Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tập bài giảng nhập môn giáo dục công dân...

Tài liệu Tập bài giảng nhập môn giáo dục công dân

.PDF
62
1019
124

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----------------------------------- TẬP BÀI GIẢNG (LƯU HÀNH NỘI BỘ) NHẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN (DÀNH CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG NGÀNH 2 GIÁO DỤC CÔNG DÂN) Tác giả: Phùng Thị Loan Nguyễn Thị Như Nguyệt NĂM 2012 1 MỤC LỤC CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA MÔN GDCD ĐỐI VỚI SỤ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH ......................................................................................................4 1.1 Vị trí môn GDCD ở trường THCS......................................................................................4 1.2 Vai trò của môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh .....................................4 CHƯƠNG 2 NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ .............................................8 2.1 Vai trò của người giáo viên giảng dạy GDCD ..................................................................8 2.2 Những yêu cầu đối với giáo viên giảng dạy GDCD..........................................................10 2.3 Những năng lực chủ yếu của người giáo viên giảng dạy GDCD .....................................13 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GDCD Ở TRƯỜNG THCS ...................................................................................................16 3.1 Mục tiêu chương trình đào tạo giáo viên GDCD ở THCS................................................16 3.2 Chương trình đào tạo giáo viên GDCD ở THCS..............................................................16 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG TRÌNH MÔN GDCD Ở THCS ......................................................45 4.1 Chương trình môn GDCD ở THCS tuân thủ các quy luật giáo dục cơ bản......................45 4.2 Nguyên tắc xây dựng chương trình môn GDCD...............................................................45 4.3 Mục tiêu môn GDCD ở THCS .........................................................................................48 4.4 Nội dung chương trình môn GDCD ở THCS....................................................................48 4.5 Phương pháp tổ chức dạy học môn GDCD.......................................................................54 2 LỜI NÓI ĐẦU Từ năm 2003 – 2004, đào tạo giáo viên giảng dạy môn GDCD chính thức đã được thực hiện thống nhất trong toàn quốc trên cơ sở một chương trình đào tạo mới với hy vọng sau khi tốt nghiệp, người sinh viên có được những nhận thức sâu sắc, có kiến thức và năng lực cơ bản đủ để làm tốt công tác giảng dạy môn GDCD và thực hiện việc phối hợp với các lực lượng xã hội tổ chức tốt giáo dục nhân cách học sinh phổ thông. Nhập môn Giáo dục công dân là một môn mới nằm trong chương trình đào tạo của các ngành sư phạm nhằm đào tạo giáo viên giảng dạy môn GDCD ở THCS. Đây là môn học cung cấp cho sinh viên hệ thống chương trình chuyên ngành đào tạo giáo viên giảng dạy GDCD. Học phần bao gồm 04 chương: - CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA MÔN GDCD ĐỐI VỚI SỤ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH CHƯƠNG 2 NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CHƯƠNG 3 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GDCD Ở TRƯỜNG THCS CHƯƠNG 4 CHƯƠNG TRÌNH MÔN GDCD Ở THCS Hy vọng rằng giáo trình Nhập môn Giáo dục công dân sẽ góp phần biến quá trình đào tạo của trường thành quá trình tự đào tạo của sinh viên, góp phần phát huy ý thức trách nhiệm của sinh viên, phát triển tính chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập, rèn luyện của người sinh viên sư phạm ngay từ những ngày tháng đầu tiên theo học ngành GDCD. Quảng Bình, tháng 7 năm 2012 Phùng Thị Loan Nguyễn Thị Như Nguyệt 3 CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH 1.1. Vị trí môn Giáo dục công dân ở trường THCS Môn GDCD cùng với các môn học khác đều có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh. Song, do những đặc trưng của mình, GDCD là môn học có tác dụng giáo dục một cách hệ thống và trực tiếp nhất về mặt này mà không môn học nào có được. Những tri thức của GDCD bao gồm các tri thức thuộc về xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ; hình thành những quan niệm, tư tưởng, tình cảm, thái độ, hành vi, lối sống đúng đắn, lành mạnh của con người. Nếu như các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có nhiệm vụ cung cấp các tri thức về tự nhiên và về xã hội thì môn GDCD cung cấp những tri thức về nhân sinh, tri thức làm người cho học sinh. Những tri thức của môn GDCD ở THCS trực tiếp xây dựng tư tưởng, tình cảm, thái độ và hành vi đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội cho học sinh. Đó là lợi thế đặc biệt mà các môn học khác không có được. Hiểu được tính đặc thù đó của môn GDCD về mặt giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ giúp cho việc xác định tầm quan trọng của bộ môn và tránh được việc coi nhẹ, tầm thường hóa bộ môn GDCD. 1.2. Vai trò của môn GDCD đối với sự phát triển nhân cách học sinh 1.2.1. Giáo dục phải góp phần nâng cao chất lượng người lao động và đội ngũ lao động xã hội. Đó là một thách thức mới đối với toàn xã hội. Trong cấu trúc chương trình, mỗi môn học có một vị trí nhất định trong việc thực hiện mục tiêu dạy học nói riêng, giáo dục nói chung của cấp học, bậc học. Môn GDCD có ý nghĩa, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhân cách, nhất là trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới. Vào thập niên cuối của thế kỉ XX, hầu hết các quốc gia trên thế giới đứng trước một mâu thuẫn khách quan của sự phát triển tự nhiên và xã hội, đó là mọi tài nguyên đã bị khai thác cạn kiệt, dân số ngày càng gia tăng; nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng và đòi hỏi ngày càng nhiều, càng cao. Đứng trước những thách thức có tính toàn cầu phải giải quyết khi bước vào nền văn minh hậu công nghiệp như sản xuất lương thực, hạn chế sự gia tăng dân số, bảo vệ môi trường, chống đói nghèo, bệnh tật, bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh, chống khủng bố…bảo vệ hòa bình…, tất cả các quốc gia, các dân tộc đã tiến hành một cuộc đổi mới giáo dục. Có thể coi đây là cuộc cách mạng giáo dục lần thứ hai trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất diễn ra trên thế giới là khi các nước tư bản chủ nghĩa chuẩn bị từ dã nền văn minh nông nghiệp, tiến hành công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa từ thế kỷ XVII. Những người có công lớn nhất trong cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất phải kể đến là J.A.Coomenxki (1592 – 1670); John Lock (1632 – 1704); J.J.Rutsxo (1712 – 1778). 4 Song công đầu thuộc về Coomenxki vì ông đã sáng tạo ra những lý luận giáo dục có cơ sở khoa học. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của ông là đã sáng tạo ra lý thuyết tổ chức giáo dục, tổ chức dạy học theo hệ thống lớp – bài theo năm học. Cống hiến đócủa ông được triển khai tại tất cả các nước và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Việc tổ chức dạy học theo hệ thống lớp - bài dựa trên cơ sở tâm lí, giáo dục, sinh học kinh tế xã hội của Coomenxki đã góp phần giáo dục – đào tạo các thế hệ trẻ thành lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của nền văn minh công nghiệp cả về số lượng và chất lượng. Với những đóng góp to lớn đó, Coomenxki được coi là ông tổ của nền giáo dục cận, hiện đại và năm 1992, nhân dịp kỉ niệm 400 năm ngày sinh của ông, UNESCO đã ghi nhận ông là một danh nhân văn hóa của thế giới. Có thể thấy, sự phát triển kinh tế chủ nghĩa tư bản đòi hỏi một đội ngũ nhân lực đông về số lượng và có khả năng ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất công, nông nghệp, dịch vụ thương mại…Những đóng góp của Coomenxki đã góp phần giải quyết mâu thuẫn khách quan giữa thực tiễn phát triển kinh tế xã hội với nguồn lực lao động. Vào những năm 70, 80 của thế kỷ XX, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản và một số nước châu Á lại một lần nữa cho thấy vai trò của sự phát triển giáo dục. Nhật Bản vốn là nước tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, lại bị kiệt quệ sau đại chiến thế giới lần thứ 2. Song nhờ có một chiến lược phát triển giáo dục, khai thác trí lực con người đúng hướng nên vào những năm 60, 70, Nhật Bản đã trở thành một nước có mức tăng trưởng kinh tế, khoa học kỹ thuật đánh giá kinh ngạc. Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, các nước phát triển (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật…) muốn củng cố vị trí của mình, còn các nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam muốn không tụt hậu thì không có con đường nào khác là phải phát triển giáo dục để khai thác nguồn tài nguyên Người – nguồn tài nguyên vô tận và là yếu tố quyết định tốc độ phát triển kinh tế xã hội khi bước vào thế kỷ XXI. Vậy, đặc điểm của cuộc cách mạng giáo dục lần này có gì khác so với cuộc cách mạng giáo dục ngót 400 năm trước? Đổi mới giáo dục lần này tập trung khai thác triệt để tiềm năng sẵn có của con người, coi con người là một chủ thể toàn vẹn. Ở mỗi con người có 3 thành tố chủ yếu (trí lực, tâm lực và thể lực), ngoài ra còn các yếu tố sinh học. Ở các nước khác nhau có thuật ngữ khác nhau để chỉ các thành tố quan trọng. Ví dụ ở Việt Nam, các nhà khoa học gọi đó là tố chất (trí lực, tâm lực, thể lực). Các nhà khoa học Trung quốc gọi là trí năng, tâm năng, thể năng. Việc xác định các tố chất trên đây và đặc biệt là làm rõ mối quan hệ, vị trí của các thành tố, tìm ra những giải pháp, cách thức khai thác từng tố chất để phát triển đồng bộ, khai thác triệt để các tố chất là mục tiêu và là đóng góp của cuộc cách mạng giáo dục (đổi mới giáo dục) lần này. Việc xác định nội dung của tâm lực và phân tích vai trò “nội lực” của tâm lực trong sự phát triển nhân cách đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đổi mới chương trình, nội dung giáo dục 5 của các cấp, ngành học, nhất là giáo dục phổ thông. Để phát triển tâm lực thì việc đổi mới các môn khoa học xã hội và nhân văn, coi hoạt động giáo dục, dạy học, gắn giáo dục nhà trường với cuộc sống thực tiễn là những nét mới cơ bản của đổi mới giáo dục ở nhiều nước. Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục, xuất phát từ nhận thức tố chất con người cần phát triển mà mục tiêu thứ nhất của đổi mới giáo dục là tập trung khai thác tiềm năng của mỗi cá thể nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục: Con người phát triển toàn diện (CNPTTD). Mục tiêu thứ hai của đổi mới giáo dục lần này là xây dựng chiến lược giáo dục để khai thác, phát triển, toàn diện con người (PTTDCN). Con người ở đây là nguồn lực người, tài nguyên người với ý nghĩa là số đông các cá thể. Hai phạm trù CNPTTD và PTTDCN là hai mặt của sự định hướng khai thác, phát triển tài nguyên Người để tạo ra nguồn nhân lực thực hiện nền kinh tế tri thức. Có thể nói, hầu hết các nước hiện nay đều tập trung tìm mọi cách khai thác, phát triển nguồn lực người. Chính vì vậy, giáo dục được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp, là một trong nhiều yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì tầm quan trọng của giáo dục trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước mà Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục là quốc sách hàng đầu. Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, cần ưu tiên cho nó mọi điều kiện thuận lợi để phát triển và phải được sự quan tâm của tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội nhằm đổi mới tổng thể, toàn diện hệ thống tổ chức giáo dục quốc dân, đặc biệt là đổi mới các quá trình dạy học và giáo dục trong nhà trường, giáo dục trong gia đình và giáo dục trong xã hội, gắn quá trình giáo dục với hoạt động xã hội. Trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội của nhân loại, chưa bao giờ người lao động cần phải có một trình độ toàn diện ở mức độ cao như giai đoạn hiện nay và sắp tới. Đó là một thử thách đối với cuộc cách mạng giáo dục đang tiến hành ở các nước hiện nay. 1.2.2. Phát triển toàn diện và bền vững nguồn lực người (cá thể và cộng đồng) là mục tiêu của cuộc cách mạng giáo dục hiện nay. Giáo dục công dân góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển con người toàn diện. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc CNH, HĐH”. Đại hội lần thứ IX đã chỉ rõ mục tiêu và mối quan hệ của các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời gian đầu thế kỷ XXI, “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. 6 Muốn thực hiện những mục tiêu trên, không có cách nào khác là phải “Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay”. “…Phải hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao, có cơ cấu hợp lý…”. Trong việc thực hiện những mục tiêu giáo dục, phát triển nguồn nhân lực cho thời kỳ CNH, HĐH đất nước thì việc giáo dục công dân, dạy học môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm phát huy, khai thác tâm lực ở thế hệ trẻ. Phát triển tâm lực là phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống, phát triển các tố chất tâm lý (ý chí, nghị lực, tư duy sáng tạo, năng động…), là phát triển tâm hồn, hướng tới cuộc sống tinh thần lạc quan, yêu đời, vui vẻ, sống hòa nhập với cộng đồng và gần gũi với thiên nhiên; tự điều chỉnh cuộc sống cá nhân hướng tới cuộc sống có văn hóa và hạnh phúc, tránh những căng thẳng về tâm lí, tinh thần… Phát triển tâm lực là điều kiện để phát triển trí lực, thể lực và là cơ sở phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ, năng lực hoàn thiện giao tiếp ứng xử, lao động, hoạt động xã hội, thích ứng với những điều kiện mới… Trong sự phát triển tâm lực, môn GDCD cũng như một số môn Khoa học xã hội – nhân văn và chương trình Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGD NGLL) có ý nghĩa rất quan trọng. Vì mục tiêu, nội dung của môn GDCD là cung cấp cho người học (học sinh) những chuẩn mực đạo đức và pháp luật, xác định những yêu cầu về mặt phẩm chất và năng lực theo đòi hỏi của xã hội một cách hệ thống, phù hợp với lứa tuổi và trình độ nhận thức của học sinh. Những hiểu biết và kỷ năng được hình thành trong quá trình dạy học môn GDCD là chuẩn mực cho mỗi người trong cuộc sống, đồng thời còn trang bị cho học sinh phương pháp luận để tư duy và hành động trong các quan hệ xã hội với tư cách là chủ thể của sự phát triển nhân cách, góp phần xây dựng, phát triển xã hội và cải tạo tự nhiên. Vai trò của môn GDCD có ý nghĩa đặc biệt như trên mà trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều nhấn mạnh phải tăng cường, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học môn học, góp phần tích cực vào việc giáo dục ý thức công dân cho học sinh nói riêng và cho mọi công dân nói chung. 7 CHƯƠNG 2. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 2.1. Vai trò của người giáo viên giảng dạy GDCD Trong nhà trường phổ thông, mỗi môn học có ý nghĩa nhất định trong việc trang bị kiến thức, kỹ năng và hệ thống thái độ cho học sinh. Xuất phát từ đặc điểm, vị trí của môn GDCD mà người giáo viên giảng dạy GDCD ở trường THCS có vị trí đặc biệt trong việc định hướng giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh. Vì vậy, tài liệu này không trình bày hết chức năng, nhiệm vụ của giáo viên nói chung, mà chỉ nhấn mạnh những điểm có tính đặc trưng của giáo viên dạy môn GDCD. 2.1.1. Giáo viên giảng dạy GDCD trước hết phải dạy tốt môn học, phát huy tác dụng giáo dục của môn GDCD trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục ở trường THCS Xuất phát từ vị trí môn học trong trường phổ thông mà giáo viên giảng dạy GDCD có vai trò rất đặc biệt trong quá trình giáo dục đạo đức, pháp luật, giáo dục tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh. Giáo viên giảng dạy GDCD cần ý thức đầy đủ rằng giảng dạy môn GDCD chính là một con đường, một điều kiện để thực hiện việc hình thành, phát triển các phẩm chất đạo đức, chính trị ở học sinh. 2.1.2. Giáo viên giảng dạy GDCD phải là người tư vấn cho các giáo viên bộ môn khác và cho các tổ chức trong nhà trường xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh các lớp Mục tiêu giáo dục phẩm chất (đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống) ở THCS được cụ thể hóa thành mục tiêu môn GDCD ở các lớp. Vì vậy nắm chắc, hiểu sâu sắc mục tiêu chương trình, nội dung môn GDCD ở từng lớp chính là tiêu chuẩn cơ bản thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức ở THCS. Có thể nói, giáo viên GDCD là những người hiểu rõ, cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức nói chung và tổ chức dạy học môn GDCD nói riêng hơn giáo viên các môn học khác. Vì lẽ đó, giáo viên dạy GDCD cần phải là người có tư vấn cho ban giám hiệu, cũng như các giáo viên bộ môn khác, và các tổ chức trong và ngoài nhà trường thực hiện các mục tiêu giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh. 2.1.3. Giáo viên giảng dạy GDCD cần phối hợp với hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức chương trình HĐGD NGLL nhằm giáo dục toàn diện nhân cách học sinh qua các hoạt động. Giáo viên GDCD cần hiểu đầy đủ mối quan hệ giữa môn GDCD với các môn học trong trường, đặc biệt là mối quan hệ với chương trình HĐGD NGLL. Việc đưa HĐGD NGLL vào chương trình giáo dục ở trường THCS, THPT là một biểu hiện của sự đổi mới giáo dục lần này. Chương trình HĐGD NGLL được thiết kế thực hiện tiến hành một cách có hể thống từ lớp 6 đến lớp 12 (ở tiểu học vì học 2 buổi nên các hoạt động giáo 8 dục được tích hợp vào hoạt động chung trong kế hoạch dạy học). HĐGD NGLL ở THCS cũng như THPT có một mục tiêu chung là thông qua các loại hình hoạt động đa dạng, phong phú được tổ chức ngoài giờ học văn hóa ở trong cũng như ngoài nhà trường để củng cố, mở rộng kiến thức các môn học, gắn lý thuyết với các hoạt động phong phú của cuộc sống; qua hoạt động hình thành, phát triển kỹ năng, năng lực cần thiết ở học sinh; đồng thời phát triển hệ thống thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin ở các em. Mục tiêu đó của HĐGD NGLL cũng là mục tiêu của môn GDCD. Nói một cách khác, mục tiêu của môn GDCD và HĐGD NGLL có những yêu cầu giao thoa nhau. Cần thấy, mỗi tiết dạy trên lớp của môn GDCD không thể hình thành ngay những giá trị chuẩn mực ở các em, nhất là hình thành kỹ năng, tình cảm, niềm tin. Vì vậy phải thấy HĐGD NGLL là môi trường, là điều kiện, là cơ hội để học sinh rèn luyện những yêu cầu giáo dục của môn GDCD trong giờ lên lớp. Chính vì mối quan hệ tương hỗ giữa môn GDCD và HĐGD NGLL mà giáo viên GDCD nên hiểu thật rõ chương trình HĐGD NGLL để kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức tốt các yêu cầu, nội dung HĐGD NGLL. Ở từng lớp, mục tiêu giáo dục của môn GDCD và của chương trình HĐGD NGLL cũng có tính tương đồng và tương ứng ở ngay mỗi lớp. Ví dụ ở lớp 9, trong chương trình môn GDCD có bài học giáo dục ý thức trách nhiệm, nhiệm vụ của thanh niên, học sinh trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thì trong chương trình HĐGD NGLL có những hoạt động xã hội về bảo vệ môi trường, tham gia giữ gìn trật tự xã hội, chống các tệ nạn xã hội… Có thể nói, việc xây dựng chương trình GDCD và HĐGD NGLL đảm bảo tính liên thông, tích hợp là một quan điểm mới có ý nghĩa không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh phổ thông. Vì vậy, chẳng những người giáo viên chủ nhiệm lớp cần nắm vững mục tiêu, nội dung môn GDCD mà ngược lại, người giáo viên giảng dạy GDCD phải chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp để làm tư vấn cho học sinh tổ chức các nội dung của chương trình HĐGD NGLL. 2.1.4. Giáo viên giảng dạy GDCD cần phát huy vai trò là người tham mưu, tư vấn cho Hội cha mẹ học sinh của trường và các lớp. Từ trước đến nay, vai trò tư vấn cho Hội cha mẹ học sinh thường giao cho giáo viên chủ nhiệm lớp, điều đó đến nay vẫn đúng. Song, theo chương trình đào tạo giáo viên GDCD của trường CĐSP, người sinh viên sẽ được trang bị về kiến thức và rèn luyện kỹ năng tổ chức, phối hợp các lực lượng xã hội chu đáo hơn các ngành đào tạo giáo viên các môn học khác. Vì vậy thời gian sắp tới, giáo viên giảng dạy GDCD cần tích cực, chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm và Ban giám hiệu nhà trường đề xuất nội dung hoạt động của Hội cha mẹ học sinh. Ví dụ: Hội cha mẹ học sinh phải tăng cường tham gia các hoạt động khoa học sư phạm. Cần tổ chức các buổi thảo luận để các bậc phụ huynh nắm vững mục tiêu giáo dục các lớp, các cấp; trao đổi kinh nghiệm, giúp họ hiểu vai trò của giáo dục, trang bị cho họ kiến thức về Tâm lý học, Giáo dục học, giáo dục gia đình và biện pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường, cộng 9 đồng dân cư, tổ chức xã hội, góp phần nâng cao giáo dục đạo đức, pháp luật, lối sống cho học sinh. Trên đây là một vài quan điểm mới về vai trò của giáo viên GDCD để thấy rõ trách nhiệm của giáo viên GDCD trong giai đoạn mới. 2.2. Những yêu cầu đối với giáo viên giảng dạy GDCD Sinh viên chuyên ngành GDCD cần có một số yêu cầu đặc trưng của người giáo viên GDCD và phải coi đó là tiêu chuẩn rèn luyện trong suốt cuộc đời sinh viên để làm tốt công tác dạy học GDCD và giáo dục học sinh sau khi ra trường. 2.2.1. Có kiến thức cần thiết về văn hóa, xã hội của dân tộc và nhân loại để tổ chức dạy học GDCD và giáo dục học sinh Trong lịch sử giáo dục của dân tộc, chưa bao giờ đòi hỏi người thầy giáo, nhất là giáo viên dạy GDCD phải có một trình độ hiểu biết về các lĩnh vực văn hóa, xã hội rộng và sâu sắc như ngày nay. Trước hết vì nội dung môn học liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hóa xã hội, nhân văn, lịch sử… Song, điều quan trọng hơn là dưới tác động của bùng nổ thông tin, gia tốc phát triển của tri thức khoa học kỹ thuật tăng lên không ngừng nên học sinh ngày nay am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Người sinh viên sư phạm ngành này không thể hài lòng với tri thức trong các giáo trình. Muốn trở thành thầy cô giáo có đủ năng lực hoạt động ở trường phổ thông sau nay, người sinh viên ngành GDCD cần tích lũy kiến thức ngay từ khi còn học ở các trường sư phạm và tiếp tục nỗ lực tự học sau khi ra trường. Người giáo viên giảng dạy GDCD cần có kiến thức về một số lĩnh vực sau đây: Tri thức công cụ để tiếp tục học tập: như ngoại ngữ, Tin học…, vì nếu thiếu kiến thức về các lĩnh vực đó sẽ rất khó tiếp cận nhanh với thông tin mới. Những tri thức có tính phương pháp luận: như Triết học, Kinh tế học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh ( Quan điểm của HCM về giáo dục), những đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục. Chỉ khi có những kiến thức cơ bản trên , người giáo viên mới có phương pháp hoạt động thực tiễn sáng tạo và có hiệu quả. Những tri thức nghiệp vụ sư phạm: Tâm lý học, Giáo dục học, những hiểu biết về quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, xu thế phát triển giáo dục trong và ngoài nước. Đặc biệt cần thiết đối với giáo viên giảng dạy GDCD là tri thức về các lĩnh vực văn hóa, lịch sử, văn hóa nghệ thuật, những vấn đề lớn của thời đại (trong và ngoài nước). Những tri thức về các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, chính trị, pháp luật, đạo đức… vừa là tri thức nền cho sự phát triển nhân cách người thầy giáo giảng dạy GDCD, vừa là tri thức cơ bản để bổ sung cho việc giảng dạy tốt GDCD theo chương trình ở THCS hoặc THPT. 2.2.2. Nắm vững mục tiêu, chương trình, cấu trúc nội dung môn GDCD của ở THCS và THPT 10 Sinh viên sư phạm, giáo viên dạy GDCD cần thấy mục tiêu, nội dung chương trình GDCD là một bộ phận trong toàn thể kế hoạch dạy học của trường phổ thông. Song, cũng phải thấy mối quan hệ giữa kế hoạch dạy học và kế hoạch giáo dục toàn diện. Môn giáo dục công dân phục vụ cho cả 2 kế hoạch. Phải thấy tính giao thoa của môn GDCD trong kế hoạch dạy học và kế hoạch giáo dục của nhà trường THCS và THPT. Mục tiêu và nội dung chương trình môn Đạo đức ở tiểu học, môm GDCD ở THCS và THPT lần này được thiết kế dựa trên những giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước với 5 mối quan hệ ( với bản thân, với mọi người, với công việc, với môi sinh và với lý tưởng của dân tộc, của Đảng). Căn cứ vào những giá trị cốt lõi của con người Việt Nam được chuẩn hóa thành các chuẩn hành vi, chuẩn đạo đức, pháp luật, chính trị tư tưởng…để xác định rõ mức độ cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ. Chính vì tính hệ thống, tính phát triển liên tục như vậy mà giáo viên giảng dạy GDCD cần hiểu sâu sắc chương trình, mục tiêu , nội dung GDCD ở THCS, THPT đều cấu trúc theo nguyên tắc đồng tâm, phát triển. Dạy học GDCD ở THCS là quá trình chuẩn bị cơ sở cho dạy học GDCD ở THPT và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Vì vậy giáo viên GDCD ở THCS không chỉ cần biết mục tiêu môn GDCD ở THCS mà còn cần hiểu mục tiêu của môn này ở THPT. 2.2.3. Giáo viên giảng dạy GDCD phải thường xuyên theo dõi tình hình chính trị xã hội trong và ngoài nước, biết tích lũy thông tin, có ý thức vận dụng thông tin mới vào tổ chức dạy học GDCD Môn GDCD là môn học có nội dung liên quan đến các vấn đề giá trị đạo đức, văn hóa, pháp luật, chính trị, kinh tế và các vấn đề xã hội loài người đang phải quan tâm giải quyết như: Dân số, môi trường, hòa bình, chiến tranh, đói nghèo, tệ nạn xã hội, trẻ em, người già… Ở một góc độ nào đó có thể thấy, GDCD là môn học trang bị cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan để HS có ý thức, có phương pháp giải quyết những mâu thuẫn đặt ra với mỗi cá nhân với tư cách là chủ thể của sự phát triển tự nhiên, xã hội và phát triển nhân cách của mỗi người. Với đặc điểm trên, mỗi môn học buộc người giáo viên giảng dạy GDCD phải nghiên cứu, liên hệ mục tiêu, kiến thức của các bài với những vấn đề của thực tiễn có liên quan khi giảng dạy trên lớp. Trong trường phổ thông, kể cả THCS và THPT, không có môn học nào việc liên hệ với thực tế cuộc sống đòi hỏi cao như môn GDCD. Người giáo viên giảng dạy GDCD phải biết tiếp cận với các kênh thông tin, biết tích lũy sự kiện, tư liệu qua văn kiện của Đảng và Nhà nước, qua các phương tiện thông tin đại chúng (vô tuyến, Đài phát thanh, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước), qua các hội thảo, hội nghị, các lớp tập huấn hàng năm…Người giáo viên cần biết phân loại, xử lý các thông tin để phục vụ cho từng bài, từng lớp. Mặt khác, những tư liệu giáo viên tích lũy được còn là nguồn cung cấp cho học sinh trong việc tự học, đặc biệt là những chuyên đề tự chọn của học sinh. 11 Việc sử dụng tư liệu trong dạy học có tác dụng rất lớn, tạo ra hứng thú cho thầy trò trong hoạt động dạy học, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học môn GDCD. 2.2.4. Giáo viên giảng dạy GDCD phải sáng tạo, đổi mới cách thức tổ chức dạy học và vận dụng sáng tạo phương pháp giáo dục với phương pháp dạy học vào giảng dạy môn GDCD Cần nắm chắc phương hướng đổi mới cách tổ chức dạy học môn GDCD. Đó là một yêu cầu đối với giáo viên dạy học GDCD. Trước hết, dạy học môn GDCD không nhất thiết chỉ tổ chức trong lớp học. Nói đúng hơn là cần mở rộng việc tổ chức dạy học ra ngoài lớp học, ra ngoài trường học. Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của mỗi bài và nhóm bài mà lựa chọn hình thức, địa điểm tổ chức dạy học. Ví dụ: những bài liên quan đến pháp luật, nên tổ chức cho học sinh đi dự buổi xét xử của tòa án. Những bài liên quan đến giá trị đạo đức, nên cho học sinh đi tham quan, đối thoại với những người tốt, việc tốt ở các công, nông, lâm trường, các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, nghiên cứu khoa học… Hiệu quả dạy học sẽ được nâng cao nếu những bài học về môn GDCD được tổ chức ở ngay những nơi mà ở đó lý thuyết và thực tế cuộc sống gắn kết với nhau. Ví dụ, không có hiệu quả nào hơn nếu bài học về bảo vệ môi trường, giờ học lại được tổ chức ở nơi môi trường được bảo vệ, khai thác hợp lý như THủy điện Sông Đà, hoặc ở nơi do phá hoại rừng đã dẫn đến những tác hại vô cùng lớn đối với con người như vụ cháy rừng Ninh Bình, lũ quét ở Lai Châu. Một ví dụ khác: thầy cô giáo ở trên lớp không thể nói về tác hại của ma túy tốt hơn nếu cho HS đến thăm trại cai nghiện ở địa phương, HS được mắt thấy tai nghe về tác hại của ma túy. Cần chế tạo, sử dụng các phương tiện, kỹ thuật dạy học một cách sáng tạo. Các phương tiện, đồ dùng dạy học GDCD rất phong phú, bởi lẽ nội dung GDCD liên quan đến các vấn đề văn hóa xã hội. Ngoài việc có ý thức sử dụng các máy móc, kỹ thuật vi tính, giáo viên GDCD cần liên hệ với các cơ quan, các tổ chức xã hội để có những băng hình, đĩa CD, ảnh, mô hình, vật mầu…phục vụ cho việc dạy học GDCD. Song, điều quan trọng là giáo viên cần có ý thức, có kỹ năng chế tạo đồ dùng dạy học đơn giản bằng những nguyên vật liệu có sẵn: tranh vẽ, tranh ghép, các sơ đồ, sáng tạo các loại bài tập, các tình huống giáo dục… Do đặc điểm của môn học, do đặc điểm tâm sinh lý, kinh nghiệm vốn sống còn hạn chế ở học sinh và nhận thức của các em về các vấn đề xã hội chưa thoát khỏi quá trình nhận thức cảm tính… nên việc sử dụng trang thiết bị, đồ dùng dạy học đối với môn GDCD là rất cần thiết. Luôn luôn tự đòi hỏi, luôn luôn tìm tòi sáng tạo đồ dùng dạy học, sử dụng sáng tạo và hợp lý trang thiết bị là một yêu cầu đối với giáo viên giảng dạy GDCD. Nắm vững phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học và kết hợp hai phương pháp là một đòi hỏi đối với giáo viên giảng dạy GDCD. 12 Giảng dạy các môn khoa học khác chỉ cần vận dụng các phương pháp dạy học là đủ. Riêng môn GDCD, vì đặc điểm của môn học là cụ thể hóa của quá trình giáo dục đạo đức nên giáo viên giảng dạy môn GDCD cần nắm vững và biết vận dụng các phương pháp giáo dục đạo đức hợp lí sẽ tăng thêm hiệu quả, chất lượng dạy học môn học. Ngoài những phương pháp giáo dục đạo đức truyền thống như: nêu gương, thuyết phục, giáo dục bằng nề nếp sinh hoạt, khen thưởng, trách phạt…giáo viên GDCD cần hiểu và vận dụng tốt các phương pháp giáo dục như: bùng nổ sư phạm, giáo dục bằng tác động song song, giáo dục bằng hệ thống viễn cảnh, giáo dục bằng truyền thông ( những vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết trong giáo trình phương pháp dạy học GDCD). Một trong những mặt quan trọng nhất đối với giáo viên giảng dạy GDCD là yêu cầu về phẩm chất và năng lực sư phạm của người thầy giáo. 2.3. Những năng lực chủ yếu của người giáo viên nói chung và giáo viên giảng dạy GDCD Phẩm chất và năng lực có mối quan hệ khăng khít với nhau. Mỗi con người ở một giai đoạn nhất định đòi hỏi có những phẩm chất và năng lực nhất định. Chúng tác động lẫn nhau tạo ra bộ mặt nhân cách cá nhân của mỗi người trong một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước, mỗi người lao động đòi hỏi phải có những phẩm chất và năng lực chung. Mỗi cá nhân phải có những năng lực phổ biến thì mới tồn tại và phát triển. Những năng lực chung đòi hỏi bất kỳ một người lao động trên lĩnh vực nào cũng phải có, đó là: 2.3.1. Năng lực tự hoàn thiện Năng lực tự hoàn thiện là khả năng tự định hướng mục tiêu học tập, rèn luyện, xây dựng kế hoạch, từng bước vượt qua mọi khó khăn để đạt tới mục tiêu, dự định đặt ra với một phương pháp hợp lý, khoa học và một ý chí, nghị lực phi thường. Người có năng lực tự hoàn thiện là người biết cân bằng mọi yêu cầu của xã hội và nhu cầu của bản thân, đặt ra kế hoạch khả thi và cân đối mọi mặt: học tập chuyên môn, khoa học kỹ thuật, rèn luyện đạo đức, lối sống, tổ chức vui chơi giải trí bổ ích, thiết thực, biết giữ gìn, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần, giải quyết các mâu thuẫn, các quan hệ một cách chủ động và hợp lý. Trong thực tế cuộc sống, mỗi người đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức do tác động đa phương, đa hướng; giữa yếu tố tích cực và tiêu cực, giữa thiện và ác, giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, giữa giá trị vật chất và tinh thần, giữa lợi ích và trách nhiệm, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái tiến bộ đang phát triển và tính bảo thủ, trì trệ…Trong tình hình hiện nay, mỗi người phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy đòi hỏi mỗi người phải có năng lực tự hoàn thiện toàn diện, trong đó có năng lực tự học, tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, chính trị, lối sống để nhân cách phát triển không ngừng. Thực tế cho thấy, không ít người trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khi phải đối mặt với kẻ thù bên ngoài, họ là 13 những tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng hiện nay, do không có năng lực tự hoàn thiện, chính họ lại gục ngã trước những cám dỗ của đồng tiền và cuộc sống truy lạc. Đối với giáo viên, đặc biệt giáo viên giảng dạy GDCD, năng lực tự hoàn thiện đòi hỏi càng ở mức độ cao bởi lẽ về tri thức, trí tuệ vốn có của mỗi người không phải là vô hạn, vô tận. Nếu không tự học, tự nâng cao trình độ về mọi mặt thì sẽ bị tụt hậu so với tốc độ phát triển xã hội, sẽ không đảm nhận được trách nhiệm của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay. 2.3.2. Năng lực giao tiếp ứng xử Năng lực giao tiếp ứng xử là khả năng cư xử của mỗi người đối với mọi người xung quanh khi gặp gỡ và trong mọi hoạt động. Người có năng lực giao tiếp có văn hóa là người có phương pháp cư xử hợp lý, linh hoạt… phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội và những quy phạm của pháp luật, thể hiện là người có hiểu biết, chân thành, lịch sự, làm cho mọi người xung quanh thấy mến phục. Trong xã hội văn minh phát triển, mở cửa hội nhập, giao lưu phong phú như ngày nay thì năng lực giao tiếp ứng xử có văn hóa là điều kiện vô cùng cần thiết để mỗi người tiếp thu vốn sống của mọi người và chia sẻ với mọi người để cùng phát triển. Đối với thầy cô giáo, năng lực giao tiếp ứng xử còn là phương tiện, là điều kiện giúp họ thực hiện tốt, có hiệu quả nhiệm vụ , trách nhiệm nghề nghiệp. Muốn có năng lực giao tiếp ứng xử có văn hóa, người thầy giáo phải rèn luyện không ngừng. 2.3.3. Năng lực thích ứng Năng lực thích ứng là khả năng thích nghi có ý thức một cách chủ động, sáng tạo nhằm tận dụng, phát huy những điều kiện thuận lợi, hạn chế những yếu tố bất lợi cho sự phát triển nhân cách, góp phần phát triển xã hội, cải tạo môi trường sống. Trong xã hội phát triển như ngày nay, thiếu năng lực thích ứng sẽ rất khó phát triển nhân cách, sẽ bị đào thải khỏi quan hệ xã hội và không phát huy được vai trò chủ thể trong lao động và hoạt động xã hội. Cần hiểu thích ứng trước hết là dễ dàng thích nghi với điều kiện sống, điều kiện lao động, hoạt động xã hội và cập nhật với những phương tiện kỹ thuật hiện đại, công nghệ mới đang thay đổi hàng ngày. Thích ứng còn là sự thích nghi với vị thế xã hội thay đổi. Ví dụ, một người đang làm quản lý , đến khi không làm quản lý hoặc về nghỉ hưu vẫn dễ dàng sống trong điều kiện và tiếp tục phát huy được tính tích cực xã hội. Hiện nay giáo dục đang có những thay đổi mới rất cơ bản, nhất là môn GDCD, nhiều thầy cô giáo được đào tạo trước đây bất cập với việc đổi mới đó vì không có năng lực thích ứng. 2.3.4. Năng lực hợp tác và cạnh tranh Cần phải hiểu cho đúng, hợp tác và cạnh tranh trong thời đại ngày nay không hoàn toàn đối lập. Hợp tác là phối hợp, giúp đỡ nhau, chia sẻ với nhau, tạo cho nhau những điều kiện để 14 phát triển. Cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay không phải là tiêu diệt nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, “lấy thịt đè người” như chủ nghĩa đế quốc trước đây. Cạnh tranh trong hoạt động là ganh đua, phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo cái mới để phát triển, để vượt lên chính bản thân và người khác, vượt qua khó khăn và sự bảo thủ trì trệ. Để phân biệt tính chất của cạnh tranh ngày nay với kiểu cạnh tranh dấu nghề ngày xưa, người ta gọi là cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là cạnh tranh trong sự hợp tác, giúp nhau, ganh đua với nhau để phát triển. Thầy giáo ngày nay cần phải có năng lực hợp tác và cạnh tranh không chỉ vì sự hoàn thiện, phát triển nhân cách của bản thân mà còn phải giáo dục học sinh có ý thức, có kỹ năng, có thái độ nhận thức đúng về hành vi năng lực này từ nhỏ. Nếu không hình thành năng lực hợp tác và cạnh tranh thì sau này vào đời các em sẽ thiếu điều kiện để phát triển nhân cách. Ngoài những năng lực trên, người thầy giáo trong giai đoạn hiện nay cũng cần có những năng lực quan trọng sau đây: 2.3.5. Năng lực tổ chức quản lý 2.3.6. Năng lực hoạt động chính trị xã hội và các lĩnh vực hoạt động khác 2.3.7. Năng lực nghiên cứu khoa học Trên đây là 7 năng lực chung quan trọng nhất đối với người lao động trên mọi lĩnh vực. Song ở mỗi lĩnh vực lao động cụ thể còn đòi hỏi có năng lực lao động chuyên biệt, đó là năng lực thứ 8. Đối với giáo viên thì đó chính là năng lực sư phạm. 2.3.8. Năng lực sư phạm: Là năng lực lao động nghề nghiệp chuyên biệt của giáo viên. Năng lực này sẽ được trình bày trong một giáo trình khác. 15 CHƯƠNG 3. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THCS 3.1. Mục tiêu chương trình đào tạo giáo viên GDCD ở THCS Sau khi tốt nghiệp cao đẳng sư phạm (CĐSP), ngành Giáo dục công dân (GDCD), sinh viên cần thiết phải đạt được: 3.1.1. Về phẩm chất + Có lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. + Có niềm tin sâu sắc vào sự phát triển của dân tộc, đất nước; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và phương hướng đổi mới, thực hiện lý tưởng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. + Say mê với công việc, yêu thương học sinh nói riêng, yêu thương con người nói chung. + Mẫu mực trong cuộc sống, v.v… + Có trách nhiệm cao và nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của môn học trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường THCS. + Có ý thức thường xuyên tham gia các hoạt động chính trị xã hội của trường, của địa phương và tuyên truyền vận động mọi người xung quanh, tổ chức học sinh thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. 3.1.2. Về năng lực + Có những kiến thức cơ bản về một số lĩnh vực khoa học cơ sở và chuyên sâu để giảng dạy tốt môn GDCD và thực hiện chương trình HĐGD NGLL ở THCS như: kinh tế, chính trị xã hội, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục,… + Hiểu chắc chắn mục tiêu, chương trình và phương pháp dạy học môn GDCD và chương trình HĐGD NGLL ở THCS. + Hiểu được những yêu cầu cơ bản về phẩm chất và năng lực của người giáo viên nói chung, giáo viên giảng dạy GDCD ở trường phổ thông nói riêng. Có các kỹ năng tổng hợp làm cơ sở phát triển các năng lực cơ bản của người giáo viên trong thời kỳ CNH, HĐH như: năng lực tự hoàn thiện; năng lực giao tiếp ứng xử; năng lực thích ứng; năng lực hợp tác và cạnh tranh; năng lực tổ chức quản lý; năng lực hoạt động xã hội, năng lực tổ chức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục và năng lực nghiên cứu khoa học. 3.2. Chương trình đào tạo giáo viên GDCD ở THCS 3.2.1. Kế hoạch đào tạo Kế hoạch đào tạo một môn 16 Kế hoạch đào tạo giáo viên giảng dạy GDCD một môn gồm 13 môn học. Tổng số thời lượng đào tạo là 52 đơn vị học trình ( ĐVHT), trong đó có 7 ĐVHT cho phương pháp dạy học và được phân phối như sau: TT Các môn học Thời lượng đào tạo cho một môn ( 52 ĐVHT) 1 Nhập môn GDCD 2 2 Xã hội học 3 3 Văn hóa học 3 4 Đạo đức học và Giáo dục đạo đức 7 5 Mỹ học và Giáo dục thẩm mỹ 4 6 Pháp luật 7 7 Hành chính Nhà nước 2 8 Giáo dục gia đình 4 9 Những vấn đề của thời đại 3 10 Phương pháp dạy học môn GDCD 7 11 Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 4 12 Kỹ năng nghiên cứu khoa học giáo dục 4 13 Thực tế, thăm quan giáo dục 2 Kế hoạch đào tạo 2 môn Căn cứ vào sự điều chỉnh mục tiêu của chương trình 2 mà kế hoạch đào tạo giáo viên dạy GDCD hai môn gồm 35 ĐVHT, trong đó có 5 ĐVHT cho phương pháp dạy học GDCD. Khối kiến thức bắt TT Các môn học Thời lượng đào tạo cho một môn ( 52 ĐVHT) 1 Nhập môn GDCD 2 2 Xã hội học 2 3 Văn hóa học 2 4 Mỹ học và Giáo dục thẩm mỹ 2 5 Giáo dục gia đình 2 17 buộc: 6 Đạo đức học và Giáo dục đạo đức 5 7 Pháp luật 5 8 Hành chính Nhà nước 2 9 Những vấn đề của thời đại 2 10 Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 2 11 Kỹ năng nghiên cứu khoa học giáo dục 2 12 Phương pháp dạy học môn GDCD 2 13 Thực tế, thăm quan giáo dục 2 3.2.2. Khối kiến thức bắt buộc - Khối kiến thức bắt buộc là 12 môn học với thời lượng được phân phối kèm theo và một học phần tổ chức đi thực tế: 1. Nhập môn GDCD Nhập môn GDCD là môn học giới thiệu khái quát vị trí, vai trò của giáo viên GDCD; vị trí, đặc điểm, nội dung… môn GDCD trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục THCS. ĐỒng thời, giới thiệu khái quát cấu trúc chương trình, kế hoạch đào tạo giáo viên GDCD ở CĐSP. MNGDCD nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, tạo ra một tâm thế chủ động học tập, rèn luyện toàn diện cho học sinh CĐSP. 2. Môn Xã hội học (XHH) XHH nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về sự hình thành và phát triển của con người và xã hội loài người. Từ đó hiểu đặc điểm, tính chất của các hình thái tổ chức xã hội; mối quan hệ logic của các yếu tố kinh tế xã hội – con người – ý thức xã hội – giáo dục. Trên cơ sở những hiểu biết chung đó, sinh viên xác định được trách nhiệm trong việc giáo dục, dạy học môn GDCD ở THCS. 3. Môn Văn hóa học (VHH) Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về văn hóa nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng, mối quan hệ giữa văn hóa với giáo dục trong quá trình giáo dục nhân cách học sinh trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước. Đồng thời hình ảnh ở sinh viên những kỹ năng giao tiếp có văn hóa với các quan hệ xã hội khác nhau, tạo ra tiềm năng để sinh viên sau khi ra trường thực hiện tốt việc tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở trường THCS. 4. Môn Đạo đức học và Giáo dục đạo đức (DĐH và GDDĐ) DĐH và GDDD là môn học tích hợp, kết hợp tri thức của hai lĩnh vực khoa học, đó là Đạo đức học và Giáo dục học (phần giáo dục đạo đức) nhằm trang bị cho sinh viên những kiến 18 thức cơ bản nhất của Đ ĐH. Đồng thời có những hiểu biết về những giá trị đạo đức nói chung, mục tiêu GD DD và phương pháp tổ chức GD DD ở trường THCS. Sau khi học xong, sinh viên sẽ có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống. ĐỒng thời nâng cao trách nhiệm phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. 5. Môn Mỹ học và Giáo dục thẩm mỹ (MH và GDTM) Môn MH và GDTM nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về mỹ học; hiểu ý nghĩa, mục tiêu và cách thức GDTM cho học sinh THCS. MH và GDTM sẽ góp phần nâng cao nhận thức cho sinh viên về sự kết hợp giữa GDTM với giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường phổ thông sau này. 6. Môn Pháp luật (PL). Môn PL cung cấp cho sinh viên những tri thức cơ bản về PL đại cương, mục tiêu, chương trình, nội dung và phương pháp dạy học phần PL ở trường THCS. PL là một trong những nội dung chính của môn GDCD ở THCS, vì vậy môn PL ở CĐSP có ý nghĩa quan trọng cũng như môn DD và GĐ ĐD. 7. Môn Hành chính Nhà nước (HCNN). Môn HCNN nhằm cung cấp cho sinh viên một số vấn đề cơ bản của hành chính Nhà nước, hiểu bản chất và các lĩnh vực quản lý Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Môn HCNN góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho sinh viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của một công dân, trong việc giáo dục học sinh ở THCS. 8. Môn Giáo dục gia đình (GDGĐ) Môn GDGĐ nhằm giúp sinh viên hiểu rõ vai trò của gia đình và giáo dục gia đình, có kiến thức kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục, dạy học của trường THCS. Môn GDGĐ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm cho sinh viên sư phạm trong việc gương mẫu xây dựng gia đình văn hóa. 9. Môn Những vấn đề của thời đại (NVĐCTĐ). NVĐCTĐ là môn học cung cấp cho sinh viên những hiểu biết về các vấn đề mà dân tộc và nhân loại đang phải quan tâm, giải quyết như dân số, môi trường…, giúp sinh viên có kiến thức để giảng dạy GDCD ở THCS. NVĐCTĐ góp phần nâng cao trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc của thời đại. 10. Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân (PPDHGDCD). PPDHGDCD là môn học nhằm trang bị cho sinh viên về kiến thức, rèn luyện kỹ năng tổ chức dạy học GDCD ở THCS. 19 PPDHGDCD góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo của trường CĐSP, tạo ra sự thống nhất giữa trường phổ thông và trường CĐSP. 11. Môn Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGD NGLL) HĐGD NGLL là môn học trang bị cho sinh viên nắm vững cơ sở lý luận của việc tổ chức HĐGD NGLL và yêu cầu của chương trình HĐGD NGLL ở THCS. HĐGD NGLL giúp sinh viên chuẩn bị kỹ năng thực hiện các hoạt động giáo dục học sinh ở trường THCS và biết kết hợp dạy học GDCD với HĐGD NGLL. 12. Môn kỹ năng nghiên cứu khoa học (KNNCKH) KNNCKH giúp sinh viên thêm hoài bão, rèn luyện, phát triển nhân phẩm chất, năng lực trong quá trình học tập ở CĐSP, chuẩn bị hành trang ra trường. 13. Đi thực tế, tham quan (1 ĐVHT) Đi thực tế, tham quan là một yêu cầu trong quá trình đào tạo giáo viên nói chung, giáo viên giảng dạy GDCD nói riêng. Hoạt động thực tế, tham quan giúp sinh viên phát triển tình cảm, nhận thức và năng lực gắn lý luận với thực tế. 3.2.3. Hướng dẫn sử dụng chương trình khung để thiết kế các chương trình đào tạo cụ thể 3.2.3.1. Những điểm mới của cấu trúc chương trình - Lần đầu tiên ở các trường CĐSP có một chương trình đào tạo giáo viên GDCD thống nhất, khoa học xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục ở trường phổ thông trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước. Cấu trúc nội dung chương trình đảm bảo trang bị cho sinh viên một hệ thống kiến thức tương đối đầy đủ, thiết thực để thực hiện tổ chức dạy học môn GDCD ở trường THCS và tạo tiềm năng ban đầu để tự học và học lên ĐHSP. - Chương trình được xây dựng xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu của môn GDCD. - Kết hợp giữa trang bị kiến thức và tổ chức rèn luyện phẩm chất cho sinh viên CĐSP. - Chương trình có tính đến tính hệ thống, liên thông và phát triển giữa CĐSP và ĐHSP về ngành đào tạo giáo viên GDCD. 3.2.3.2. Điểm mới của nội dung chương trình Chương trình gồm 13 môn học và một hoạt động thực tế giáo dục được chia làm 3 phần chính: - Một số môn học nhằm trang bị tri thức nền để sinh viên có hiểu biết tương đối rộng, phục vụ cho việc giáo dục đạo đức, dạy học GDCD gồm: Nhập môn GDCD, Xã hội học, Văn hóa học, Mỹ học và Giáo dục thẩm mỹ, Giáo dục gia đình, Những vấn đề của thời đại. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan