1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA NHÂN HỌC
TẬP BÀI GIẢNG
NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
CHỦ BIÊN: PGS.TS NGUYỄN VĂN TIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH , NĂM 2010
2
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi nhân học tồn tại với tư cách là một ngành khoa học, cùng với việc nghiên
cứu cơ bản các nhà nhân học đã sử dụng các kỹ năng và kiến thức của mình để giải
quyết những vấn đề của cuộc sống. Khi có nhiều nhà nhân học tăng cường áp dụng
kiến thức và các kỹ năng vào các chương trình hành động mà mục tiêu là nhằm biến
đổi hành vi của con người, nhằm cải thiện những vấn đề kinh tế-xã hội và công nghệ
hơn là nghiên cứu cơ bản và giảng dạy thì lĩnh vực nhân học ứng dụng được hình
thành. Trong 4 phân ngành chính của nhân học thì nhân học ứng dụng được áp dụng
rộng rãi tuy nhiên mức độ có đậm nhạt khác nhau trong từng lĩnh vực cụ thể. Được áp
dụng rộng rãi hơn cả là nhân học y tế, nhân học giáo dục, nhân học du lịch, nhân học
môi trường …Từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay nhân học ứng dụng được phát
triển khi lý thuyết phát triển được áp dụng rộng rãi trong các ngành KHXH & NV
trong đó có nhân học.
Ở Việt Nam, truyền thống nghiên cứu dân tộc học/ nhân học vẫn thiên về mặt ứng
dụng như việc nghiên cứu xác định thành phần dân tộc giúp cho nhà nước hiểu biết
đầy đủ hơn về các dân tộc, các nghiên cứu về kinh tế, xã hội và văn hóa các dân tộc
cũng mang đậm tinh ứng dụng của nó nhằm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
nhà nước. Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, các nhà dân tộc học, nhân học đã
tham gia vào các chương trình, dự án trong và ngoài nước được thực hiện ở Việt Nam
thì tính ứng dụng của nó ngày càng thể hiện rõ rệt. Nhưng trong nghiên cứu và đào
tạo nhân học hiện nay lại chưa có một các môn học và các giáo trình về nhân học ứng
dụng nhằm trang bị cho sinh viên và các nhà nghiên cứu những lý thuyết cơ bản và các
phương pháp tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của nhân học ứng dụng.
Để góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhân học ứng dụng hiện nay, khoa nhân học đã
thành lập Bộ môn Nhân học phát triển trong đó có giảng dạy môn nhân học ứng dụng.
Trong quá trình giảng dạy môn học này, trong những năm qua Bộ môn nhân học phát
triển đã tiến hành dịch thuật hai giáo trình hiện nay được sử dụng rộng rãi ở các trường
đại học nhiều nước Bắc Mỹ và các nước khác. Đó là giáo trình của John Van Willigen:
Nhân học ứng dụng được tái bản lần thứ 3 và giáo trình được biên tập bởi Satish Kedia
và John van Willigen: Nhân học ứng dụng: các lĩnh vực ứng dụng; ngoài ra chúng tôi
còn tham khảo các sách và tạp chí khác liên quan đến nhân học ứng dụng.
Khi tiến hành giảng dạy môn học nảy, chúng tôi gặp phải một số khó khăn, thứ nhất về
lý thuyết và phương pháp tiếp cận là còn mới mẻ ở Việt Nam; thứ hai, các nghiên cứu
trường hợp trong nhân học ứng dụng chủ yếu từ các nước Bắc Mỹ và các nước khác
mà bối cảnh xã hội và văn hóa rất khác biệt với Việt Nam làm cho sinh viên khó hiểu
khi vận dụng kiến thức vào nghiên cứu cụ thể. Để khắc phục tình trạng đó, khi tiến
hành biên soạn tập bài giảng này về phần lý thuyết và phương pháp tiếp cận chủ yếu
biên dịch dựa vào hai giáo trình nói trên, ngoài ra có biên soạn bổ sung thêm những
lĩnh vực mà ở Việt Nam có tài liệu như Nhân học trong phát triển và lý thuyết phát
triển, nghiên cứu hành động và nghiên cứu hành động có sự tham dự, đánh giá nhanh
nông thôn có sự tham gia của người dân…các nghiên cứu trường hợp thường là chúng
tôi lấy tài liệu trong các chương trình và dự án phát triển trong nước và quốc tế ở Việt
nam để minh họa, cố gắng Việt Nam hóa để bài giảng mang nội dung thiết thực hơn.
3
Tập bài giảng không đi sâu vào các lĩnh vực ứng dụng của nhân học mà chủ yếu trang
bị cho người học các lý thuyết và phương pháp tiếp cận trong nhân học ứng dụng như
là môn học cơ sở của phân ngành Nhân học phát triển.
Nội dung của cuốn sách bao gồm 3 chương chính cung cấp kiến thức nền tảng của
nhân học ứng dụng.
Chương một, giới thiệu tổng quan về nhân học ứng dụng về các lĩnh vực của nhân học
ứng dụng, lược sử phát triển của nhân học ứng dụng và đạo đức nghề nghiệp của nhà
nhân học.
Chương hai trình bày các cách tiếp cận đối với phát triển trong nhân học bao gồm lý
thuyết về phát triển và nhân học trong phát triển; các cách tiếp cận đối với phát triển
trong nghiên cứu ứng dụng như: nghiên cứu hành động và nghiên cứu hành động có sự
tham gia, nghiên cứu có sự cộng tác, chương trình đánh giá nhanh nông thôn có sự
tham gia của người dân, trung gian văn hóa và tiếp thị xã hội. Ở đây có các cách tiếp
cận mà ở Việt Nam đã sử dụng trong những năm gần đây trong nghiên cứu phát triển
mang tính liên ngành, nhưng cũng có những cách tiếp cận mới mà Việt mà chưa quen
ứng dụng do sự phát triển của học thuật và cả bối cảnh kinh tế xã hội.
Chương ba nghiên cứu chính sách trong nhân học giới thiệu các nội dung chính : nhân
học như là việc nghiên cứu chính sách, đánh giá các tác động xã hội, quản lý tài
nguyên văn hóa…
Tập tài liệu giảng dạy được biên dịch và biên soạn dựa trên nguồn tài liệu dịch của các
cộng tác viên là cán bộ giảng dạy trong và ngoài khoa: Th.s Ngô Thị Phương Lan,
Th.s Trần Cao Bội Ngọc, Th.s Nguyễn Thành Lân, cn Nguyễn Nữ Nguyệt Anh.
Không có sự tham gia tích cực của họ thì tập bài giảng này không thể hoàn thành
được.
Nhân học ứng dụng là môn học lần đầu tiên được giảng dạy ở Việt Nam. Để đáp ứng
nhu cầu cấp bách phục vụ sinh viên và học viên cao học, tập thể chúng tôi cố gắng
biên dịch và biên soạn tập bài giảng này làm tài liệu giảng dạy và học tập cho sinh
viên. Trong quá trinh biên soạn với kiến thức còn hạn chế, chắc còn nhiều điểm thiếu
sót. Chúng tôi mong muốn sự góp ý chân thành của các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng
dạy và sinh viên để tiếp tục bổ sung, nâng cao chất lương bài giảng trong các lần tái
bản tới. Thư từ xin gửi về địa chỉ: Khoa Nhân học Trường Đại học KHXH & NV 1012 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, TP. HCM, hoặc qua email:
[email protected].
Thay mặt tập thể tác giả
PGS. TS Nguyễn văn Tiệp
4
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
I. CÁC LĨNH VỰC CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
1. Nhân học ứng dụng là gì?
2. Phạm vi ứng dụng
3. vai trò của nhà nhân học thực hành
4. Phạm vi đối với công việc ứng dụng
II. LƯỢC SỬ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
1. Giai đoạn trước khi chính thức trở thành chuyên ngành (trước 1860)
2. Giai đoạn dân tộc học ứng dụng (1860-1930)
3. Giai đoạn liên ngành (1930 – 1945)
4. Giai đoạn mở rộng vai trò, giá trị hiện thị (1945 – 1970)
5. Giai đoạn nghiên cứu chính sách (1970 cho đến nay)
III: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA CÁC NHÀ NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
1. Những vấn đề đạo đức trong bối cảnh lịch sử
2. Vấn đề riêng tư
3. Vấn đề về sự cho phép
4. Vấn đề thiết thực
5. Vấn đề thông tin liên lạc
6. Đạo đức trong ứng dụng
7. Những chỉ dẫn thực hành về mặt đạo đức nghề nghiệp
8. Tuyên bố về những trách nhiệm nghề nghiệp và đạo đức đối với hội nhân học
ứng dụng
Kết luận
CHƯƠNG 2: CÁC CÁCH TIẾP CẬN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN TRONG NHÂN
HỌC
I. NHÂN HỌC TRONG PHÁT TRIỂN
1. Tiêu chuẩn phát triển
2. Nền tảng của các quan điểm
II. NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG VÀ NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG CÓ SỰ THAM
GIA
1. Sự phát triển của cách tiếp cận
2. Những khái niệm chính
3. Quá trình nghiên cứu hành động có sự tham gia
5
4. Phương pháp cùng tham gia
III. NGHIÊN CỨU CÓ CỘNG TÁC
1. Sự phát triển của nghiên cứu có sự cộng tác
2. Những khái niệm chính trong nhân học nghiên cứu có sự cộng tác
3. Các thành tố của sự cộng tác thành công
4. Quá trình cộng tác trong nhân học
IV. CHƯƠNG TRÌNH ĐÁNH GIÁ NHANH NÔNG THÔN CÓ SỰ THAM GIA
CỦA NGƯỜI DÂN ( PARTICIPATORY RURAL APPRAISAL: PRA)
1. Tại sao lại sử dụng phương pháp PRA?
2. Sự phát triển của cách tiếp cận
3. Tiến trình đánh giá nhanh nông thôn
4. RRA so sánh với PRA
5. Cách tiếp cận PRA
6. Các phương pháp PRA
V. TRUNG GIAN VĂN HOÁ
1. Sự phát triển của mô hình trung gian văn hoá
2. Các khái niệm trong trung gian văn hoá
3. Vai trò của trung gian văn hóa
4. Quá trình của việc làm trung gian văn hóa
5. Các giai đoạn của tiến trình
Ví dụ 1. Chương trình chăm sóc sức khoẻ tinh thần của cộng đồng Miami
6. Năng lực văn hóa
Ví dụ 1. Chương trình năng lực văn hóa Kaiser Permanente: một nghiên
cứu trường hợp
Tóm tắt
VI. TIẾP THỊ XÃ HỘI
1. Sự phát triển của cách tiếp cận
2. Quá trình tiếp thị xã hội
6
3. Tiếp thị xã hội và các nhóm tập trung
Ví dụ 1. Sự khởi đầu tốt đẹp: dự án tăng cường việc nuôi con bằng sữa mẹ
- một nghiên cứu trường hợp
Ví dụ 2. Tiếp thị xã hội trong việc sử dụng thuốc tránh thai tại khu vực phía
nam: từ miễn phí đến tự mua dùng
Tóm tắt
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TRONG NHÂN HỌC
I. NHÂN HỌC NHƯ LÀ VIỆC NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH
1. Quá trình chính sách
2. Một số thực hành nghiên cứu chính sách hiện thời
3. Một khuôn khổ cho việc gia tăng sử dụng nghiên cứu chính sách
Tóm tắt
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI
1. Định nghĩa tác động xã hội
2. Đạo luật chính sách môi trường quốc gia (NEPA)
3. Báo cáo tác động môi trường
4. Các phương pháp và kỹ thuật
5. Các bước trong quá trình đánh giá tác động xã hội
Ví dụ 1. Các kế hoạch Michigan cho siêu dẫn siêu va chạm
(superconducting super collider) được đánh giá: một nghiên cứu trường
hợp
Ví dụ 2: Đánh giá tác động xã hội trong công tác di dời tái định cư trong
các công trình thủy điện ở nước ta hiện nay
Tóm tắt
III. ĐÁNH GIÁ
7
1. Phương pháp luận nghiên cứu hợp nhất
2. Quá trình đánh giá
3. Các lý do tại sao các thiết kế mềm lại thích hợp nhất
4. Các lý do tại sao các thiết kế cứng thích hợp nhất
5. Các bối cảnh về vai trò của đánh giá
Ví dụ 1. Đánh giá chương trình mùa hè an tòan cho tập đoàn các dịch vụ
quốc gia: nghiên cứu trường hợp
Ví dụ 2. Cải cách giáo dục được đánh giá ở Kentucky: một nghiên cứu
trường hợp
Ví dụ 3. Đánh giá nhu cầu cộng đồng ở Saskatoon: nghiên cứu trường hợp
Tóm lại
IV. QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VĂN HOÁ
1. Trường hợp phần đất chôn cất của người châu Phi
2. Luật lệ và nguyên tắc
3. Quá trình đánh giá tác động tài nguyên văn hóa
4. Lưu trữ
Ví dụ 1. Dự án lô đậu xe búyt Pentran, một dự án điển hình mục 106 CRM:
một nghiên cứu trường hợp
Ví dụ 2. Dự án Fai – 270, một dự án làm dịu quy mô lớn: nghiên cứu
trường hợp
Ví dụ 3. Dự án hành lang sông Colorado Paiute phía nam, miêu tả dân tộc
học ở CRM: một nghiên cứu trường hợp
Tóm tắt
8
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
I. CÁC LĨNH VỰC CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
1. Nhân học ứng dụng là gì?
Keå töø chieán tranh theá giôùi thöù 2, nhieàu nhaø Nhaân hoïc ñaõ höôùng
nhöõng keát quaû nghieân cöùu cuûa mình vaøo nhöõng öùng duïng cuï theå, neân
ngaønh Nhaân hoïc xuaát hieän theâm moät phaân ngaønh, Nhaân hoïc öùng duïng
(Applied Anthropology).
Nhaân hoïc öùng duïng laø ngaønh maø caùc nhaø nghieân cöùu aùp duïng
caùc döõ lieäu, caùc khaùi nieäm, lyù thuyeát, vaø phöông phaùp cuûa Nhaân hoïc
vaøo vieäc giaûi quyeát caùc vaán ñeà ña daïng khaùc nhau trong caùc coäng ñoàng
daân cö cuûa theá giôùi ñöông ñaïi.
Trong moái quan heä vôùi boán phaân ngaønh truyeàn thoáng cuûa Nhaân hoïc,
Nhaân hoïc öùng duïng coù moái lieân heä khăng khít vaø maät thieát. Söï khaùc nhau
cô baûn giöõa Nhaân hoïc öùng duïng vaø Nhaân hoïc thuaàn tuùy ôû giai ñoaïn ñaàu
phaùt trieån cuûa Nhaân hoïc laø ôû tính öùng duïng cuûa noù. Trong khi Nhaân hoïc
thuaàn tuyù vôùi boán phaân ngaønh truyeàn thoáng thieân veà tính lyù thuyeát thì
Nhaân hoïc öùng duïng laïi thieân veà tính thöïc haønh, söï öùng duïng cuûa caùc
nghieân cöùu vaøo vieäc giaûi quyeát caùc vaán ñeà cuûa xaõ hoäi. Tính öùng duïng
naøy ñöôïc phaùt trieån maïnh meõ keå töø chieán tranh theá giôùi thöù 2 khi maø
vieäc tìm hieåu caùc vaán ñeà veà con ngöôøi vaø xaõ hoäi con ngöôøi treân theá giôùi
trôû neân heát söùc caáp thieát.
Trong quaù trình hình thaønh vaø phaùt trieån, Nhaân hoïc öùng duïng ñaõ coù
raát nhieàu teân goïi khaùc nhau, chaúng haïn nhö: Nhaân hoïc haønh ñoäng (action
anthropology), Nhaân hoïc phaùt trieån (development anthropology), Nhaân hoïc thöïc
haønh (practical anthropology), Nhaân hoïc bieän hoä (advocacy anthropology) sẽ
được đề cập trong chương sau. Ngaøy nay, thuaät ngöõ Nhaân hoïc öùng duïng
(Applied Anthropology) ñöôïc söû duïng phoå bieán nhaát.
Tất cả những thuật ngữ này đều chứa đựng những ý nghĩa thích hợp với hòan
cảnh riêng biệt và được xem xét trong bối cảnh cụ thể.
Khái niệm nhân học ứng dụng cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một
trong những định nghĩa của George Foster trong cuốn sách của ông Nhân học ứng
dụng (1969) được phổ biến rộng rãi: “nhân học ứng dụng là một cụm từ được sử dụng
phổ biến bởi các nhà nhân học dùng để mô tả về các hoạt động nghề nghiệp của họ
trong các chương trình mà mục tiêu cơ bản là biến đổi hành vi của con người nhằm
cải thiện những vấn đề xã hội, kinh tế và công nghệ hơn là sự phát triển của lý thuyết
xã hội và văn hoá”.
Định nghĩa này còn khá hữu ích. Foster xác định chủ đề chính trong nhân học
ứng dụng như “giải pháp cho các vấn đề”. Việc sử dụng cụm từ “trong các chương
trình” của ông dường như ám chỉ rằng các nhà nhân học ứng dụng không làm việc trực
tiếp với các cộng đồng. Nhân học hỗ trợ phát triển và nhân học cộng tác là những loại
nhân học ứng dụng thực hiện điều đó. Định nghĩa dường như cũng nhấn mạnh đến sự
thay đổi được coi là mục tiêu, trong khi có một số thí dụ của nhân học đang được sử
dụng để đảm bảo tính ổn định (Van Willigen 1981b).
Việc sử dụng nhân học ứng dụng thứ hai là trong sự đối lập với một số loại hoạt
động thực tiễn khác mà mọi người đang ủng hộ. Một nguyên nhân quan trọng trong
9
việc đổi tên là do nhân học ứng dụng có uy thế thấp hơn so với các lĩnh vực nhân học
khác. Nếu bạn nhìn vào ngành học, những người có uy tín cao hơn là những người mà
thực hiện những nghiên cứu cơ bản nói chung và viết lý thuyết nói riêng. Mô thức này
thì khá phổ biến trong các ngành học thuật nói chung. Có một sự thay đổi tên của các
hoạt động thực tiễn ứng dụng cách tân để không dính líu đến uy tín được cho là thấp
hơn của sự ứng dụng thực tiễn.
Ở cấp độ chung, một người nào đó có thể cho rằng nhân học có hai khía cạnh,
một khía cạnh liên quan đến giải pháp cho các vấn đề lý thuyết và khía cạnh còn lại
liên quan đến giải pháp cho các vấn đề thực tiễn. Khía cạnh đầu tiên chúng ta gọi là
nhân học lý thuyết hay đôi khi gọi là nhân học cơ bản và khía cạnh thứ hai gọi là nhân
học ứng dụng hay nhân học thực hành. Cả hai thuật ngữ đều chứa đựng tính đa dạng.
Phần nhiều nhân học lý thuyết không thực sự là lý thuyết. Chúng ta chỉ sử dụng thuật
ngữ để mô tả mục đích được hàm ý đến. Cơ bản cũng là một thuật ngữ sai lạc bởi nó
đề xuất rằng nó xuất hiện trước, hay đầu tiên và phục vụ với tư cách là một nền tảng
cho các hoạt động thực tiễn hơn. Như sẽ được chỉ ra sau này, hoạt động thực hành
thường là nền tảng cho sự phát triển lý thuyết quan trọng. Mặc cho những vấn đề về
ngữ nghĩa này, sự tương phản về lý thuyết và ứng dụng là sự phân biệt hữu ích.
Định nghĩa được sử dụng trong cuốn sách này dựa trên cơ sở xem xét khá nhiều
kiểu thực hành nhân học khác nhau. Việc xem xét những hoạt động được coi là điển
hình nhân học ứng dụng sẽ giúp chúng ta định nghĩa lĩnh vực theo cách sau: nhân học
ứng dụng là một phức hợp những phương pháp liên quan, dựa trên nghiên cứu và
phương pháp sử dụng công cụ để tạo ra sự biến đổi hay ổn định trong các hệ thống
văn hoá đặc trưng thông qua việc cung cấp dữ liệu, sự khởi đầu của hành động trực
tiếp và/ hay của việc thiết lập chính sách. Quá trình này có thể có nhiều hình thức,
khác nhau trong các thuật ngữ của vấn đề, vai trò của các nhà nhân học, làm thúc đẩy
các giá trị và phạm vi liên quan của hành động.
Định nghĩa được sử dụng ở đây phát biểu rằng, nhân học ứng dụng có một phạm
vi kết quả rộng lớn. Chúng là thông tin, chính sách và hành động. Trong quá khứ và
ở thời điểm hiện tại, kết quả điển hình nhất của các nhà nhân học ứng dụng là thông tin
được sử dụng để xây dựng chính sách hay thúc đẩy hành động.
2. Phạm vi ứng dụng
Bằng thuật ngữ phạm vi ứng dụng, chúng tôi hàm ý rằng kiến thức và kỹ thuật
liên quan đến bối cảnh làm việc đặc biệt. Phạm vi ứng dụng bao gồm phương pháp tạo
ra mối quan hệ giữa thông tin, chính sách và hành động, và bối cảnh của ứng dụng bao
gồm kiến thức liên quan đến lĩnh vực vấn đề riêng và bối cảnh làm việc.
Phương pháp ứng dụng bao gồm các hoạt động trí tuệ mà qua chúng các nhà
nhân học ứng dụng tạo ra các sản phẩm và tạo ra những ảnh hưởng. Quan điểm này
phù hợp với nội dung của phương pháp nghiên cứu được Pelto và Pelto (1978) trình
bày ở đây. Đó đơn giản một phạm vi của kế hoạch bao gồm hành động và chính sách.
Thông tin
Thông tin được xem là cơ sở của hai sản phẩm khác và có thể tồn tại trong nhiều
hình thức. Thông tin mà chúng ta đề cập có thể nằm trong dữ liệu thô cho đến lý
thuyết chung. Chủ yếu, các nhà nhân học ứng dụng bàn về thông tin giữa hai thái cực
này. Thông qua những phương pháp nghiên cứu, chúng ta có thể di chuyển từ việc
quan sát, thông qua các cấp độ khác nhau của quan điểm trừu tượng đến những phát
10
biểu lý thuyết chung hơn. Trong khi mục đích của việc ứng dụng không phải là tạo ra
lý thuyết, những khuôn mẫu của lo-gích nghiên cứu tương tự với những gì được sử
dụng trong hoạt động lý thuyết.
Chính sách
Sản phẩm thứ hai của các nhà nhân học ứng dụng là chính sách. Các chính sách
là những chỉ dẫn để hành động cho phù hợp. Chính sách có thể được phát triển liên
quan tới sự khác nhau lớn trong các tình huống. Tuy nhiên, các trường hợp mà các nhà
nhân học thực sự phát triển chính sách tương đối hiếm. Hầu hết phần liên quan của nhà
nhân học trong quá trình đưa chính sách vào cuộc sống như là một nhà nghiên cứu
cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách. Các kinh nghiệm trải qua của
các nhà nhân học trong quá trình này sẽ được bàn đến trong thuật ngữ cụ thể trong
chương sau.
Hành động
Sản phẩm thứ ba là hành động. Ở đây bao gồm những can thiệp khác nhau của
các nhà nhân học. Toàn bộ các chương sau sẽ đề cập đến hành động khác nhau hay các
chiến lược can thiệp được các nhà nhân học sử dụng. Mỗi một chiến lược có một
khuynh hướng tư tưởng có liên quan về vai trò, các thủ tục và các giá trị được sử dụng
để hướng dẫn hành động.
Ba sản phẩm liên quan theo các cách sau: thông tin có được thông qua nghiên
cứu, thông tin được sử dụng để hình thành chính sách và chính sách hướng dẫn hành
động. Tất nhiên, không điều gì có lý một cách hiển nhiên, mỗi thứ là chủ thể của các
cuộc đấu tranh chính trị. Mối quan hệ cũng hoạt động theo hướng đối lập. Các nhu cầu
hành động và chính sách thường tạo ra thông tin được thu thập thông qua nghiên cứu.
Điển hình là, có một vòng trở đi trở lại thông qua nghiên cứu, hoạch định chính sách
và hành động. Quá trình đánh giá tác động xã hội được mô tả trong chương sau là một
thí dụ điển hình. Đánh giá ảnh hưởng xã hội để dự đoán những ảnh hưởng của một
hành động được thực hiện trong tương lai, như việc xây một con đập và hồ chứa nhân
tạo. Cuộc nghiên cứu được xác định bởi dự định thay đổi ít ra là có giá trị về mặt xã
hội. Thông tin có thể được phản hồi đến các nhà đưa ra quyết định và được sử dụng để
xác định cách hành động nào là tốt nhất khi xem xét nhiều nhân tố, bao gồm cả chính
trị, kinh tế và xã hội. Trong các chương sau “Các cách tiếp cận để phát triển trong
nhân học”, sẽ chỉ ra sự ảnh hưởng lẫn nhau không ngừng giữa thông tin và hành động.
Bên cạnh mối quan hệ giữa thông tin, chính sách và hành động, chúng ta cũng có thể
suy nghĩ về những mục này ở những cấp độ trừu tượng khác nhau. Thông tin, chính
sách và hành động có thể được cho là các thuật ngữ tiến bộ từ giản đơn và cụ thể đến
phức tạp và trừu tượng. Các nhà nhân học với tư cách là các nhà khoa học xã hội cảm
thấy quá quen thuộc với kiểu quan hệ này dưới dạng là cầu nối giữa các dữ liệu và lý
thuyết chung. Mối quan hệ tương tự tồn tại trong những thực tế của chính sách và hành
động. Quan điểm quan trọng nhất đó là ba vấn đề thực tại có cấu trúc hợp lý phần nào
tương tự nhau.
Cấu trúc chung của các mối quan hệ qua các loại thông tin, chính sách và hành
động và giữa những cấp độ đơn giản và phức tạp được chỉ ra trong bảng minh họa 1.2.
Bảng minh họa này bắt nguồn từ nội dung của phạm vi phương pháp luận được Pelto
và Pelto mô tả (1978). Mô hình của họ mô tả các khía cạnh của quá trình nghiên cứu
khoa học, trong khi mô hình được trình bày ở đây nỗ lực chỉ ra cầu nối giữa thông tin,
chính sách và hành động cũng như cấu trúc chung hợp lý của quá trình.
11
Biểu đô mô tả các yếu tố của quá trình rộng lớn và phức tạp trong lĩnh vực hoạt
động của những người là nghề này. Công việc mà các cá nhân làm hiếm khi là toàn bộ
quá trình. Chức năng điển hình đối với nhà nhân học ứng dụng có thể là để thu thập
thông tin chuyển giao cho nhà hoạch định chính sách. Chính sách có thể được sử dụng
để hướng dẫn hành động do người khác tiến hành thực hiện. Tất nhiên, không chỉ duy
nhất có quá trình này đối với nhân học. Việc hợp tác mà không có sự có mặt của nhà
nhân học tiêu biểu ở nhiều điểm khác nhau trong quá trình. Điều này thường đòi hỏi
phải có sự giải thích nội dung. Thông tin được thông báo có thể xuất phát từ nghiên
cứu mục tiêu đặc biệt, nguồn thứ cấp hay kiến thức chuyên ngành chung của nhà nhân
học có liên quan. Không phải tất cả mọi thứ đều đòi hỏi hay cho phép phải tiến hành
nghiên cứu để giải quyết các vấn đề đặc biệt. Trong một số trường hợp, những gì được
yêu cầu là sự chuyển giao một vài nguyên nhân hay những giải thích. Do đó, có sự
khác biệt lớn trong phạm vi hay sự tuân theo đúng thủ tục. Công việc của riêng tôi
trong quản lý phát triển, tôi đã bị ấn tượng bởi cách một người có thể hành động nhanh
như thế nào dưới những hoàn cảnh nhất định. Thông tin đến nhà hoạch định chính
sách có thể khác so với thực trạng chủ yếu, dựa trên kiến thức chuyên môn của một
người nào đó được truyền tải trong một cuộc họp mặt, đến bài thuyết trình của một báo
cáo nghiên cứu tỉ mỉ, dựa trên một đề cương theo mẫu. Thông tin cũng có thể chuyển
tải đến công chúng nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc tranh luận
Hình minh họa 1.2 (John van Willigen, tr, 13)
Phương pháp luận của sự ứng dụng
Thực tế của hành động
Thực tế của chính sách
Thực tế của thông tin
Các hệ tư tưởng ứng dụng
trong các hoạt động
Sự định hướng chính
sách chung
lý thuyết chung
Các chính sách được thực
thi
Sự hình thành các
chính sách
Lý thuyết ở khoảng giữa
Hành động theo các mục
đích
Những chỉ rõ cho hành
động liên quan đến một
vấn đề
Dữ liệu liên quan
chính sách được định
hướng theo khái niệm
Những vấn đề cần giải
quyết ở thứ tự thấp hơn
Các hoạt động quan sát
Thế giới thật của những
điều xảy ra và các sự
kiện
12
Hầu hết những gì chúng ta được các nhà nhân học đào tạo liên quan đến cả phương
pháp luận nghiên cứu hay nội dung thông tin. Chúng ta ít được đào tạo về quá trình
ứng dụng được mô tả ở đây như sự ảnh hưởng của thông tin, chính sách và hành động.
Nhiều khía cạnh khác nhau của quá trình được đề cập ở nhiều phần trong cuốn sách.
Mô hình của quá trình ứng dụng và định nghĩa được trình bày ở trên nhấn mạnh tầm
quan trọng của nghiên cứu trong toàn bộ quá trình. Nền tảng của tất cả những điều này
là những kiến thức khách quan có được, sử dụng tiêu chuẩn của nghiên cứu khoa học
là sự hướng dẫn hay các tiêu chuẩn. Trong khi điều này có thể không liên quan đến các
nỗ lực nghiên cứu đặc biệt, thì nó cũng có thể bắt nguồn từ tài liệu hay kiến thức
chuyên môn được chúng ta thích. Như Sol Tax khẳng định rằng, nhân học ứng dụng
không dựa trên nghiên cứu đơn giản chỉ là một kiểu tuyên truyền. (Tax 1958, trong
sách của Gearing, Netting và Peattie 1960: 415).
Cơ sở nghiên cứu của quá trình ứng dụng đi theo hướng có thể được gọi một
cách hợp pháp là nhân học. Cơ sở thông tin của nhân học ứng dụng được định nghĩa
bởi vấn đề chứ không phải là ngành học. Nếu chúng ta giới hạn chính chúng ta kiến
thức liên quan đến chuyên ngành ra khỏi nhân học, chúng ta không thể giải quyết các
vấn đề một cách thích đáng được. Điều này không phải để nói rằng nhân học là một
ngành học không có thông tin đầy đủ, mà đơn giản là nó nói lên thực tế. Hơn nữa,
thông tin có khuynh hướng ứng dụng có những đặc điểm nhất định cho phép nó được
ứng dụng một cách có hiệu quả. Các nhà nhân học ứng dụng xuất sắc có kỹ năng kết
nối thông tin với những vấn đề thực tế. Nhân học là một ngành khoa học chính trị sẽ
bàn về quá trình vận dụng kiến thức. Ít nhất, có ba vấn đề cơ bản là nền tảng của hoạt
động thực tiễn vận dụng kiến thức một cách thành công. Đầu tiên, kiến thức được
chuẩn bị liên quan đến những lĩnh vực nơi mà khách hàng có thể hành động. Nói với
người nào đó về một vấn đề mà họ không thể hành động là lãng phí thời gian. Nhà
nhân học ứng dụng cần có khả năng xác định nơi nào mà hành động có thể diễn ra.
Thứ hai là, kiến thức phải được đưa vào đúng thời điểm. Hành động thường xuyên có
thể có ảnh hưởng trong một khoảng thời gian đặc biệt. Kế hoạch nghiên cứu phải cho
phép hoàn thành đúng thời gian. Nếu mục đích của bạn là ứng dụng, thời gian trở
thành là nhân tố quan trọng. Thứ ba là, kiến thức phải được truyền đạt theo cách làm
cho hành động trở nên dễ dàng hơn. Kết luận cơ bản về quá trình được thể hiện tốt
nhất như là một gợi ý cho hành động với việc chứng minh là đúng.
Bên cạnh những phương pháp của sự ứng dụng như việc cung cấp thông tin một
cách có hiệu quả hay biến thông tin một cách khéo léo thành hành động có hiệu quả,
ngành nhân học thực hành cần biết nhiều về bối cảnh làm việc. Quan trọng nhất là kiến
thức về lĩnh vực chính sách đặc biệt được bàn đến. Trong mỗi môi trường mà các nhà
nhân học làm việc đòi hỏi các loại kiến thức và kinh nghiệm nhất định đảm bảo việc
thực hành có hiệu quả. Đó là những lĩnh vực thực hành mà chúng ta đem kiến thức và
chuyên môn của mình để làm việc chính với tư cách là nhà nhân học. Trong hầu hết
các lĩnh vực có thực hành, nhà nhân học phải học nhiều thứ ngoài nhân học để làm
việc một cách chuyên nghiệp. Như đã được đề cập ở trên, chúng ta nói đến bối cảnh
làm việc và kiến thức liên quan của nó như bối cảnh của sự ứng dụng. Quan điểm giản
đơn này cùng với quan điểm của phương pháp luận ứng dụng giúp tập trung sự chú ý
của chúng ta vào thông tin cần thiết để trở thành một nhà nhân học ứng dụng. Bên
cạnh những lĩnh vực này, chúng ta cũng cần hiểu những khía cạnh của phương pháp
nhân học và kiến thức cần thiết cho công việc mà chúng ta được thuê làm.
13
3.Vai trò của nhà nhân học thực hành
Do nhu cầu cần phải giải quyết những vấn đề về kinh tế, văn hóa xã hội ngay càng gia
tăng, số lượng của những nhà nhân học ứng dụng ngày càng nhiều. Họ làm việc trong
các tổ chức, cơ quan chính phủ, phi chính phủ và các công ty có phạm vi hoạt động
rộng lớn hơn là làm việc giảng dạy và nghiên cứu trong các trường đại học. trong lĩnh
vực của nhân học ứng dụng, họ đóng nhiều vai trò khác nhau được mô tả ngắn gọn
dưới đây:
Nhà nghiên cứu chính sách
Những nhà hoạch định chính sách thường yêu cầu được cung cấp các thông tin
từ các lĩnh vực khác nhau làm nền tảng cho các quyết định chính sách. Việc cung cấp
các thông tin này liên quan đến các kết quả nghiên cứu của các nhà nhân học. Những
thông tin được cung cấp liên quan đến nghiên cứu dân tộc học truyền thống hay nghiên
cứu những vấn đề đương đại. Các nhà nhân học làm công việc ở các giai đoạn khác
nhau trong quá trình nghiên cứu từ thiết kế cuộc nghiên cứu cho đến việc thu thập dữ
liệu. Những thông tin và kết quả nghiên cứu khoa học do các nhà nhân học cung cấp
giúp cho những nhà hoạch định chính sách xây dựng chính sách cho từng các lĩnh vực
khác nhau. Ở đây vai trò của các nhà nhân học như là người nghiên cứu chính sách
khác với những nhà hoạch định chính sách. Chức năng nghiên cứu chính sách là
khá phổ biến đối với các nhà nhân học ứng dụng.
Nhà đánh giá
Nhà đánh giá đóng vai trò như là người nghiên cứu chính sách chuyên môn hoá
liên quan đến việc sử dụng các kỹ năng nghiên cứu để xác định nếu một dự án, chương
trình hay chính sách đang hoạt động một cách có hiệu quả hay có kết quả thành công.
Công việc cơ bản là xác định một cách khách quan giá trị của một điều gì đó. Một số
kiểu đánh giá được gọi là giám sát chương trình. Vai trò này khá phổ biến như là một
công việc quan trọng của nhà nhân học.
Nhà đánh giá tác động
Vai trò người đánh giá tác động cũng là vai trò chuyên nghiên cứu chính sách
liên quan đến việc dự báo các ảnh hưởng của một dự án, chương trình hay chính sách.
Đánh giá tác động luôn nỗ lực xác định các ảnh hưởng của các dự án do chính quyền
lên kế hoạch về các cộng đồng người gần đó. Thông tin được tạo ra luôn có mục đích
gây ảnh hưởng đến kế hoạch dự án; do đó, đánh giá tác động thường xem xét những
khả năng phác thảo khác nhau. Người ta hướng sự chú ý đặc biệt đến những kết quả
không lường trước của các dự án như hồ chứa nước, đường cao tốc và sự xây dựng hệ
thống sân bay. Thuật ngữ đánh giá tác động xã hội thường được sử dụng để mô tả loại
hoạt động này. Vai trò này phổ biến đối với những nhà nhân học ứng dụng, kể cả các
nhà xã hội học, môi trường học.
Nhà thẩm định các nhu cầu
Nhà thẩm định các nhu cầu làm vai trò chuyên nghiên cứu chính sách liên quan
đến việc thu thập các dữ liệu về các nhu cầu trong chương trình công cộng. Họ lên các
kế hoạch về chương trình xã hội, sức khoẻ, kinh tế và giáo dục. Điều đó góp phần vào
quá trình lên kế hoạch chương trình và chứng minh kế hoạch là đúng. Vai trò này thì
tương đối phổ biến và có liên quan mật thiết đến sự đánh giá.
14
Nhà lập kế hoạch
Với tư cách là những nhà lập kế hoạch, các nhà nhân học tham gia vào trong các
kế hoạch của các chương trình, các dự án và các chính sách tương lai. Điều này có thể
liên quan đến sự thu thập dữ liệu và phân tích nghiên cứu trong việc hỗ trợ cho những
người đưa ra các quyết định. Vai trò này thì không mấy phổ biến.
Nhà phân tích nghiên cứu
Vai trò là nhà phân tích nghiên cứu gồm sự giải thích các kết quả nghiên cứu đối với
các nhà đưa ra quyết định của nhiều kiểu khác nhau. Nhà phân tích có thể làm việc với
tư cách là một người phụ tá cho đến các nhà lập kế hoạch, các nhà hoạch định chính
sách và các nhà quản lý chương trình. Đây la một vai trò phổ biến.
Người hỗ trợ sự phát triển
Người hỗ trợ sự phát triển là tên gọi cho một vai trò phức tạp liên quan đến hoạt động
hỗ trợ các nhóm cộng đồng và các cá nhân. Nó hầu như luôn có mối quan hệ đến hoạt
động chính trị trực tiếp phù hợp với sự tự xác định mục tiêu của cộng đồng. Sự hỗ trợ
phát triển có thể là một phần của các vai trò khác. Đây là một vai trò không phổ biến.
Huấn luyện viên
Các huấn luyện viên viết ra và sử dụng các tài liệu huấn luyện liên quan đến
nhiều nhóm khách hàng khác nhau và các lĩnh vực nội dung. Thường thì điều này liên
quan đến sự chuẩn bị của các kỹ thuật viên có kinh nghiệm về xuyên văn hoá. Vai trò
này có lịch sử lâu dài trong nhân học ứng dụng.
Trung gian văn hoá
Trung gian văn hoá làm việc với tư cách là những người kết nối giữa các chương
trình và các cộng đồng dân tộc. Vai trò này xuất hiện đặc biệt hữu ích trong việc liên
quan đến sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và cung ứng các dịch vụ xã hội.
Nhiều vai trò khác có các chức năng trung gian văn hoá đi kèm với chúng. Trong một
vài trường hợp, nó là vai trò cơ bản. Người làm trung gian luôn luôn giữ vai trò thông
tin hai chiều.
Làm nhân chứng chuyên môn
Vai trò làm nhân chứng chuyên môn luôn luôn hoạt động trên nền tảng bán thời
gian, hầu hết làm việc trong lĩnh vực học thuật đó. Điều này liên quan đến sự thể hiện
của dữ liệu nghiên cứu thông qua các tài liệu hợp pháp. Đó là các bản tóm tắt hồ sơ
của luật sư bào chữa và lời khai trực tiếp thay mặt cho các bên đối với các vụ kiện
pháp lý hay với tư cách làm một đồng minh của toà. Điều này thì không phổ biến.
Chuyên gia tham dự công
Vai trò của chuyên gia tham dự công được phát triển gần đây theo nhu cầu đối
với dữ liệu đưa vào chung trong kế hoạch. Nó gần như tương đồng với vai trò là trung
gian văn hoá, mặc dù nó có xu hướng xuất hiện theo từng trường hợp hơn là trường
hợp với trung gian văn hoá. Vai trò có thể liên quan đến việc tổ chức nền giáo dục
công sử dụng truyền thông và các cuộc gặp mặt công cộng. Sự liên quan về lĩnh vực
nhân học trong vai trò này đang gia tăng đáng kể.
15
Nhà quản lý
Một số nhà nhân học có trách nhiệm quản lý trực tiếp các chương trình mà họ
làm việc. Các vai trò này thường không ở cấp độ tiếp nhận vào, nhưng luôn phát triển
ngoài công việc trong một vai trò khác được đề cập ở đây. Đây không phải là những
vai trò phổ biến đối với các nhà nhân học nhưng đã gia tăng trong thập kỷ trước khi
các nhà nhân học thực hành bắt đầu sự nghiệp của mình. Trong một số cơ quan, các
nhà nhân học trở nên rất có ảnh hưởng bởi vì họ là người đứng đầu.
Tác nhân làm biến đổi
Các tác nhân tạo ra sự biến đổi làm việc để kích thích sự biến đổi. Đây là vai trò
khái quát hoá, đóng chức năng và cũng là một phần của các nhiệm vụ khác. Trong một
số trường hợp, vai trò là trung gian tạo ra sự biến đổi được thực hiện như là một phần
của chiến lược của sự biến đổi đặc biệt như nhân học hành động hay nhân học nghiên
cứu và phát triển. Vai trò này thì không phổ biến.
Để tóm tắt giới thiệu về các vai trò của những người đang hành nghề, việc cho
rằng vai trò thường xuyên nhất là vai trò nhà nghiên cứu thật quan trọng. Các vai trò
hành động xã hội khác có tính thiết thực và tiềm năng lớn nhưng lại không thường
được áp dụng. Trong khi chúng ta có thể kết hợp giảng dạy với công việc học thuật, thì
giảng dạy cũng rất quan trọng trong các môi trường làm việc của những người đang
hoạt động trong lĩnh vực nhân học. Có một khuynh hướng gia tăng chung đối với
nhiều vai trò. Quan điểm bổ sung về các nghề nghiệp trong nhân học ứng dụng có thể
được duy trì bởi việc xem xét lại Danh mục các thành viên của Hiệp hội quốc gia của
nhân học thực hành (NAPA) và Hội nhân học ứng dụng (SfAA) (1996). Ấn phẩm này
liệt kê các tựa đề, các ông chủ, các bằng cấp, các kỹ năng và sự chuyên môn hoá của
hầu hết 1.500 thành viên của hai tổ chức đỡ đầu. Đây là một nguồn quan trọng đối với
dự định nghề nghiệp bởi vì nó sẽ cung cấp ý nghĩa về những gì mà người ta thực sự
làm và ở đâu họ có thể thực hiện điều đó.
Các công việc điển hình thuộc nhân học ứng dụng bao gồm nhiều vai trò. Đôi khi
tên công việc phản ánh vai trò nhưng những lần khác thì không. “Nhà nhân học”
không được sử dụng phổ biến chúng với tư cách là tên công việc. Đó là do hầu hết
công việc của các nhà nhân học ứng dụng cũng có thể áp dụng được cho các nhà khoa
học xã hội khác nữa. Tên một số công việc của các nhà nhân học ứng dụng và thực
hành được chỉ ra trong danh sách các thành viên (1996) của NAPA/ SfAA là nhà cố
vấn, nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu dựa trên nhóm đối tượng cụ thể, nhà tư vấn,
điều phối viên, người phụ trách, trưởng khoa, giám đốc, biên tập viên, nhà dân tộc học,
chuyên gia cho các tài trợ, nhà quản lý, ông chủ, quản lý chương trình, hiệu trưởng,
giáo sư, phân tích dự án, đánh giá dự án, nhà nghiên cứu và nhân học nghiên cứu. Thật
khó để nói từ tên của công việc cái gì phải làm , tất nhiên là trong một việc cụ thể.
4. Phạm vi nội dung đối với công việc ứng dụng
Bên cạnh việc hoạt động trong nhiều vai trò khác nhau, các nhà nhân học ứng
dụng cũng làm việc trong các lĩnh vực nội dung khác nhau. Điều này có thể được thấy
trong các nội dung của Nhân học trong ứng dụng: Sách tư liệu về thực hành nhân học
(van Willigen 1991). Số này gồm có các mô tả về các trường hợp mà nhân học được
ứng dụng để giải quyết các vấn đề thực tại và được dựa trên các tài liệu trong sự thu
thập Dự án tài liệu nhân học ứng dụng ở trường đại học Kentucky. Đây là việc thu
thập các báo cáo chuyên môn và các tài liệu khác được những người làm việc trong
16
lĩnh vực nhân học chuẩn bị. Phạm vi nội dung được liệt kê bên dưới. Các chủ đề được
nêu ra thường xuyên nhất là phát triển nông nghiệp, y tế và sức khoẻ và giáo dục. Hầu
hết các thành viên của NAPA thường xuyên nêu lên trong cuộc nghiên cứu là “các
dịch vụ y tế và sức khoẻ công cộng, phát triển nông nghiệp, các nguồn lực tự nhiên và
giáo dục” (Fiske 1991:vi). Bởi do bản chất của quá trình thu thập thông tin của Dự án
thu thập tài liệu nhân học ứng dụng, danh sách nhấn mạnh đến các lĩnh vực nội dung
mà vai trò của người nghiên cứu chiếm ưu thế. Tuy nhiên, nó như là một công cụ chỉ
đường hữu ích của các lĩnh vực nghề nghiệp (xem hình minh họa 1.1, John van
Willigen, tr, 8).
Hình minh hoạ 1.1
Các lĩnh vực nội dung được tìm thấy trong cuốn Nhân học trong ứng dụng (1991)
Sử dụng rượu và thuốc gây nghiện
Nhân quyền, chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc và tội diệt chủng
Công nghiệp và kinh doanh
Hành động cộng đồng
Sử dụng đất đai và đòi hỏi về đất đai
Pháp lý về tội ác và sự tôn trọng pháp luật
Ngôn ngữ và hành động
Các nguồn lực văn hoá và quản lý
Truyền thông và phát thanh truyền
hình
Thiết kế và kiến trúc
Quân đội
Nông nghiệp
Các chính sách phát triển và những hoạt
Những công việc truyền giáo
động thực tiễn
Nghiên cứu vể thảm hoạ
Dinh dưỡng
Phát triển kinh tế
Hoạch định chính sách
Giáo dục và các trường học
Dân số và nhân khẩu học
Việc làm và lao động
Sự giải trí
Sự khai thác năng lượng
Biểu lộ niềm tin tôn giáo
Môi trường
Sự tái định cư
Sự đánh giá
Đánh giá tác động xã hội
Nghiên cứu về nghề cá
Các chương trình đào tạo
Lâm nghiệp và những ngôi rừng
Phát triển đô thị
Dịch vụ lão khoa
Phát triển các nguồn nước
Chính quyền và sự quản lý
Quản lý đời sống đời sống hoang dã
Sức khoẻ và y tế
Phụ nữ trong sự phát triển
Vấn đề nhà ở
LƯỢC SỬ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
Lịch sử phát triển của nhân học ứng dụng hiện nay được phân kỳ theo các quan
điểm khác nhau của các nhà nhân học ứng dụng. Theo John van Willigen sự phát triển
của nhân học ứng dụng được chia ra thành năm thời kỳ, được xác định trên cơ sở giải
II.
17
thích về những loại hoạt động thực tiễn khác nhau do các nhà nhân học ứng dụng thực
hiện.
Sự hiểu biết về lịch sử phần nào làm giảm đi đáng kể sự ác cảm tồn tại giữa các nhà
nhân học lý thuyết và ứng dụng. Các nhà nhân học am tường lịch sử đã đưa ra rất
nhiều quan điểm quan trọng. Có lẽ quan trọng nhất trong số chúng là quan điểm cho
rằng theo lịch sử lý thuyết được dựa trên sự ứng dụng. Điều này được mọi người thấy
rõ thì nhiều người vẫn tiếp tục quan niệm nhân học lý thuyết là người cha đỡ đầu.
Nguyên nhân chính là do nhân học ứng dụng có khuynh hướng không được xuất bản
trong các khuôn khổ truyền thống. Vì vậy, chủ yếu nó tồn tại như là “tài liệu có giá trị
nhất thời” (Clark và van Willigen 1981). Do đó, trong khi thông qua nguồn tài liệu,
chúng ta không ngừng tìm hiểu về sự phát triển lịch sử của nhân học lý thuyết, thì sự
phát triển lịch sử của nhân học ứng dụng và mối quan hệ của nó với sự hình thành
chuyên ngành khá hiếm bởi tài liệu rất ít. Ở thời kỳ đầu trong lịch sử của lĩnh vực này,
vấn đề đó rất gay gắt. Một số những điều trải nghiệm trong quá khứ đã không còn có
thể được ứng dụng trong bối cảnh mới, nhưng cũng còn có nhiều hoạt động có thể có
ích từ sự hiểu biết của quá khứ. Để diễn giải bình luận của Karl Heider về lịch sử của
thước phim dân tộc học, những người không hiểu về lịch sử của nhân học ứng dụng
cũng đủ may mắn nói lại về nó (Heider 1976). George Foster bày tỏ tầm quan trọng
của việc hiểu biết lịch sử như sau: “Người ta có thể hiểu rõ và đầy đủ giá trị của các
hình thức và vị trí hiện thời của nhân học ứng dụng trong một chuyên ngành rộng lớn
chỉ với kiến thức về nhiều thời kỳ phát triển của nó” (1969:181). Như đã lưu ý ở trên,
chương này cố gắng xác định “nhiều thời kỳ” đó.
Theo quan điểm của van Willigen, có năm giai đoạn: giai đoạn trước khi nó
chính thức trở thành chuyên ngành, giai đoạn dân tộc học ứng dụng, giai đoạn liên
ngành, giai đoạn mở rộng vai trò và đánh giá công khai (value-explicit) và giai đoạn
nghiên cứu chính sách. Sự sắp xếp theo hệ thống như đã trình bày chủ yếu là để bổ
sung thêm. Những khuôn mô thức chung của hoạt động thực tiễn xuất hiện trong
những giai đoạn đầu được tiếp tục duy trì trong các giai đoạn sau. Sự bàn luận về mỗi
giai đoạn bao gồm xác định sự hợp lý hoá cho việc xác định thời đại của giai đoạn, bàn
luận về các mô thức chính của hoạt động thực tiễn kèm theo một số thí dụ và về các
nhân tố bên ngoài liên quan đến sự hình thành của những mô thức chính trong hoạt
động thực tiễn. Khi đọc chương này, phải luôn tâm niệm rằng ngành học đang có sự
biến đổi. Biến đổi quan trọng là biến đổi cơ bản trong phạm vi của chuyên ngành.
1. Giai đoạn trước khi chính thức trở thành chuyên ngành (trước 1860)
Nếu chúng ta xem xét các nguồn lịch sử trước đây đề cập đến mối quan hệ liên
ngành về mặt văn hoá, chúng ta sẽ tìm thấy người ta đã thừa nhận những lợi ích thiết
thực của dữ liệu xuyên văn hoá trong việc giải quyết các vấn đề được xác định trong
bối cảnh quản lý hay chính sách. Điều này phổ biến nhất trong các bối cảnh các hệ
thống chính trị kinh tế bành trướng. Trong trường hợp mô tả xuyên văn hoá của những
người ghi chép tư liệu trước đây như Herodotus (vào khoảng năm 485-325 trước công
nguyên) hay Lafitau (1671-1746), động cơ cơ bản của họ là để cung cấp thông tin cho
mục đích thực tiễn. Hầu như toàn bộ ngành nhân học của giai đoạn trước khi chính
thức trở thành một chuyên ngành là điển hình của một loại công việc ứng dụng.
Thường xuyên thấy nhất, như trong trường hợp của Herodotus, nghiên cứu được thực
hiện để thu thập dữ liệu về kẻ thù tiềm năng và những người dân thuộc địa. Trong
trường hợp của Lafitau, mục đích là để thông tin các kế hoạch cho hoạt động thương
mại và phát triển tiếp thị.
18
Đã xuất hiện những trường hợp xảy ra rất sớm ở những nơi mà các nhà quản lý
am hiểu về xuyên văn hoá đã sử dụng kiến thức của mình làm cho “việc tiếp xúc văn
hoá” trở nên dễ dàng hơn. Thời kỳ Trung cổ, đức giáo hoàng Gregory đã thuyết phục
những người truyền giáo đến Ai-len để liên kết các ngày của thánh trong Thiên chúa
giáo với các lễ hội của người Ai-len ngoại đạo và để biến các lễ cúng tế súc vật thành
những hình thức thích hợp hơn cho những người Thiên chúa giáo mới cải đạo. Sau đó,
những hoạt động đặc trưng nhất của giai đoạn này là việc các cá nhân được chỉ định
tiến hành cuộc nghiên cứu văn hoá cơ bản để hỗ trợ quản lý trong khu vực. Một thí dụ
mới nhất về vấn đề này là việc công ty Tây Ấn nghiên cứu đời sống và văn hoá ở
Bengal. Với sự tiếp xúc xuyên văn hoá không ngừng trong thời kỳ thuộc địa, ngày
càng có nhiều mối quan tâm về phúc lợi của cư dân bản địa. Điều này có thể được
nhận thấy thông qua sự thành lập của các tổ chức như Hội bảo vệ những người thổ dân
ở London vào năm 1838. Hội quan tâm tới hoạt động nghiên cứu và xã hội đối với các
cư dân bản địa.
Trong giai đoạn trước khi ngành học chính thức được hình thành, chúng ta có
thể đưa ra rất nhiều thí dụ về nhà cải cách xã hội, các vị giáo sĩ và các nhà quản lý – là
những người ứng dụng vốn kiến thức về văn hoá vào công việc. Điều này gồm có
những trường hợp được dẫn chứng bằng tài liệu như công trình của Hinrich Rink. Ông
là một nhà quản lý cho chính quyền Đan Mạch của người Greenland. Rink được đào
tạo trở thành nhà lịch sử tự nhiên, đóng góp cho sự phát triển ban đầu về quyền tự
quyết của những người Greenlnd bản địa vào những năm 1960.
Có nhiều thí dụ về những ứng dụng trước đây của người Bắc Mỹ. Có lẽ, những
tài liệu đầu tiên được dẫn chứng là những công trình dân tộc học về linh mục dòng Tên
(Jesuit) là cha cố Joseph Lafitau. Thông báo cho Tân Pháp với tư cách là một nhà
truyền giáo, Lafitau bắt đầu giải thích bằng tài liệu về cuộc sống ở vùng Đông Bắc.
Điều này đưa đến việc xuất bản tác phẩm Những phong tục của những người Mỹ bản
địa trong so sánh với những tập quán của các thời đại ban sơ (1924). Tác phẩm này
đã được trình bày như một công trình lý thuyết, tuy nhiên, ông đã tham gia vào những
nghiên cứu thực hành khác nhau. Ông điều tra về nhân sâm - một loại thảo dược sống
trong vùng rừng tiếp giáp với St.Lawrence. Một bạn cùng dòng Tên giới thiệu nhân
sâm từ châu Á sang châu Âu, vì vậy, nó đã trở thành thứ được săn lùng ráo riết ở các
thị trường châu Âu. Lafitau cố gắng tìm giống cây này ở vùng Bắc Mỹ. Để làm được
điều này, ông đã kêu gọi sự hỗ trợ của nhà nghiên cứu thảo mộc Mohawk, người mà
ông đã phỏng vấn về kiến thức cây trồng bản địa và những vấn đề khác. Cuộc điều tra
này dường như dẫn ông tới nghiên cứu chung hơn, đóng góp phần nào cho bản tóm tắt
của ông về các tập quán. Ông đã tìm thấy nhân sâm và trở nên nổi tiếng với điều này
(Fenton và Moore 1974; Lafitau 1724).
Một thí dụ thú vị từ nước Mỹ là công trình của Henry R. Schoolcraft, một trong
những nhà sáng lập Hội Dân tộc học Mỹ. Schoolcraft đã được Thượng viện Mỹ giữ lại
để biên soạn tác phẩm Thông tin về lịch sử, điều kiện và triển vọng của các bộ lạc
người thổ dân Mỹ (Schoolcraft 1852 – 1857). Một bộ sáu cuốn sách đầy ấn tượng này
sẽ không là gì nếu chúng không phải là một báo cáo nghiên cứu chính sách. Chúng
được chuẩn bị với mục đích rõ ràng là để cung cấp thông tin đáng tin cậy về những
điều cơ bản về chính sách thổ dân Mỹ. Schoolcraft bắt đầu sự nghiệp của ông với tư
cách là một chuyên gia về thổ dân Mỹ và là một nhà quản lý. Ông được coi là một nhà
dân tộc học nổi bật do những đóng góp của ông cho sự phát triển của ngành học. Bởi
19
vậy, sự nghiệp của ông đặt song song với những biến đổi xuất hiện trong ngành nhân
học
Trong thời kỳ này có nhiều thí dụ về sự phát triển của những chương trình đảo tạo
chuyên sâu về dân tộc học cho các nhân viên thuộc địa. Anh Quốc bắt đầu những
chương trình này vào năm 1806 và Netherland đề xuất những chương trình này vào
năm 1819.
Tóm lại, các nhà nhân học đương thời có ít người học về phương pháp ứng dụng trong
giai đoạn trước khi chính thức trở thành ngành học. Tài liệu thì nghèo nàn và do đó,
thật khó phát triển ý nghĩa của bản chất của các cách tiếp cận được sử dụng. Một bài
học quan trọng để học hỏi là nhân học trong giai đoạn ban sơ của nó có thành phần
ứng dụng quan trọng. Điều này tương phản với quan điểm nhân học ứng dụng phần
nào bắt nguồn từ nhân học đại cương. Sau đó, nó trở nên rõ ràng, rằng nền tảng của
nhân học đại cương là sự ứng dụng và thực hành. Quan điểm khách quan nhất lẽ ra đề
xuất, rằng các nhà nhân học thời kỳ đầu trước khi chính thức hình thành chuyên
ngành, đối với hầu hết các bộ phận đã để những mối quan tâm chung dựa trên những
gì được gọi là các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng. Giai đoạn này chấm dứt bởi sự nổi
lên của nhân học với tư cách la một ngành học riêng biệt (ở đây chúng tôi sử dụng năm
1860), theo quan điểm của Voget về lịch sử của ngành học.
2. Giai đoạn dân tộc học ứng dụng (1860-1930)
Sự xuất hiện của nhân học với tư cách là một ngành học riêng biệt, loại công việc ứng
dụng cơ bản điển hình là những năm 70 đã được thể hiện rõ. Điển hình là, các nhà
nhân học ứng dụng của giai đoạn này làm việc với tư cách là các chuyên gia đào tạo và
nghiên cứu trong việc hỗ trợ chính quyền hay các quỹ tư nhân – được hỗ trợ bởi các
chương trình quản lý. Đối với hầu hết các bộ phận, những nỗ lực này hỗ trợ cho việc
thành lập của sự kiểm soát quản lý trực tiếp lên các cư dân bản địa trong các môi
trường thuộc địa bên trong hay bên ngoài. Sau đó, trong giai đoạn nay, các nhà nhân
học ứng dụng tiến hành mô hinh hoạt động tương tự trong khung của các chương trình
phát triển.
Cũng phải nhấn mạnh rằng, vai trò của các nhà nhân học có khuynh hướng bị giới hạn
để cung cấp dữ liệu cho việc hoạch định chính sách và giải quyết các vấn đề. Rất hiếm
các nhà nhân học làm việc như những nhà quản lý hay là các tác nhân gây biến đổi.
Tuy nhiên, lại có rất nhiều nhà quản lý trở thành các nhà nhân học. Thời kỳ dân tộc
học rất dài và được đánh dấu bởi những biến đổi quan trọng trong bản thân nhân học.
Giai đoạn nay gồm cả sự quá độ từ ưu thế của lý thuyết tiến hoá cổ điển cho đến
thuyết cấu trúc chức năng và nhân học lịch sử trong những năm 1920. Quá trình quan
trọng khác xuất hiện giữa thời ky đầu và thời kỳ cuối của giai đoạn này là sự thể chế
hoá ngành học. Đó là cơ sở vật chất kỹ thuật cơ bản của ngành khoa học được hình
thành: các hội chuyên môn được tổ chức, các chương trình theo các trình độ được
thành lập và các khoa, ngành học thuật được hình thành với một khối lượng kiến thức
được phát triển và tiếp thu.
Vấn đề quan trọng là, các tài liệu nhân học không thừa nhận nhân học ứng dụng
là nền tảng cho sự phát triển của phần nhiều bộ phận ngành học. Điều này được tìm
thấy trong bốn bối cảnh. Những xã hội có trình độ học thức sớm nhất trong nhân học
phát triển vượt khỏi những thứ liên quan về cơ bản được quan tâm đến sự ứng dụng và
sự cải cách xã hội. Những tổ chức thuê các nhà nhân học làm việc đầu tiên ở Mỹ là các
tổ chức nghiên cứu chính sách. Bộ môn nhân học mang tính học thuật đầu tiên ở
20
trường đại học Oxford đã được thành lập trên cơ sở biện minh nhằm đào tạo các nhà
quản lý thuộc địa. Đó là một loại chương trình đào tạo nhân học ứng dụng. Sự sử dụng
thuật ngữ nhân học ứng dụng lần đầu tiên xuất hiện trong đề cương chương trình ở
Oxford. Mã chuyên ngành về đạo đức đầu tiên trong nhân học được hình thành bởi
một tổ chức nhân học ứng dụng.
Trong khi những ảnh hưởng của sự ứng dụng trong ngành học là rất quan trọng,
thì các cách tiếp cận cơ bản đối với việc ứng dụng kiến thức nhân học vẫn còn lạc hậu
như cũ trong suốt cả thời kỳ. Hầu hết là, các nhà nhân học tiến hành các hoạt động
nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận “tự do giá trị” một cách rõ ràng. Trên thực tế, các bài
viết của các nhà nhân học ủng hộ nhân học đã giới hạn nhân học với đặc điểm phong
cách trong thời kỳ này thường tranh luận rằng tính thiết thực của chúng có thể bị giảm
đáng kể nếu họ không tiếp cận cuộc nghiên cứu theo quan điểm “tự do giá trị”. Điều
này cũng được thực hiện cùng với những vấn đề liên quan đến việc mở rộng vai trò.
Các nhà nhân học tranh cãi, rằng nhà nhân học với tư cách là nhà nhân học không thể
hợp pháp tham gia trong các vai trò khác hơn là vai trò của nhà tư vấn chủ chốt. Quan
điểm này được bàn luận nhiều lần cho đến mãi thời gian gần cuối trong thời kỳ đặc
biệt này. Bản chất của quan điểm này đơn giản là khi nhà nhân học mở rộng vai trò
của mình là nhà nghiên cứu – tư vấn – hướng dẫn, thì bà ta đã không còn là một nhà
nhân học, mà giống như bà ta đang làm việc như là nhà chuyên gia của lĩnh vực khác.
Những người khác nhấn mạnh rằng sự liên quan đến vai trò chủ chốt đòi hỏi rằng quan
điểm không cứng nhắc về các giá trị thường được nhấn mạnh thì phải không được thừa
nhận.
Sự xuất hiện sớm của nhân học ở Mỹ đã đưa đến sự hình thành Vụ Nhân học
Mỹ (BAE). BAE được chúng ta biết đến ngày nay là một viện nghiên cứu. Thực tế, nó
là một bộ phận nghiên cứu chính sách đắc lực của chính quyền liên bang. Báo cáo
thường niên đầu tiên ghi chú rằng nó được thành lập để “tạo ra những kết quả là giá trị
thực tiễn trong việc quản lý những vấn đề của người thổ dân Mỹ. (Powell 1881).
Người ta gọi giai đoạn này là “dân tộc học ứng dụng”. Tên gọi này được James
Mooney đặt ra để bàn về lời cam kết của BAE đối với nghiên cứu chính sách trong báo
cáo thường niên năm 1902 (Hinsley 1976). Những khẳng định của Mooney về những
điều liên quan đến chính trị là sự thật. Bản báo cáo kinh điển của ông về sự sùng bái
vũ điệu ma quái được Anthony Wallace mô tả như một nghiên cứu chính sách, ban
đầu được thực hiện trong nhân học (Mooney 1896; Wallace 1976). Sự thành lập BAE
xảy ra trước tổ chức của bộ môn nhân học mang tính học thuật đầu tiên ở Mỹ, tại
trường đại học Clark, trong nhiều năm. Vụ này đã hoạt động như là một mô hình của
Quỹ tài trợ nghiên cứu xã hội về những kinh nghiệm quản lý thuộc địa của người Mỹ.
Một tổ chức tương tự được chính quyền của người Mỹ ở Philippines thành lập vào
năm 1906 do Albert E. Jenks quản lý (Kennard và MacGregor 1953). Theo Hinsley, sự
liên quan đến nghiên cứu chính sách của Vụ dân tộc học Mỹ còn tồn tại cho tới khi
nghiên cứu về việc nhượng lại đất của người bản địa Mỹ của Charles C. Royce được
xuất bản trong năm 1899 (Hinsley 1979).
Có nhiều thí dụ về nghiên cứu được tư nhân tài trợ trong thời kỳ này. Thí như
công trình của Hội Nhân học nghiên cứu về phụ nữ của Washington. Tổ chức này
được hỗ trợ nghiên cứu về những điều kiện và tình trạng nhà ở rất tồi tàn ở
Washington, D.C. Nghiên cứu đã đưa đến việc thành lập một tổ chức nhằm cải thiện
chất lượng nhà ở cho dân nghèo. Nghiên cứu này được thực hiện năm 1896 (Schensul
va Schensul 1978).