ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HẢI NINH
TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HẢI NINH
TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 62 38 40 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
2. TS. LÊ HỮU THỂ
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí và TS. Lê Hữu Thể. Các
kết quả nêu trong luận án chưa được công bố trong bất kì công trình
nào. Các số liệu và trích dẫn trong luận án bảo đảm tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và các chuyên
đề theo quy định trong khung chương trình đào tạo tiến sĩ ngành Luật
hình sự của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của cơ sở đào tạo.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Hải Ninh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo hướng dẫn PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí và TS. Lê Hữu Thể đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành luận án. Đồng thời tôi chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo và cán bộ Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ và tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cuối cùng, tôi
chân thành cảm ơn các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình, đồng nghiệp
và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Hải Ninh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề tập trung nghiên
cứu trong luận án
1.4. Giả thuyết khoa học, cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Khái niệm tái thẩm trong tố tụng hình sự
2.2. Ý nghĩa của tái thẩm trong tố tụng hình sự
2.3. Mô hình tái thẩm trong các thiết chế tƣ pháp hình sự quốc tế và tố
tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới
3
9
9
14
23
26
29
29
45
49
Chƣơng 3
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TÁI THẨM
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
3.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tái thẩm
62
3.2. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tái thẩm
90
Chƣơng 4
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TÁI THẨM Ở VIỆT NAM
62
110
4.1. Yêu cầu nâng cao chất lƣợng tái thẩm ở Việt Nam
110
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng tái thẩm ở Việt Nam
113
KẾT LUẬN
139
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
141
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
142
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
HLPL
Hiệu lực pháp luật
TAND
Toà án nhân dân
TANDTC
Toà án nhân dân tối cao
TAQS
Toà án quân sự
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, tái thẩm đƣợc áp
dụng đối với bản án hoặc quyết định có HLPL nhƣng bị kháng nghị vì có những
tình tiết mới đƣợc phát hiện làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết
định đã có HLPL. Đây là thủ tục cần thiết, một mắt xích quan trọng để bảo đảm
khắc phục những sai lầm của bản án, quyết định có HLPL, bảo đảm sự thật của vụ
án đƣợc khôi phục, bảo đảm công lý, sự công bằng trong các phán quyết của Toà án
về tội phạm và ngƣời thực hiện tội phạm. Việc lựa chọn đề tài “Tái thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu ở cấp độ
tiến sĩ là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn vì những lý do sau:
Thứ nhất, yêu cầu thể chế hoá đƣờng lối của Đảng về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Việc nghiên cứu thủ tục tái thẩm phù hợp với nhiệm vụ đề ra trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020, đó là: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm
của người ra kháng nghị đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc
cải cách tƣ pháp đến năm 2020 khẳng định: “Pháp luật về tố tụng tư pháp còn
nhiều bất cập, chậm sửa đổi, bổ sung… vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra,
bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử…”. Vì vậy, Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ cải cách
tƣ pháp trong đó có nhiệm vụ về hoàn thiện thủ tục tố tụng tƣ pháp. Việc hoàn
thiện thủ tục tố tụng nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội. Các trƣờng hợp oan sai nếu
có, cần đƣợc phát hiện và giải quyết nhanh nhất nhằm khôi phục lại danh dự, bồi
3
thƣờng vật chất thỏa đáng. Các nghiên cứu hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, nghiên cứu về mô hình tố tụng, trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án hình sự, thủ tục giải quyết sai lầm trong bản án có HLPL đáp ứng yêu
cầu cải cách tƣ pháp và hội nhập quốc tế là những vấn đề chủ yếu đặt ra trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ hai, yêu cầu cụ thể hoá quy định của Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và sự phù hợp với Luật Tổ chức TAND năm 2014 và Luật tổ
chức VKSND năm 2014.
Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc hội khoá
XIII, kì họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 theo
Nghị quyết số 64/2013/QH13. Hiến pháp quy định Toà án là cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tƣ pháp; bản án, quyết định của Toà án phải đƣợc cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành
(Điều 106). Toà án có nhiệm vụ bảo vệ công lí, quyền con ngƣời, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Một trong những thủ tục đƣợc Toà án tiến hành
để thực hiện các nhiệm vụ trên là tái thẩm đối với các bản án, quyết định có
HLPL. Điều 6, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Bản án, quyết định của
Toà án đã có HLPL mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo
quy định của luật TTHS thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm”. Vì vậy, việc cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp trong BLTTHS trở nên
cần thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra, những thay đổi trong Luật tổ chức TAND và
Luật tổ chức VKSND về tổ chức, thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cũng đặt ra
yêu cầu sửa đổi BLTTHS năm 2003 để thống nhất áp dụng. BLTTHS với nhiệm
vụ xây dựng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự cần những nghiên cứu khoa
học làm cơ sở, nền tảng lý luận cũng nhƣ có đánh giá thực tiễn để xây dựng các
quy phạm phù hợp. Việc nghiên cứu thủ tục tái thẩm góp phần xây dựng và hoàn
thiện pháp luật TTHS nói chung trong đó có thủ tục tái thẩm là cần thiết, phù hợp
với giai đoạn hiện nay.
4
Thứ ba, ý nghĩa về pháp lí, chính trị và xã hội của tái thẩm trong TTHS.
Thủ tục tái thẩm bảo đảm loại bỏ oan sai trong bản án, quyết định có
HLPL của Toà án. Thông qua thủ tục tái thẩm, bản án, quyết định có HLPL của
Toà án nhƣng có sai lầm trong nhận định sự kiện thực tế dẫn đến phán quyết
không khách quan, chính xác về tội phạm mới có thể bị hủy bỏ. Các nguyên tắc
cơ bản của TTHS nhƣ nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản của
công dân, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án... đƣợc bảo đảm. Tái thẩm góp
phần bảo đảm quyền con ngƣời trong TTHS, khắc phục oan sai, bảo đảm các chủ
thể bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do phán quyết sai đƣợc bồi thƣờng
thiệt hại, củng cố mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và công dân, bảo đảm xử lý đúng
ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định có
HLPL của Toà án thông qua thủ tục tái thẩm bảo đảm yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền, tạo lập và củng cố lòng tin của xã hội đối với Toà án nói riêng và cơ
quan tƣ pháp nói chung.
Nghiên cứu thủ tục tái thẩm trong TTHS góp phần làm rõ đồng thời tăng
cƣờng ý nghĩa pháp lý, chính trị, xã hội của thủ tục tái thẩm trong TTHS.
Thứ tư, sự cần thiết phải làm rõ lý luận khoa học luật TTHS về tái thẩm.
Là một thủ tục có tính chất đặc biệt trong TTHS, tái thẩm đƣợc các nhà khoa
học pháp lý trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu dƣới nhiều góc độ, phạm vi
khác nhau. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý, chƣa có một công trình nào dƣới cấp
độ tiến sĩ nghiên cứu toàn diện lý luận về thủ tục tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
Quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học về tái thẩm chƣa hoàn toàn thống nhất
về các nội dung: 1) Về tính chất, tái thẩm là một thủ tục hay là một giai đoạn trong
TTHS; 2) Sự cần thiết phải quy định hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm để xem
xét lại bản án, quyết định có HLPL; 3) Chƣa làm rõ về mặt lý luận sự khác nhau cơ
bản về tính chất, căn cứ, thẩm quyền, hậu quả của thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm để xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS về thủ tục tái thẩm.
Nghiên cứu về thủ tục tái thẩm trong TTHS Việt Nam sẽ góp phần bổ sung,
phát triển các tri thức khoa học pháp lý về thủ tục này.
5
Thứ năm, sự cần thiết nâng cao chất lƣợng tái thẩm trong thực tiễn thi hành
pháp luật TTHS tại Việt Nam.
Thực tế giải quyết án hình sự cho thấy, số lƣợng các đơn đề nghị xem xét lại
các bản án, quyết định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hàng năm
với lý do oan sai không hề nhỏ. Việc giải quyết triệt để các đơn đề nghị này từ đó
nhanh chóng phát hiện sai lầm trong các bản án quyết định của Toà án đã có HLPL
để đƣa ra phƣơng án khắc phục, sửa chữa tiến hành chậm trễ. Có bản án chỉ đƣợc
làm rõ sai lầm khi ngƣời bị oan đã chấp hành hình phạt tuyên trong bản án với thời
gian tính bằng năm thậm chí chục năm. Quyền con ngƣời trong những trƣờng hợp
này không đƣợc bảo đảm, sai lầm không đƣợc phát hiện kịp thời gây mất lòng tin
của nhân dân đối với Nhà nƣớc và pháp luật. Chất lƣợng kháng nghị tái thẩm chƣa
cao, nhiều kháng nghị không đƣợc Toà án chấp nhận, có kháng nghị còn gây tranh
cãi trong các nhà nghiên cứu khoa học cũng nhƣ những ngƣời làm thực tiễn về việc
lựa chọn thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm. Về chất lƣợng tái thẩm tại Toà án:
thực tế vẫn còn quyết định của Hội đồng tái thẩm tiếp tục bị kháng nghị tái thẩm;
nhiều quyết định khó thi hành; không khắc phục triệt để sai lầm; chƣa bảo đảm khôi
phục quyền lợi, danh dự của ngƣời bị oan sai.
Nghiên cứu thủ tục tái thẩm góp phần nâng cao chất lƣợng tái thẩm trong
thực tiễn thi hành pháp luật TTHS Việt Nam.
Thứ sáu, sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về tái thẩm.
Quy định của BLTTHS năm 2003 về tái thẩm là sự kế thừa có hoàn thiện quy
định của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, quy định hiện nay vẫn chƣa thể hiện rõ
bản chất của tái thẩm dẫn đến việc áp dụng thủ tục này còn gây tranh cãi. Căn cứ
kháng nghị tái thẩm quy định trong BLTTHS còn gây nhầm lẫn với căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm; quy định về phạm vi tái thẩm, thẩm quyền của Hội đồng tái
thẩm chƣa rõ ràng, cụ thể, không có hƣớng dẫn giải thích nên áp dụng không có
tính thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Nhiều quy định không làm rõ trách nhiệm
của cơ quan cũng nhƣ ngƣời có thẩm quyền trong việc kiểm tra, xác minh các tình
tiết do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp dẫn đến việc quyết định kháng nghị tái
6
thẩm chậm trễ, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ngƣời bị oan sai. Trình
tự, thủ tục kiểm tra, xác minh mới dừng lại ở các quy định chung, mang tính nguyên
tắc, chƣa xây dựng thành một thủ tục hoàn chỉnh với sự tham gia của các bộ phận
có chuyên môn nghiệp vụ.
Nghiên cứu thủ tục tái thẩm trong TTHS ở cấp độ luận án tiến sĩ góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục tái thẩm.
2. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án: xây dựng hệ thống lý luận, nghiên cứu
pháp luật và thực tiễn thi hành, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lƣợng tái thẩm
trong TTHS.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ giải quyết những nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Về phƣơng diện lý luận, làm rõ khái niệm tái thẩm, đặc điểm, ý nghĩa của
tái thẩm trong TTHS;
- Về phƣơng diện pháp luật, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là phân tích,
đánh giá quy định của pháp luật TTHS về tái thẩm;
- Về phƣơng diện thực tiễn, nhiệm vụ của luận án là làm rõ thực tiễn thi hành
các quy định của pháp luật TTHS về tái thẩm.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là lý luận, pháp luật và thực tiễn thi hành
các quy định của pháp luật TTHS về tái thẩm ở Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là thủ tục tái thẩm trong TTHS phát sinh khi
có kháng nghị của VKS có thẩm quyền với căn cứ kháng nghị là tình tiết mới phát
hiện làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định có HLPL.
Về phƣơng diện lý luận, phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý
luận trong khoa học luật TTHS Việt Nam và khoa học luật TTHS trên thế giới về
thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL khi phát hiện các tình tiết
làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định đó.
7
Về phƣơng diện pháp luật, phạm vi nghiên cứu của luận án là quy định của
pháp luật TTHS hiện hành về tái thẩm (có so sánh với quy định của pháp luật TTHS
trƣớc khi ban hành BLTTHS năm 2003 để đánh giá sự phát triển của pháp luật về
tái thẩm).
Về phƣơng diện thực tiễn, phạm vi nghiên cứu của luận án là thực tiễn thi
hành pháp luật TTHS Việt Nam về tái thẩm từ khi BLTTHS năm 2003 có HLPL
đến nay.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
3.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên, trực tiếp, toàn diện và có hệ thống
về tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là các luận điểm khoa học về khái
niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tái thẩm góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa
học luật TTHS Việt Nam nói riêng, khoa học luật TTHS trên thế giới nói chung về
tái thẩm trong TTHS.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là các luận điểm khoa học trong
việc phân tích pháp luật, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái thẩm đóng
góp về mặt thực tiễn, giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng, thi
hành pháp luật TTHS Việt Nam, trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, cụ thể hoá quy
định của Hiến pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp
luật TTHS Việt Nam nói chung, pháp luật TTHS về tái thẩm nói riêng.
Những kết quả nghiên cứu lý luận, những vấn đề thực tiễn đƣợc phân tích,
đánh giá trong luận án sẽ là những đóng góp cho khoa học luật TTHS và kết quả
nghiên cứu này là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên nghiên cứu tại các cơ
sở đào tạo luật.
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Thủ tục tái thẩm trong TTHS là đối tƣợng nghiên cứu trong nhiều công trình
ở các cấp độ khác nhau nhƣ sách tham khảo, đề tài luận án, giáo trình, các bài viết
nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên chƣa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện, đầy đủ cả về phƣơng diện lý luận, pháp luật và thực tiễn thi
hành về tái thẩm trong TTHS. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc chỉ làm sáng
tỏ một phần những vấn đề lý luận và đánh giá phần nào thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng thủ tục tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
Một số công trình có tính chất định hƣớng cho việc nghiên cứu lý luận của
đề tài cũng nhƣ chỉ ra những nguyên tắc chung liên quan đến việc bảo đảm Nhà
nƣớc pháp quyền, bảo vệ quyền con ngƣời, tạo nền tảng cho việc xây dựng và hoàn
thiện thủ tục tái thẩm nhƣ: “Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp
đổi mới” của tác giả Đào Trí Úc, Nxb. Khoa học xã hội, năm 1997; “Hệ thống tư
pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do tác giả Đào Trí Úc chủ biên,
Nxb. Khoa học xã hội năm 2003; đề tài KX.04.06 “Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án
trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do tác giả
Uông Chu Lƣu chủ nhiệm đề tài năm 2006; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” do các tác giả Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị đồng chủ biên, Nxb. Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, năm 2009; “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền” do các tác giả Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb.
Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2004.
Giáo trình của các cơ sở đào tạo về luật TTHS Việt Nam trong đó đề cập đến
thủ tục tái thẩm nhƣ: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
9
Gia Hà Nội năm 2014 do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân
năm 2011 do tác giả Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam (dành cho hệ đào tạo sau đại học) của Học viện Cảnh sát nhân dân năm
2003 do tác giả Đỗ Ngọc Quang chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2011 do tác giả Trần Văn Độ chủ biên.
Các nghiên cứu có tính chất bình luận, phân tích các quy định của BLTTHS
năm 2003 trong đó có đề cập đến thủ tục tái thẩm nhƣ: Bình luận khoa học Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 do tác giả Nguyễn Ngọc Anh chủ biên, Nxb. Chính trị
quốc gia năm 2012; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự của Học viện khoa
học xã hội do tác giả Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Tƣ pháp năm 2012. Đây là
những nghiên cứu có tính chất cơ bản, đại cƣơng hoặc đơn thuần là giải thích quy
phạm pháp luật, không phải là các nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tái thẩm trong
TTHS đồng thời cũng không đề cập đến lý luận khoa học về thủ tục này.
Tái thẩm cũng đƣợc ghi nhận trong thủ tục giải quyết các vụ án tại Toà án
hình sự quốc tế, các nội dung có liên quan đến tái thẩm hình sự đối với các vụ án
giải quyết tại các Toà án quốc tế đƣợc đề cập trong các nghiên cứu sau: Giáo trình
Toà án hình sự quốc tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội năm 2010 do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; Quy chế Rome về Toà án
hình sự quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011 do tác giả Dƣơng
Tuyết Miên chủ biên; Giáo trình Luật hình sự quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2012 do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên.
Ngoài các nghiên cứu nói trên, các công trình nghiên cứu trực tiếp về tái
thẩm trong TTHS Việt Nam có thể kể đến bao gồm:
“Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”
của tác giả Đinh Văn Quế xuất bản năm 1997. Tác giả chủ yếu tập trung phân tích
luật thực định về thủ tục xét lại bản án, quyết định có HLPL của Toà án bao gồm cả
giám đốc thẩm và tái thẩm; sử dụng các vụ án đã giải quyết trên thực tế để làm rõ các
quy định của pháp luật TTHS về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, công
trình nghiên cứu không đánh giá pháp luật, không đƣa giải pháp hoàn thiện pháp luật.
10
“Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo thủ
tục giám đốc thẩm và tái thẩm”, do tác giả Dƣơng Thanh Biểu chủ biên, Nxb. Tƣ
pháp, năm 2010 [3]. Nghiên cứu giải quyết đƣợc các nội dung chủ yếu sau: 1) Đƣa ra
khái niệm về thủ tục tái thẩm và làm rõ các điều kiện để xác định tình tiết mới là căn
cứ để kháng nghị tái thẩm; 2) Khái quát quy định về thủ tục tái thẩm trong pháp luật
một số nƣớc trên thế giới nhƣ Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà
Pháp, Nhật Bản; 3) Phân tích quy định về thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm 2003,
một số kỹ năng về nghiên cứu hồ sơ và xác minh tình tiết mới theo thủ tục tái thẩm.
“Luật tố tụng hình sự trong thực tế giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án nhân
dân tối cao”, do các tác giả Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công đồng chủ biên,
Nxb. Công an nhân dân năm 2008 [18]. Nội dung cơ bản của luật TTHS đƣợc phân
tích dựa vào các văn bản giải thích pháp luật đồng thời đƣợc minh chứng cụ thể bởi
các tình huống thực tế trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thể hiện trong các
quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của TANDTC. Về thủ tục tái thẩm, nghiên
cứu chỉ ra một số trƣờng hợp sai lầm trong bản án, quyết định có HLPL giống nhau
nhƣng lại áp dụng thủ tục khác nhau để giải quyết (có trƣờng hợp áp dụng giám đốc
thẩm, có trƣờng hợp áp dụng tái thẩm). Các tác giả sử dụng các quyết định tái thẩm
để minh chứng cho các quy định về căn cứ kháng nghị tái thẩm, thẩm quyền của
Hội đồng tái thẩm là các quy định không cụ thể trong BLTTHS năm 2003.
“Những mô hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới”, do tác giả Tô Văn Hoà
chủ biên, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội 2012. Cuốn sách ra đời với sự trợ giúp của Chƣơng
trình đối tác Tƣ pháp (Justice Partnership Programe - JPP) do Liên minh Châu Âu,
Đan Mạch và Thụy Điển đồng tài trợ. Các nhà nghiên cứu khoa học và thực tiễn có
kinh nghiệm và uy tín quốc tế bao gồm: GS. Byung-Sun Cho; GS. Liling Yue; GS.
William Burnham; TS. Marco Fabri; GS. Richard S.Shine; Jean-Philippe Rivaud đã
thực hiện các báo cáo nghiên cứu về mô hình TTHS của bảy quốc gia đại diện cho
các mô hình tố tụng điển hình trên thế giới là Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Italia, Liên bang
Nga, Nhật Bản, Cộng hoà Pháp và Trung Quốc. Trong các mô hình tố tụng trên, một
số mô hình xây dựng thủ tục tƣơng tự nhƣ tái thẩm quy định trong BLTTHS Việt
Nam với tên gọi khác nhau và các tác giả dành một dung lƣợng nhất định để giới thiệu.
11
“Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Toà án nhân
dân tối cao - Những vướng mắc và kiến nghị”, Đề tài khoa học cấp bộ của TANDTC,
do tác giả Nguyễn Huy Du chủ nhiệm đề tài, năm 2012 [43]. Công trình đã phân
tích cơ sở pháp lý của công tác tiếp nhận và giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm tại TANDTC và VKSNDTC; nghiên cứu thực trạng công tác tiếp nhận và
giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC và VKSNDTC từ năm
2005 đến năm 2010; đánh giá những ƣu điểm và hạn chế của công tác thụ lý và giải
quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chỉ ra những nguyên nhân khách quan
và chủ quan của thực trạng. Đề tài đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đề tài có đề cập đến giám đốc
thẩm, tái thẩm trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia nhƣ Singapore, Trung
Quốc, Cộng hoà liên bang Đức, Nhật Bản, Liên bang Nga.
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do các tác giả Lê Hữu Thể, Đỗ Văn
Đƣơng, Nguyễn Thị Thủy đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2013 [53].
Nội dung sách chủ yếu tổng kết thực trạng thủ tục TTHS ở Việt Nam, đề xuất đổi
mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp; hệ thống hoá những vấn đề cốt
lõi, cơ bản từ lý thuyết đến thực tiễn liên quan đến thủ tục TTHS; phân tích, đánh
giá tính hiệu quả, khả năng áp dụng của luật TTHS hiện hành; đề xuất các giải pháp
và hƣớng sửa đổi, bổ sung luật nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp. Trong đó
các tác giả có đề cập đến cơ sở lý luận, yêu cầu và đề xuất đổi mới, hoàn thiện thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS.
Các bài viết nghiên cứu trực tiếp về tái thẩm công bố trên các tạp chí chuyên
ngành luật học chủ yếu đề cập đến một nội dung nhất định có liên quan đến thủ tục
tái thẩm. Bàn về căn cứ kháng nghị tái thẩm có các bài viết nhƣ: “Một số vấn đề về
tái thẩm” của tác giả Trần Văn Độ, Tạp chí Luật học, số 3 năm 1995; “Bàn về các
căn cứ kháng nghị tái thẩm” của tác giả Vũ Gia Lâm đăng trên Tạp chí Luật học số
6/1998. Về quá trình hình thành, phát triển của thủ tục tái thẩm trong lịch sử lập pháp
Việt Nam có các bài viết nhƣ: “Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện pháp luật của
12
Việt Nam quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật từ 1945
đến nay” của tác giả Nguyễn Văn Hiện, tạp chí TAND, số 6/1997. Việc thực thi quy
định của pháp luật về Hội đồng tái thẩm đƣợc chỉ ra trong bài“Cần thực hiện đúng
quy định của pháp luật về Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ở Toà án cấp tỉnh” của
tác giả Đỗ Văn Chỉnh, tạp chí TAND, số 2/1999. Đề cập đến yêu cầu về hình thức
cũng nhƣ nội dung của quyết định tái thẩm có bài viết“Một số ý kiến về bản án sơ
thẩm, phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm” của tác giả Nguyễn Đức
Mai, tạp chí TAND số 1/2003. Các nghiên cứu về tái thẩm trong quy định của
BLTTHS năm 1988 hiện nay vẫn có giá trị khoa học trong việc nghiên cứu về thủ tục
này trong luận án vì hàm chứa các vấn đề lý luận đã đƣợc thừa nhận. Mặt khác, do rất
nhiều quy định về thủ tục tái thẩm quy định trong BLTTHS năm 1988 vẫn đƣợc giữ
nguyên trong BLTTHS năm 2003 nên việc xem xét các nhận xét, đánh giá về cùng
một nội dung quy định của các nhà nghiên cứu là vô cùng quan trọng.
Các nghiên cứu khoa học về thủ tục tái thẩm theo quy định của BLTTHS
năm 2003 cũng thƣờng đề cập đến một vấn đề cụ thể nhất định. Có tính chất giới
thiệu những điểm mới trong quy định của BLTTHS năm 2003 về các thủ tục tố tụng
trong đó có thủ tục tái thẩm nhƣ các bài: “Những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng
hình sự sửa đổi về phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm” của tác giả Nguyễn Đức
Mai, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật số 5/2004;
“Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm” của tác giả Đinh Văn Quế, tạp chí Toà án, TANDTC số 13/2004.
Các nghiên cứu đề xuất hoàn thiện pháp luật trên cơ sở phân tích pháp luật nhƣ “Về
căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”
của tác giả Vũ Gia Lâm, tạp chí Luật học, số 10/2006. Nghiên cứu giới thiệu về thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong quy định của BLTTHS các nƣớc Cộng hoà Pháp,
Liên bang Nga, Trung Quốc có bài viết “Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo pháp
luật tố tụng hình sự một số nước”, của tác giả Nguyễn Đức Mai, tạp chí TAND số
10/2010. Một số vấn đề lý luận về thủ tục tái thẩm cũng đƣợc đề cập trong bài
viết“Khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm trong Tố tụng hình sự”, của các tác giả
13
Trần Văn Độ, Nguyễn Mai Bộ, tạp chí TAND số 15/2010. Thực trạng thi hành các
quy định của BLTTHS về tái thẩm có trong các bài viết: “Thực trạng thi hành các
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về những người tham gia phiên toà giám đốc
thẩm, tái thẩm và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trƣợng, tạp chí
TAND số 20/2010; “Những khó khăn, vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các
trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm
sát nhân dân tối cao” của tác giả Phạm Văn An, tạp chí Kiểm sát, số 5 năm 2012.
Những thay đổi về quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình tiến hành cải
cách tƣ pháp cũng đƣợc đề cập nhƣ bài: “Thay đổi trong quan điểm chỉ đạo của
Đảng về tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự” của tác giả Phạm
Văn An, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 năm 2011.
Những nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau có nội dung liên quan đến tái
thẩm hoặc đề cập đến một vấn đề nào đó của tái thẩm trong TTHS nhƣ luận án tiến
sĩ luật học “Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2007 của tác giả
Phan Thị Thanh Mai, Đại học Luật Hà Nội; luận án tiến sĩ luật học “Nguyên tắc hai
cấp xét xử trong Tố tụng hình sự” năm 2009 của tác giả Vũ Gia Lâm, Đại học Luật
Hà Nội; đề tài “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp” năm 2003 của VKSNDTC do tác giả Lê Hữu Thể
chủ nhiệm đề tài; đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ
án hình sự” của TANDTC năm 2005 do tác giả Đinh Văn Quế chủ nhiệm đề tài.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý tại một số các quốc gia điển hình
cho thấy cơ sở lý luận của việc xây dựng thủ tục tái thẩm và thực trạng pháp luật
của các quốc gia về thủ tục tái thẩm. Các nghiên cứu về thủ tục tái thẩm đƣợc đề
cập trên những khía cạnh sau: 1) Cơ sở lý luận của việc xem xét lại tính đúng đắn
của các bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL khi TTHS thừa nhận nguyên tắc
bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL phải đƣợc tôn trọng và bảo đảm thực
hiện; 2) Sai lầm về áp dụng pháp luật và sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định
có HLPL của Toà án giải quyết chung một thủ tục hay bởi các thủ tục tố tụng khác
14
nhau và cơ sở lý luận để đƣa ra phƣơng án giải quyết; 3) Việc xem xét lại bản án,
quyết định của Toà án về sự việc chỉ đƣợc đặt ra khi có lợi cho ngƣời bị kết án hay
theo cả hƣớng không có lợi; 4) Căn cứ khẳng định có sai lầm về sự việc trong bản
án, quyết định đã có HLPL của Toà án là tình tiết mới đƣợc phát hiện thể hiện cụ
thể nhƣ thế nào, sự khác nhau về bản chất với căn cứ vi phạm về áp dụng pháp luật;
5) Thẩm quyền của Toà án khi xét lại bản án, quyết định trong trƣờng hợp này cần
quy định thế nào để bảo đảm quyền của ngƣời bị kết án oan sai và công bằng xã hội.
Các công trình nghiên cứu ngoài nƣớc liên quan đến nội dung luận án đƣợc
tác giả tìm hiểu bao gồm:
1.2.1. Les voies de recours en matière pénale - Essai d’une théorie générale,
Thèse, Maud Orillard Léna, Université Paris II, 2007 [117]. (Kháng cáo, kháng nghị
trong lĩnh vực hình sự - Nghiên cứu lí luận chung, luận án tiến sĩ luật học, tác giả
Maud Orillard Léna tại trƣờng Đại học Paris II, năm 2007).
Nghiên cứu xác định bản án, quyết định đã có HLPL có thể sai lầm về áp
dụng pháp luật hoặc sai lầm về sự việc. Tùy theo truyền thống pháp lí, các quốc gia
có các giải pháp khác nhau để khắc phục những sai lầm về sự việc trong các bản án,
quyết định có HLPL của Toà án. So sánh pháp luật một số các quốc gia, tác giả chỉ
ra có ba hệ thống khác nhau giải quyết sai lầm về sự việc trong bản án có HLPL. Hệ
thống thứ nhất không động chạm đến HLPL của bản án, quyết định của Toà án, mà
ƣu tiên sử dụng chế định ân xá để khắc phục sai lầm, trong đó Hoa Kỳ là quốc gia
điển hình. Giải pháp của hệ thống này đƣợc tác giả của công trình nghiên cứu đánh
giá không hợp lí ở điểm vẫn để tồn tại trên thực tế bản án sai lầm. Hệ thống thứ hai
thừa nhận thủ tục tái thẩm để khắc phục sai lầm về sự việc và áp dụng trong cả hai
trƣờng hợp sai lầm gây thiệt hại cho ngƣời bị kết án và sai lầm có lợi cho ngƣời bị
kết án (Cộng hoà Liên bang Đức, Áo, Na Uy). Hệ thống thứ ba chỉ cho phép tái
thẩm có lợi cho ngƣời bị kết án (in favorem) nhƣ các nƣớc Canada, Tây Ban Nha,
Italia, Cộng hoà Pháp. Theo khảo sát trong nghiên cứu, số lƣợng các quốc gia theo
hệ thống này chiếm đa số.
Nghiên cứu khẳng định quyền kháng cáo, kháng nghị tái thẩm không đƣợc
15
quy định phổ biến. Tuy nhiên, các Toà án quốc tế ad hoc nhƣ Toà án La Haye, Toà
án Arusha cũng nhƣ Toà án hình sự quốc tế đều ghi nhận khả năng tái thẩm, đặc
biệt trong trƣờng hợp có tình tiết mới. Các Toà án hình sự quốc tế ad hoc thừa nhận
tái thẩm có lợi cũng nhƣ không có lợi cho ngƣời bị xét xử, nhƣng thời hạn kháng
cáo, kháng nghị tái thẩm khác nhau theo chủ thể kháng cáo, kháng nghị.
Nghiên cứu chỉ ra rằng Luật châu Âu về quyền con ngƣời quan tâm đến việc
bồi thƣờng cho ngƣời bị kết án oan sai hơn là quan tâm đến việc huỷ bản án thể
hiện tại Điều 3 Nghị định thƣ số 7 của Công ƣớc châu Âu về quyền con ngƣời. Tại
Pháp, tái thẩm có lợi cho ngƣời bị kết án là truyền thống pháp lí nhân đạo, bắt
nguồn từ luật La Mã. Khác với ân xá, tái thẩm thừa nhận công khai sai lầm tƣ pháp
và trao cho Hội đồng tái thẩm thẩm quyền đƣa ra phƣơng thức giải quyết theo luật.
1.2.2. Procédure pénale, Etienne Vergès (2007), 2e éd., Litec, Paris [118].
(Tố tụng hình sự, tác giả Etienne Vergès, Nxb. Litec, Pari, 2007)
TTHS Cộng hoà Pháp thừa nhận bản án của Toà án đã có HLPL có thể bị
xem xét lại bằng hai thủ tục khác nhau: giám đốc thẩm và tái thẩm. Nghiên cứu chỉ
rõ sự khác nhau giữa hai thủ tục này trong TTHS Cộng hoà Pháp.
Đối với giám đốc thẩm, căn cứ duy nhất là sự vi phạm pháp luật và nhấn mạnh
Toà án giám đốc thẩm không phải Toà án xem xét lại về sự việc mà chỉ là Toà án
xem xét lại về mặt pháp luật. Toà án giám đốc thẩm là Toà án bảo đảm việc áp dụng
đúng pháp luật của các Toà án xét xử nội dung vụ án. Chức năng này của Toà án
giám đốc thẩm chỉ có thể thực hiện đƣợc nếu đƣơng sự kháng cáo bản án vi phạm
pháp luật hoặc Viện công tố kháng nghị vì lợi ích pháp luật. Bản án của Toà án giám
đốc thẩm không thể gây thiệt hại cho các đƣơng sự. Mục đích của kháng nghị giám
đốc thẩm không phải là sự kết án đối với ngƣời đƣợc tuyên vô tội hoặc trái lại. Mục
đích của kháng nghị giám đốc thẩm là cho phép Toà án giám đốc thẩm công khai
khắc phục sự áp dụng không đúng pháp luật, tránh lặp lại sai lầm và vì vậy giám đốc
thẩm có thể xem xét một kháng nghị ngay cả khi tội phạm sẽ đƣợc một đạo luật ân xá.
Kháng cáo, kháng nghị tái thẩm là thủ tục đặc biệt thể hiện ở việc đặt lại vấn
đề đối với bản án kết tội đã có HLPL về trọng tội hoặc khinh tội trong trƣờng hợp
16
- Xem thêm -