dụng L1, những nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm chỉ sử dụng TL lại đưa ra một số ý kiến phản bác như: “Ngay từ khi bắt đầu, người học cần phải học cách tư duy bằng TL và L1 sẽ cản trở người học khỏi việc này”; “Việc sử dụng L1, đặc biệt là dịch, sẽ củng cố niềm tin sai lầm của người học rằng luôn tồn tại tương ứng 1-1 giữa các từ trong L1 và TL”; “Thời gian sử dụng cho L1 chính là thời gian chúng ta lãng phí không sử dụng để luyện tập TL. Vì vậy, L1 đã làm giảm bớt những cơ hội học tập của chúng ta.” v.v. [dẫn theo 13, tr.6]. Họ cho rằng, đối với hầu hết những người học ngoại ngữ mà nói, lớp học là cơ hội duy nhất để họ tiếp xúc với ngôn ngữ đích. Nghiên cứu của Hawkin (1987) đã so sánh việc học ngoại ngữ giống như công việc làm vườn ở trong một cơn lốc. Ở đó, giáo viên được ví như những người gieo mầm nhưng luôn có những cơn lốc ở giữa những tiết học sẽ cuốn đi thành quả mà giáo viên đã gieo trồng. Vì vậy, việc sử dụng TL một cách tối đa trong lớp học là vô cùng quan trọng và cần thiết. Quan điểm này càng được củng cố bởi nghiên cứu của Krashen (1985) rằng, người học ngoại ngữ sẽ đạt được hiệu quả cao nhất khi có thể xử lý được toàn bộ những dữ liệu đầu vào bằng TL trong những trường hợp giao tiếp cụ thể. Ngoài những ý kiến ủng hộ tuyệt đối cho sử dụng L1 hay TL trong các lớp học ngoại ngữ, còn một nhóm những nhà nghiên cứu có quan điểm trung hoà giữa nhóm 1 và nhóm 2. Đó là các nhà nghiên cứu thuộc nhóm 3 – Nhóm ủng hộ việc sử dụng kết hợp cả L1 và TL. Các nhà nghiên cứu thuộc nhóm này cho rằng, việc kết hợp giữa L1 và TL theo một tỉ lệ và chiến lược nhất định sẽ giúp cho việc dạy học ngoại ngữ đạt được hiệu quả cao hơn rất nhiều. Họ coi phương pháp kết hợp này như một chiếc sandwich bao gồm tỉ lệ L1, TL được kết hợp với nhau theo một thứ tự và lượng hợp lý. Một số nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm này có thể kể đến như: Butzkamm & Calwell (2009), Goh & Burn (2012), … 10 Phải nói thêm rằng, mặc dù như đã đề cập ở phần trên, việc dạy và học ngoại ngữ là hoạt động có sự tác động qua lại và ảnh hưởng hai chiều tới nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích. Tuy nhiên, cho tới nay, hầu hết các nghiên cứu về việc sử dụng ngôn ngữ trong các lớp dạy ngoại ngữ được tiến hành theo hướng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ trong các lớp dạy ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai chứ ít có sự nghiên cứu theo chiều hướng ngược lại (sự ảnh hưởng của ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai tới tiếng mẹ đẻ). b. Nghiên cứu về thái độ và nhu cầu đối với sử dụng ngôn ngữ trong dạy học ngoại ngữ  Thái độ và nghiên cứu thái độ Theo định nghĩa của Đại từ điển tiếng Việt, “Thái độ là mặt biểu hiện bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động. Thái độ là ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng nào đó trước một sự việc.” Hay theo từ điển tiếng Anh định nghĩa, thái độ (Attidude), là “Cách suy nghĩ hoặc cách cư xử của một cá nhân”. Hay trong từ điển tiếng Trung có định nghĩa thái độ (态度) là cách nhìn, hoặc cách hành động được lựa chọn đối với mỗi sự vật/sự việc cụ thể. Có thể thấy, dù được định nghĩa theo cách nào thì “thái độ” cũng có những đặc điểm chung, đó là cách nhìn nhận, đánh giá và sự lựa chọn phương án hành động của mỗi cá nhân đối với một sự việc hoặc vấn đề nào đó. Và với những đặc điểm như vậy, có thể thấy rằng, thái độ chính là nhân tố quyết định đến nhận thức, tình cảm và cách hành xử của mỗi người đối với một sự việc, một vấn đề cụ thể trong xã hội cũng như trong cuộc sống. Để có thể hiểu hơn về thái độ cũng như tầm ảnh hưởng của thái độ tới các sự việc, các vấn đề trong cuộc sống, từ trước tới nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như các tác phẩm nghiên cứu về thái độ. 11 W.I.Thomas và F.Znaniecki là hai nhà nghiên cứu người Mỹ được biết đến như những người đầu tiên nghiên cứu về “thái độ” như một đặc tính quan trọng của vấn đề. Năm 1918, trong một công trình nghiên cứu của mình, Thomas và Znaniecki cho rằng: “Thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân như là thành viên của cộng đồng đối với giá trị này hay giá trị khác, làm cho cá nhân có phương pháp hành động hay không hành động khác mà được xã hội chấp nhận.” Theo những nhà nghiên cứu này, thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân và nó bao gồm cả những phản ứng tiêu cực và phản ứng tích cực đối với một hiện tượng cụ thể, không có những đánh giá chung chung. [dẫn theo 11, tr.11] Tác giả G.W.Allport đã viết trong tác phẩm “A Handbook of Social Psychology” (1935) của mình rằng, “thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân đến các khách thể và tình huống mà nó quan hệ” [dẫn theo 14, tr.810] Một nghiên cứu khác của nhà tâm lý học Mỹ H.C. Trianodis vào năm 1971 đã định nghĩa rằng, “Thái độ là những tư tưởng được tạo nên bởi các xúc cảm, tình cảm. Nó gây tác động lên hành vi nhất định, thái độ con người bao gồm những điều mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối tượng, cũng như cách ứng xử của họ đối với đối tượng đó.” Qua định nghĩa này, ta có thể thấy nhận thức và cảm xúc của con người là yếu tố chính, nó chi phối và hình thành lên thái độ khác nhau ở mỗi cá nhân và đây cũng chính là yếu tố tác động lên hành vi của con người. [dẫn theo 11, trang 12] Như vậy, nghiên cứu về thái độ chính là cách giúp chúng ta hiểu được nhận thức, cảm xúc của mỗi cá nhân đối với các hiện tương, vấn đề xảy ra trong cuộc sống cũng như nguyên nhân, động cơ và xu hướng hành động khi mỗi cá nhân đối diện với những hiện tượng, vấn đề đó. 12 Do vậy có thể thấy, nghiên cứu thái độ là một trong những nghiên cứu phổ biến và bao trùm lên mọi lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta nhằm hiểm biết về thái độ, nhận thức của các cá nhân có liên quan trực tiếp tới lĩnh vực đó, qua đó khái quát lên xu hướng hành động, đồng thời dự đoán hành vi và chỉnh đốn hành động nhằm đạt được kết quả cao nhất. Nếu tìm hiểu, chỉ với từ khoá “nghiên cứu thái độ” (tiếng Anh là Attitude, ta có thể tìm được rất nhiều các kết quả có liên quan, bao trùm các lĩnh vực và các ngành nghề như “nghiên cứu thái độ về môi trường”, “nghiên cứu thái độ khách hàng về sản phẩm”, “nghiên cứu thái độ của người trẻ về vấn đề bình đẳng giới”, “nghiên cứu về thái độ của thanh thiếu niên với mạng xã hội”, v.v.  Nghiên cứu thái độ của người học đối với việc sử dụng ngôn ngữ Không nằm ngoài những yếu tố đó, ngôn ngữ cũng là một yếu tố xuất hiện trong rất nhiều các hoạt động của đời sống cong người. Có thể nói, chúng ta sử dụng ngôn ngữ trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống thường ngày. Từ những việc đơn giản như xem tivi, nghe nhạc, gọi điện thoại tới những việc như trao đổi thông tin trong học tập, công việc hay viết thư, xem sách, đọc báo… đều cần đến sự đóng góp của ngôn ngữ. Thông thường, những hoạt động ngôn ngữ này được thực hiện vô cùng dễ dàng và tự nhiên đến mức đôi khi trở thành vô thức. Như vậy, những nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung cũng như những nghiên cứu về thái độ và nhu cầu của con người về các hoạt động ngôn ngữ nói riêng là một công việc vô cùng cần thiết và quan trọng, nhằm xác định được tình cảm, nhận thức của mỗi cá nhân thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, từ đó có thể xác định những yếu tố ảnh hưởng cũng như xu hướng hành động của mỗi cá nhân dưới sự tác động của ngôn ngữ. Có nhiều quan điểm khác nhau về ngôn ngữ. Harris và Sipay (1970) cho rằng, ngôn ngữ là “một khía cạnh của hành vi của con người có liên 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan