Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương...

Tài liệu Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

.DOC
108
14148
51

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Rủi ro và kinh doanh là người bạn đồng hành. Không có rủi ro thì không có lợi nhuận. Rủi ro là cái để quản lý chứ không phải để tránh. Đây là những nhận định hết sức cô đọng và đúng đắn về sự hiện hữu của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ (NHTM). Từ xưa đến nay, công việc quản trị rủi ro vẫn luôn gắn chặt trong tất cả các hoạt động của Ngân hàng ở các cấp độ khác nhau. Khi hoạt động Ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển thì yêu cầu tăng cường quản trị rủi ro là yêu cầu mà các Ngân hàng buộc phải thực hiện nếu muốn tồn tại và phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh cạnh tranh, hội nhập ngày càng sâu rộng. NHCT là một trong những NHTMCP lớn nhất ở Việt Nam. Như nhiều NHTM VN khác, tín dụng không chỉ là dịch vụ căn bản tạo ra khối lượng tài sản lớn trong tổng tài sản có mà còn là nguồn thu nhập chính của ngân hàng. Trong tổng các nguồn thu, thì thu nhập từ lãi cho vay và các loại phí liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng thường chiếm từ 70% - 80% . Bờn cạnh những đóng góp to lớn đó, tín dụng cũng là mảng hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, tàn phá mạnh nhất lợi nhuận của Ngân hàng và là nguyên nhân chính của mọi sự đổ vỡ Ngân hàng. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng là công việc chủ đạo của hoạt động quản trị của NHCT. NHCT đã và đang từng bước thực hiện các nội dung công việc của quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, công tác này hiện đang thiếu vắng tính chuyên nghiệp, bài bản, thiên về ngắn hạn mà thiếu tính bền vững, lâu dài, thiên về xử lý hậu quả mà tính phòng ngừa cũn kộm, thiên về các yếu tố định tính mà chưa có khả năng lượng hóa cụ thể rủi ro. Để tăng cường công tác 2 quản trị rủi ro tín dụng, có thể khẳng định, NHCT sẽ phải bước lại những bước đi căn bản để xây dựng và cơ cấu lại toàn bộ khuôn khổ và hạ tầng quản trị rủi ro tín dụng. Xuất phát từ thực tế trên, học viên lựa chọn đề tài “Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công thương Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế nhằm gúp thờm lời giải cho bài toán quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP CT VN. 2. Một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài Quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà lãnh đạo Ngân hàng. Hiện tại, có rất nhiều công trình nghiên cứu, thảo luận khoa học xung quanh vấn đề quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng. Đồng thời, đõy đang là đề tài được trao đổi khá sôi nổi trên mạng Internet. Tại NHCT, có nhiều tác giả đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ về đề tài quản lý rủi ro. Gần đây nhất, là đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHCT VN” của tác giả Phạm Xuõn Hũe – hiện là giám đốc chi nhánh NHCT Nam Thăng Long và đề tài “chuẩn mực quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM theo hiệp định Basel II và việc áp dụng tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn – hiện là phó phòng Đầu tư NHCT. Trong các đề tài nghiên cứu này, các tác giả đã hệ thống hoá, phân tích và đưa ra sự lựa chọn khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM; làm rõ vai trò và sự cần thiết của nó trong hoạt động kinh doanh; định hướng cho các NHTM nói chung, NHCT nói riêng trong quá trình xây dựng quản trị rủi ro tín dụng. Một số giải pháp đã và đang được triển khai trong thực tiễn hoạt động tại NHCT. Điển hình của việc chuyển mình trong hoạt động quản trị rủi ro là việc thay đổi mô hình tổ chức phục vụ công tác quản trị rủi ro. Chính 3 thức từ năm 2006, mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ thống đó cú sự thay đổi, theo đó chức năng nghiên cứu tham mưu ban hành chính sách tín dụng được tách biệt với chức năng quản lý khách hàng, thẩm định và đề xuất tín dụng (Phòng khách hàng); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín dụng (phòng Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng trả nợ (Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ). Đồng thời với việc thay đổi về cơ cấu tổ chức, NHCT cũng đã xây dựng được hệ thống khuôn khổ cơ chế, chớnh sỏch tín dụng khá đồng bộ. Tuy nhiên, thực tế thực hiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT vẫn đang gặp rất nhiều vướng mắc và hiện chưa có sự tổng kết, đánh giá về hoạt động này để có định hướng phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Với tư cách là người trong cuộc, hiện đang công tác tại Phòng Quản lý rủi ro tín dụng, đầu tư – Trụ sở chính, là thành viên tham gia modul Quản lý rủi ro tín dụng - dự án Hiện đại hóa NHCT giai đoạn 2, tác giả có cơ hội đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể, chỉ ra những công việc cần làm ngay và lộ trình thực hiện các giải pháp dài hạn mà NHCT nên tập trung nguồn lực để xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp thực tiễn hoạt động của mình. 3. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của NHTM nhằm làm rõ bản chất, các nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng. - Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng của NHCT, tìm hiểu kinh nghiệm của Ngân hàng Nova Scotia - Canada, luận văn góp phần tổng quát, nhận dạng các loại rủi ro tín dụng ở NHCT và đánh giá những hạn chế của công tác này để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Cụng tác quản trị rủi ro tín dụng của NHCT - Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong phạm vi chủ yếu là năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHCT giai đoạn 2006-2009. 5. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài là: - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; - Phương pháp thống kê, thu thập thông tin; - Phương phỏp phõn tớch các hoạt động kinh tế; - Phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu… 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hoỏ cỏc vấn đề cơ bản liên quan đến rủi ro tín dụng Ngân hàng, làm rõ vai trò quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM; - Qua nghiên cứu thực tế công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT, khái quát được tình hình triển khai các biện pháp, giải pháp quản trị rủi ro tín dụng, đánh giá các kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra và hoàn thiện hệ thống các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công thương Việt Nam Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công Thương Việt Nam. 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Rủi ro tín dụng của NHTM 1.1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM 1.1.1.1. NHTM và các hoạt động cơ bản - Khái niệm NHTM Lịch sử ra đời của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiền tệ qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Hoạt động Ngân hàng thủa ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả hộ, sau đó là sự phát triển hoạt động cho vay và các loại hình dịch vụ khác từ những người thợ kim hoàn. Trải qua thời gian, những người giữ hộ đã trở thành nhà Ngân hàng thực thụ với ba nghiệp vụ cơ bản bao gồm: Nhận tiền gửi, thanh toán hộ và cấp tín dụng cho khách hàng của mỡnh cựng việc phát triển các nghiệp vụ Ngân hàng khác. Mặc dù có nhiều tổ chức tài chính như Công ty kinh doanh chứng khoán, Công ty môi giới chứng khoán, Quỹ tương hỗ, Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính ...đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng song NHTM vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. NHTM có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Song xột trên giác độ những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, khái niệm NHTM được định nghĩa như sau: NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 6 - Những hoạt động cơ bản của NHTM Hoạt động chủ yếu của NHTM là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Trái lại, các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Ngân hàng trở thành trung gian tài chính, huy động nơi có vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay, đầu tư. Với xu thế phát triển của nền kinh tế, các Ngân hàng từ chỗ chỉ cung cấp dịch vụ về nhận tiền gửi, tới nay các Ngân hàng đã tăng cường cung cấp thêm nhiều mảng hoạt động có giá trị gia tăng như huy động vốn, tín dụng, trung gian thanh toán và một số hoạt động khác, cụ thể như sau:  Huy động vốn Nghiệp vụ này bao gồm việc huy động các nguồn vốn: tiền gửi thanh toán, tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn; phát hành trái phiếu và kỳ phiếu, vay các tổ chức tín dụng; vốn tiếp nhận tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư.  Cho vay: Hoạt động cho vay bao gồm: Cho vay tiêu dùng đối với cá nhân, hộ gia đình. Cho vay khách hàng kinh doanh: cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để khách hàng mua vật tư, máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng...  Thanh toán Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán tiền mua bán hàng hoá và dịch vụ. Các dịch vụ của hoạt động trung gian thanh toán gồm séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu...Trước đây, các Ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán trong phạm vi hẹp là nội bộ Ngân hàng, trong phạm vi quận, huyện, thì 7 hiện nay các Ngân hàng đã thực hiện thanh toán liên Ngân hàng và trên phạm vi toàn cầu.  Hoạt động khác Bảo lãnh: Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng mua chịu hàng hoá, thiết bị, tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng... Uỷ thác, tư vấn: do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có thể nhận uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác vay hộ ... và có thể tiến hành các dịch vụ tư vấn như tư vấn đầu tư, quản lý tài chính, mua bán, sáp nhập... Quản lý ngân quỹ: các Ngân hàng mở tài khoản và giữ hộ tiền của hầu hết các khách hàng. Bảo quản tài sản: các Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, giấy tờ có giá và tài sản khác cho khách hàng trong két sắt của Ngân hàng. Thuê mua: khi khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua tài sản nhưng không đủ vốn hoặc số tiền được vay không đủ mua tài sản, Ngân hàng có thể đứng ra mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuờ. Cú hai hình thức cho thuê chủ yếu là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính. Môi giới đầu tư chứng khoán: đây là một mảng dịch vụ các Ngân hàng có thể tiến hành để thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Hiện nay, dịch vụ này thường được các Ngân hàng thành lập riêng ra các Công ty chứng khoán để tăng tính chuyên nghiệp của hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán. Dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng liên doanh với Công ty bảo hiểm hoặc tổ chức Công ty bảo hiểm con, Ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí. 8 Cung cấp các dịch vụ đại lý: một Ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ... Nhìn chung, trong tất cả các hoạt động cơ bản của các NHTM thì hoạt động tín dụng được đánh giá là hoạt động quan trọng nhất, bởi hoạt động này thường chiếm 60-70% danh mục tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các NHTM. 1.1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng có nguồn gốc từ tiếng La tinh tức là sự tin tưởng, tín nhiệm hoặc nói khác đi là sử dụng sự tin tưởng hoặc tín nhiệm để thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất định. Từ đó, quan hệ tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Tín dụng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vận động đơn phương của giá trị thuộc hai quá trình ngược chiều nhau trong một thời gian cụ thể. Tóm lại: Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hoá hoặc tiền tệ) với những điều kiện và trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Khi Ngân hàng thực hiện vai trò trung gian tín dụng thì tín dụng Ngân hàng được hiểu dưới hai giác độ sau: + Ngân hàng đóng vai trò huy động vốn: Các NHTM có khả năng thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với những thời hạn khác nhau của các tổ 9 chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế thông qua hình thức tiền gửi với mức lãi suất khác nhau. + Ngân hàng đóng vai trò người cho vay: Dựa trên cơ sở vốn huy động được Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu sử dụng vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng vì vậy được hiểu là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau giữa Ngân hàng - Khách hàng đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, dân cư trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lói đỳng kỳ hạn. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ xem xét tín dụng Ngân hàng dưới góc độ Ngân hàng là người cho vay thì tín dụng Ngân hàng được hiểu là một hợp đồng thể hiện quan hệ vay mượn giữa NHTM - bên chuyển nhượng tiền cho chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng trong một thời gian nhất định và cam kết hoàn trả cả gốc và lãi theo thời gian đã thoả thuận. Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đối với khách hàng như sau: Khách hàng khi vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng chỉ xem xét và quyết định cấp tín dụng khi Khách hàng có đủ các điều kiện sau: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. 10 Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của pháp luật. Để quản trị rủi ro tín dụng, các Ngân hàng luôn không ngừng đa dạng hoỏ cỏc hình thức tín dụng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Căn cứ vào cỏc tiờu thức khác nhau, tín dụng Ngân hàng đối với khách hàng có thể chia thành các loại như sau:  Căn cứ vào thời gian, tín dụng Ngân hàng được chia làm ba loại Tín dụng ngắn hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay đến 12 tháng. Loại hình tín dụng này thông thường được áp dụng với nhiều loại hình khách hàng dưới hình thức vay hạn mức hay từng lần. Thông thường khách hàng sẽ có một phần tài sản để bảo đảm cho toàn bộ món vay. Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 12 tháng đến 60 thỏng. Đõy thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm máy móc thiết bị, các dự án xây dựng nhà xưởng, kho bói...Thụng thường tài sản hình thành từ vốn vay sẽ được dùng để thế chấp Ngân hàng. Tín dụng dài hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 60 tháng trở lên. Đây thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm dây truyền thiết bị đồng bộ, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng...Tài sản thế chấp chủ yếu là tài sản hình thành từ vốn vay.  Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, tín dụng Ngân hàng được chia làm hai loại Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản 11 cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này đảm bảo cho Ngân hàng có độ an toàn cao hơn, khả năng mất vốn thấp hơn do Ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi vốn trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này khá rủi ro với Ngân hàng nên Ngân hàng chỉ áp dụng đối với những khách hàng có uy tín, được Ngân hàng tín nhiệm và là khách hàng truyền thống, chiến lược của Ngân hàng. Nhìn chung, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Tín dụng của một hệ thống Ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế quốc gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều kiện để kêu gọi cỏc dũng vốn từ bên ngoài đầu tư vào để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, do các Ngân hàng cho khách hàng vay đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng, sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ lữ hành... nên sau khi cho vay thì quyền sở hữu vốn tạm thời tách khỏi quyền sử dụng vốn, do vậy tính chủ động của Ngân hàng kém đi, dễ lâm vào thế bị động đối với người vay vốn và có thể gặp rủi ro mất một phần vốn hay toàn bộ vốn. Khi đó, tổn thất ngoài dự kiến chính là rủi ro tín dụng. 1.1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể dẫn ra sau đây: 12 Theo khái niệm cơ bản nhất, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng được cấp tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng, gây tổn thất cho Ngân hàng; đó là khả năng khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi và phí cho Ngân hàng. Khoản 1, điều 2 quyết định 493/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNNVN, đề cập khái niệm “rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” Rủi ro tín dụng theo định nghĩa của Uỷ ban Basle thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế: “Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh tổn thất kinh tế do khách hàng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết”. Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro tín dụng, song các quan niệm về rủi ro tín dụng đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: Rủi ro tín dụng là khả năng (xác xuất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng được cấp tín dụng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với NH. Rủi ro tín dụng có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng. Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái niệm về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác xuất là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết, khả năng này có thể xảy ra, có thể không xảy ra; khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng thực sự không thực hiện được cam kết, số tiền mà Ngân hàng không thu hồi được thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu. Trong nội dung về quản trị rủi ro, Basel II cũng đề cập đến khái niệm tổn thất 13 dự kiến (expected loss – EL) và tổn thất ngoài dự kiến (unexpected loss – UL). Theo đó, tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến mới thực sự là rủi ro tín dụng, cần tính toán cụ thể để dự phòng về vốn tự có. Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn thất với khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không được trích lập; Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro tín dụng, mức độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú sốc thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho Ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những Ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhưng danh mục tín dụng lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro phá sản cao. Đõy chớnh là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qũi dự phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình quản trị RRTD. 1.1.2.2. Quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các rủi ro trong kinh doanh NHTM Hoạt động Ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất. Xét về quan hệ của rủi ro tín dụng với các rủi ro khác trong hoạt động Ngân hàng, thì bản thân rủi ro tín dụng lại không 14 hoàn toàn độc lập mà nó tác động qua lại với các rủi ro khác như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản... có thể rủi ro này là tiền đề của rủi ro khác, nguyên nhân của nguyên nhân. Tương tự như rủi ro tín dụng, các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng được xác định, phân chia theo nhiều cách khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu, cũng như giai đoạn phát triển của sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Trước đây, rủi ro thường được phân chia theo loại hoạt động của Ngân hàng, gồm: RRTD, rủi ro đầu tư, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro đạo đức, rủi ro uỷ quyền hoặc phân chia theo rủi ro chung (rủi ro thanh khoản, RRTD, rủi ro lãi suất) và rủi ro quốc tế, rủi ro trả nợ. Bên cạnh việc phân loại rủi ro hoạt động Ngân hàng tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, thỡ cỏc loại rủi ro cũng phát triển theo thời gian, do có rủi ro mới phát sinh và nó gắn với những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trong những năm gần đây, người ta đề cập nhiều đến rủi ro tỷ giá, rủi ro danh tiếng/phỏp lý, rủi ro công nghệ, rủi ro đa dạng hoá ...Mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện theo sơ đồ dưới đây. Sơ đồ 1-1. Rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác Nguồn: Tập huấn dự án hỗ trợ kỹ thuật NHCT Việt Nam 15 Qua sơ đồ có thể thấy các loại rủi ro có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng không trả được nợ rất có thể kéo theo rủi ro thanh khoản do Ngân hàng bị thiếu hụt tiền mặt để trang trải nghĩa vụ tài chính đến hạn… Đối với các NHTMCP, việc các Ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các thông tin của Ngân hàng đòi hỏi phải công khai minh bạch để công chúng giám sát, thì rủi ro tín dụng có liên hệ chặt chẽ đối với rủi ro danh tiếng: khoản nợ xấu nếu không được quản trị một cách chủ động sẽ dẫn đến không ổn định về lợi nhuận, từ đó làm giảm lòng tin của công chúng. Nghiêm trọng hơn nợ quá hạn tăng cao sẽ gây tâm lý hoang mang cho công chúng gửi tiền, dẫn đến khủng hoảng của cả hệ thống Ngân hàng, thậm chí cả nền kinh tế của một quốc gia và khu vực. Sự đổ vỡ của hàng loạt các Ngân hàng lớn của Mỹ trong thời gian qua là một minh chứng cho mối liên hệ này. Tất cả bắt đầu từ thị trường cho vay tín dụng dưới chuẩn (subprime), hay còn gọi là tín dụng thế chấp rủi ro cao tại Mỹ. Các Ngân hàng đã cấp tín dụng ồ ạt để mua bất động sản cho các hộ gia đình có thu nhập thấp và khả năng trả nợ không cao, dựa trên giá trị tài sản của ngôi nhà định mua. Giá bất động sản tăng, hệ thống tín dụng này phát triển càng mạnh. Nhưng tới khi giá bất động sản của Mỹ bắt đầu giảm vào năm 2007, tác động ngược của cơ chế này bắt đầu xuất hiện. Các hộ gia đình không còn khả năng trả nợ, các Ngân hàng cho vay sụp đổ. Khủng hoảng bắt đầu lan truyền trong toàn bộ hệ thống tài chính do tác động của nghiệp vụ trái phiếu hóa giấy nợ (titrisation), một hình thức bắt đầu xuất hiện từ thập kỷ 1970, dựa trên việc biến các khoản vay Ngân hàng thành trái phiếu. Khủng hoảng kéo dài bởi vì nó liên quan tới không chỉ lĩnh vực cho vay bất động sản rủi ro cao tại Mỹ. Tất cả các loại tín dụng (mua sắm ô tô, tiờu dựng…) đó được chuyển thành trái phiếu đều bị ảnh hưởng. Đây là thị trường 16 có quy mô lên tới hàng chục nghìn tỷ USD, lớn hơn rất nhiều so với thị trường cho vay bất động sản dưới chuẩn (ước tính khoảng 1.300 tỷ USD). Do đó, nó không chỉ tác động tới các Ngân hàng cho vay tín dụng bất động sản dưới chuẩn tại Mỹ, mà cả các thiết chế đầu tư, thông qua trung gian của nghiệp vụ trái phiếu hóa, vào thị trường tín dụng (Ngân hàng, quỹ đầu tư mạo hiểm, bảo hiểm, quỹ hưu trớ…). Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng còn được tiếp sức thêm bởi tâm lý mất tin tưởng và thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng không thể biết đối tác của mỡnh đó đầu tư bao nhiêu vào các loại chứng khoán liên quan đến giấy ghi nợ. Trong trường hợp này, Ngân hàng từ chối cho nhau vay vì sợ không có khả năng thu hồi vốn. Chính điều đó làm tê liệt toàn bộ hệ thống tài chính. Lehman Brothers - Ngân hàng đầu tư lớn thứ năm của Mỹ đã bị phá sản. Nếu như giá trị của thiết chế tài chính có hơn 150 năm tuổi bị sụp đổ hoàn toàn chỉ sau vài tuần lễ, thì về lý thuyết không có Ngân hàng nào niêm yết trên thị trường chứng khoán thế giới có thể tin chắc tránh được khủng hoảng. Sự đổ vỡ của Washington Mututal cũng đánh dấu bằng việc người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt. Chỉ trong một tuần trước khi Ngân hàng này sụp đổ, người gửi tiền đã rút về 16,7 tỷ USD làm Ngân hàng rơi vào trạng thái mất thanh khoản hoàn toàn. Tình hình của Ngân hàng Wachovia cũng tương tự do không thể ngăn cản khách hàng đến rút tiền. Thực tế đã chứng minh, các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng vừa có tính độc lập, vừa liên kết chặt chẽ với nhau, thậm chí có những nội dung trựng lờn nhau. Điều này có nghĩa là khi một loại rủi ro xảy ra sẽ kéo theo các loại rủi ro khác xảy ra. Bên cạnh việc chỉ rõ các loại rủi ro hoạt động Ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, thỡ cỏc nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi một loại rủi ro xảy ra, thì đồng loạt các rủi ro khác cũng xảy ra và làm trầm trọng hơn nữa loại rủi ro ban đầu. 17 Các vấn đề nghiên cứu trên đây cho thấy quá trình quản trị rủi ro tín dụng cần phải đặt rủi ro tín dụng trong mối quan hệ tổng thể với các loại rủi ro khác, chính sách và qui trình quản trị rủi ro tín dụng phải bao quát từ khâu đầu (thẩm định trước khi cho vay) đến khâu cuối của một khoản vay (thu hồi hết nợ) hoặc xử lý rủi ro theo qui định, trong mỗi khâu tác nghiệp phải có sự phát hiện rủi ro tiềm tàng gây ra rủi ro tín dụng, để đánh giá, lượng hoá nhằm chủ động xử lý. Chính vì vậy, thực tế hoạt động của các NHTM hiện đại đều có một hệ thống tập trung quản lý rủi ro hoạt động Ngân hàng, thay vì chỉ chú trọng quản trị riêng lẻ một loại rủi ro nào đó. 1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng Có nhiều cách phân loại RRTD, việc phân loại rủi ro tín dụng tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại RRTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, qui trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa cỏc khõu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp tín dụng giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thường. Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho quá trình quản rị RRTD có hiệu quả. - Theo đối tượng sử dụng vốn vay: + Rủi ro khách hàng cá thể: Thông thường số lượng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ sẽ thấp, mức độ ảnh hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay là nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý. + Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế: Tùy theo qui mô của công ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro các khoản 18 vay vào đối tượng này sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao. + Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Những Ngân hàng hoạt động phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia RRTD tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ như mức độ rủi ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam. - Theo phạm vi ảnh hưởng: + Rủi ro giao dịch đơn lẻ: Được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch đơn lẻ nào đó, cụ thể như rủi ro của một khoản vay đối với một khách hàng. Loại rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt của khoản vay hoặc khách hàng vay vốn. + Rủi ro hệ thống: Được hiểu là RRTD gắn liền với nhóm khách hàng, một ngành hàng, thậm chí với cả một nền kinh tế. Rủi ro hệ thống mang tính chất vĩ mô và liên quan nhiều đến việc quản lý danh mục cho vay. - Phân theo giai đoạn phát sinh: + Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng + Rủi ro khi cho vay: Là rủi ro mà khi vốn vay sử dụng sai mục đích, làm cho khoản vay không phát huy hiệu quả. + Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi nợ không theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn quay vòng vào việc khác không thu được nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu được nợ. - Phân theo sản phẩm tín dụng: + Rủi ro sản phẩm tín dụng nội bảng: Là RRTD phát sinh từ những khoản cho vay, chiết khấu, thấu chi được hạch toán trong nội bảng. + Rủi ro các sản phẩm phái sinh: Là RRTD phát sinh từ những sản phẩm ngoại bảng trong tài trợ thương mại, như mở L/C, bảo lãnh. 19 Việc phân loại RRTD theo sản phẩm tín dụng khác nhau có đặc điểm khác nhau cấu thành nên rủi ro khác nhau, để có thay đổi trong qui trình quản trị RRTD thích ứng. 1.1.2.4. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Có rất nhiều nguyờn nhân dẫn đến RRTD, chúng ta có thể phân chia ở cỏc nhóm nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyờn nhân bất khả kháng Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng được cấp tín dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng, như: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan..) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và Ngân hàng. Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến khách hàng cũng như Ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho khách hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng bị tổn thất bởi những nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả năng trả nợ suy giảm thậm chí không còn khả năng trả nợ. - Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ỳ... là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc...Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, mở rộng đầu tư quá mức, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể 20 xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. - Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của Ngân hàng Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách hàng), những nguyên nhân chủ quan thuộc về Ngân hàng được Uỷ ban Basel (2000) đã thống kê cho thấy, nguồn gốc chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng là mức độ tập trung rủi ro và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh. Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề rủi ro tín dụng. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ rủi ro tín dụng của một nội dung trong danh mục tín dụng trở nên tương đối lớn so với mức vốn hoặc tài sản của Ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ thuộc vào giá trị tín dụng đã cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao khi xảy ra rủi ro. Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhúm chớnh: Rủi ro tập trung tín dụng thông thường và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro chung hay tương quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thường xảy ra khi tín dụng được tập trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc ngành/lĩnh vực như kinh doanh bất động sản, dầu mỏ, khí đốt. Trong khi đó, rủi ro tập trung tín dụng do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên quan nhiều đến các yếu tố đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích như giữa các thị trường mới nổi, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường, các rủi ro này với rủi ro thanh khoản. Điển hình cho loại rủi ro này là cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 đến nay. Trong cuộc khủng hoảng này, sự liên
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất