Bài 1: Huấn luyện đực giống và khai thác tinh
Mục tiêu của bài
Học xong bài này người học có khả năng:
- Tự huấn luyện được đực giống
- Thực hiện việc khai thác tinh thành thạo
1.1. Đại cương về các phương pháp phối giống
Khái niệm phối giống
Phối giống là quá trình sinh lý xảy ra khi tế bào trứng kết hợp với tinh
trùng, phát sinh đồng hóa, kết quả tạo thành một tế bào mới mang tính di truyền
của bố mẹ.
Phương thức phối giống
Sự bắn tinh vào đường sinh dục con cái
Phối giống tử cung: lạc đà, ngựa, lợn, chó là loài gia súc bắn tinh tử cung,
nghĩa là trong quá trình giao phối thì tinh dịch của con đực vào trong tử cung
con cai.
Ngựa:
Thực chất là bắn tinh âm đạo, tuy nhiên vì quy đầu của ngựa đực to, thành
âm đạo ngựa cái co bóp mạnh, cổ tử cung mềm, được mở ra hoàn toàn khi động
dục nên tinh dịch của ngựa đực được phóng vào tử cung.
Lợn:
Âm dạo lợn ngắn, cổ tử cung lợn cái tròn không có nếp gấp nhiều lần hoa
nở như trâu, bò, ranh giới giữa cổ tử cung và âm dạo không rõ rang. Cổ tử cung
mở ra hoàn toàn trong quá trình động dục, dương vật của con đực có hình xoắn
ốc và đưa sâu vào trong đường sinh dục con cái, số lượng tinh dịch phóng ra một
lần của lợn đực nhiều, nên tinh dịch của lợn đực vào tử cung lợn cái trong quá
trình giao phối.
Chó:
Trong quá trình giao phối, bộ phận hải niệu quy đầu của chó đực và tiền
đình của chó cái mở to giữ chặt lấy nhau nên tinh dịch của chó đực vào tử cung
chó cái
Bắn tinh âm đạo
Trâu, bò, dê cừu là loài gia súc bắn tinh âm đạo do quá trình giao phối của
các loài này ngắn, số lượng tinh dịch ít. Niêm mạc cổ tử cung của gia súc cái
nhiều nếp gấp, nên cổ tử cung không mở hoàn toàn trong quá trình động dục, chỉ
mở hoàn toàn khi tính dục và tính hưng phấn cao độ. Nếu gia súc đực phóng tinh
chưa đúng thời kỳ động dục cao độ của gia súc cái thì tinh dịch nằm ở ngoài âm
đạo.
Có hai hình thức phối giống
1.1.1. Phối giống trực tiếp
Phối giống trực tiếp là quá trình giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái,
tinh dịch của con đực đi vào đường sinh dục của con cái để tế bào trứng và tinh
trùng kết hợp với nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng, tạo một tế bào mới. Tế bào
đó gọi là hợp tử.
1
1.1.2. Phối giống gián tiếp (TTNT)
TTNT là hình thức dùng tinh dịch của con đực đã pha loãng bơm vào
đường sinh dục của con cái để tinh trùng kết hợp với trứng tạo thành hợp tử.
Người ta thấy rằng trong quá trình thụ tinh thì tinh trùng phá vỡ được màng
phóng xạ của tế bào trứng chính là nhờ men hyaluronidase ở phần acrosom của
đầu tinh trùng, mem này không đặc trưng cho loài. Điều đó có nghĩa tinh trùng
của một loài gia súc này có thể phá vỡ tế bào màng phóng xạ của một loài gia
súc khác.
Vì vậy, trong TTNT người ta có thể lấy nhiều loại tinh trùng của gia súc
khác loài hỗn hợp với một lượng tinh trùng nhất định của đực giống cùng loài
với gia súc cái sẽ nâng cao tỷ lệ thụ thai và năng suất sinh sản của mỗi gia súc
đực giống.
Ví dụ: trộn tinh trùng bò và lợn để dẫn tinh cho lợn nhưng chỉ có tinh trùng
lợn là đi vào được bên trong tế bào trứng lợn.
Ngoài ra, người ta có thể bổ sung mem hyanuronidase tổng hợp vào tinh
dịch nhằm nâng cao kết quả thụ tinh.
Ý nghĩa:
Nói về ý nghĩa của truyền giống nhân tạo, Studenxốp (Liên xô cũ) và
Vương Bội Kiên (Trung Quốc) cho rằng: "Truyền giống nhân tạo là phương
pháp nhân giống hữu tính của động vật mà có thể dùng phương pháp này nâng
cao phẩm giống vật nuôi một cách nhanh nhất, tôi nhất, kinh tế nhất, đồng thời
có thể phòng ngừa một số bệnh lây lan qua đường sinh dục ".
1.2. Huấn luyện đực giống
Hiện nay, người ta có nhiều phương pháp để huấn luyện gia súc đực nhảy
giá. Tùy từng loại gia súc khác nhau và đặc tính riêng của từng gia súc mà người
ta có phương pháp huấn luyện phù hợp.
1.2.1. Nguyên tắc huấn luyện
Thành lập cho gia súc đực một phản xạ có điều kiện về nhảy giá và thường
xuyên củng cố phản xạ này.
1.2.2. Kỹ thuật huấn luyện
Tuổi huấn luyện:
Lợn đực 5-7 tháng tuổi, trâu 24- 30 tháng tuổi, bò 18- 24 tháng tuổi, dê cừu
6- 9 tháng tuổi, ngựa 24- 30 tháng tuổi.
Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng:
Chăm sóc: thường xuyên quan sát tình trạng ăn, uống, đi lại, phân, nước
tiểu, nhịp thở,…
Chú ý thường xuyên tắm, chải cho đực giống.
Đặc biệt chú ý giữ sạch vùng hạ nang và vùng bao quy đầu của đực giống.
Rất cần chú y đực giống vận động để con đực có phản xạ tính dục mạnh
mẽ, có thể thể săn chắc.
Có hai hình thức vận động:
- Vân động tự do: cho đi lại tự do trong sân vận động (1 con / 1 ô sân).
- Vận động cưỡng bức: cho con đực vận động với tốc độ nhất định trên
đoạn đường nhất định tùy từng loại gia súc:
2
o Lợn đực nội: chạy + đi 1,5 – 2 km/lần. tuần 2 lần.
o Lợn đực ngoại: chạy + đi 2-2,5 km/ lần. tuần 2 lần.
o Trâu, bò: đi nhanh +lồng 10-15 km/lần. tuần 2 lần.
o Ngựa đực: đi kiệu +phi 50- 60 km/ lần. tuần 2-3 lần.
Nuôi dưỡng: chất lượng thức ăn tốt, chế biến ngon, sạch.
Lịch huấn luyện: Phải đảm bảo một tuần không quá hai lần và đúng giờ
qui định (tốt nhất là khoảng từ 5-7 giờ sáng).
Người huấn luyện: Người huấn luyện phải kiên trì tránh nôn nóng, tránh
các hành vi thô bạo như: đánh đập gia súc và phải luôn cố định người huấn
luyện bởi vì có cố định người huấn luyện thì mới theo dõi được cá tính của từng
con để chiều theo ý thích của chúng.
Phòng và giá huấn luyện
Phòng huấn luyện có không gian phù hợp với gia súc huấn luyện. Không
bố chí các vật nhọn, sắc.
Giá huấn luyện
Đối với trâu, bò, ngựa, lợn, dê cừu,… phải có giá nhảy thích hợp. Giá nhảy
có thể bằng sắt hoặc gỗ.
Để huấn luyện đực giống người ta có 2 phương pháp sau:
Phương pháp sinh vật
Là phương pháp dùng con cái đang động dục cố định vào giá nhảy rồi cho
con đực cần huấn luyện nhảy lên giá nhảy. Khi con đực nhảy lên giá, người
huấn luyện phải kịp thời, chính xác, khéo léo đưa dương vật của con đực vào
AĐG.
Dưới tác động kích thích của AĐG, con đực sẽ xuất tinh. Sau đó, không
cần dùng con cái nữa.
Ở những lần đầu, con đực không thực hiện phản xạ giao phối, cần kiên trì
tập luyện, cho tập nhiều lượt trong một lần tập luyện, mỗi tuần tập 2- 3 ngày.
Tùy theo từng loại đực giống mà từ sau 2- 4 tuần có thể thành lập được
phản xạ nhảy giá. Sau đó là giai đoạn củng cố phản xạ, nhịp huấn luyện thưa dần
3- 5 ngày.
Phương pháp tham quan
Cho đực giống tập sự quan sát một đực giống khác đã nhảy giá thành thục.
Sau đó, cho đực giống tập sự bắt chước, như vậy con đực tập sự sẽ nhanh chóng
tiếp thu kinh nghiệm.
Ngoài ra, có thể kết hợp cả hai phương pháp để rút ngắn thời gian tập
luyện. ở lợn có thể dùng phương pháp cưỡng bức lợn đực ôm giá, kích thích
cưỡng bức phản xạ cương cứng dương vật và xuất tinh.
Một số chú ý khi huấn luyện gia súc đực nhảy giá
Huấn luyện lợn đực nhảy giá không nên đơn thuần coi giá nhảy là đối
tượng duy nhất. Để tạo ra phản xạ nhảy giá xuất tinh là cả một hệ thống tác động
đồng bộ gây phản xạ có điều kiện. Ví dụ: chỉ nên huấn luyện vào 7 - 8 giờ sáng;
trước khi đi huấn luyện nên cho con đực ăn nhẹ một chút thức ăn tinh; chỉ đi
theo một con đường duy nhất đến phòng huấn luyện; ổn định người huấn luyện
và lấy tinh kể cả màu áo; tạo điều kiện làm quen với lợn đực bằng cách thường
3
xuyên xoa chải, vuốt ve; tạo tiếng động ổn định trước khi lợn đực vào phòng
huấn luyện lấy tinh ... Sau khi huấn luyện và lấy tinh cần có một số động tác ổn
định nào đó góp vào hệ thống phản xạ có điều kiện.
Huấn luyện trâu, bò đực nhảy giá
Tuổi huấn luyện và thời gian sử dụng
Tuổi thành thục về tính của bò đực phụ thuộc vào giống, cá thể, mùa vụ,
thời tiết, đặc biệt là chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Nhìn chung, tuổi thành thục về
tính của bò biến động từ 12 - 18 tháng tuổi. Trong cùng một điều kiện nuôi
dưỡng, các giống bò sữa thành thục về tính sớm hơn bò thịt và bò cày kẻo. Sau
khi thành thục về tính, dịch hoàn của bò vẫn tiếp tục phát triển về khối lượng, số
lượng tinh trùng cũng tăng lên ở mỗi lần xuất tinh và ổn định ở độ tuổi 20-24
tháng. Thời gian khai thác tinh dịch của bò đực được tiến hành ngay sau khi
huấn luyện đến 7-8 tuổi, nhưng tốt nhất là ở độ tuổi từ 3-6 năm.
Tuổi thành thục về tính của trâu muộn hơn bò. Trong điều kiện nuôi dưỡng
tốt, tuổi thành thục về tính của trâu từ 18-24 tháng tuổi, tuổi bắt đầu sử dụng là
lúc 24 tháng tuổi và có thể sử dụng đến 4-5 năm tuổi.
Phương pháp huấn luyện trâu, bò đực nhảy giá
Hiện nay, ở Việt Nam đang sử dụng 3 phương pháp huấn luyện huấn luyện
bò đực nhảy giá
* Phương pháp thay thế
Dùng bò cái động dục tự nhiên hoặc nhân tạo (bằng cách tiêm kích dục tố)
đứng làm giá nhảy (giá nhảy tự nhiên) để huấn luyện bò đực lấy tinh qua âm đạo
giả. Các lần sau thay bò cái động dục bằng bò cái không động dục hoặc bò đực
hoặc bò đực thiến khác.
Tuy nhiên, khi dùng bò thay thế nên có cùng màu sắc, tầm vóc và thuần
tính. Bò đực tơ (chưa giao phối lần nào) dễ chấp nhận các các điều kiện thay thế
hơn so với bò đực đã giao phối tự nhiên nhiều lần.
* Phương pháp tham quan
Cho bò đực đang trong thời gian huấn luyện đứng cách xa từ 10 -15 m để
quan sát một bò đực khác nhảy giá và xuất tinh thành thạo qua âm đạo giả một
số lần. Khi quan sát quá trình nhảy giá, bò đực cần huấn luyện có phản xạ cương
cứng dương vật thì dẫn ngay vào gần giá nhảy để bò đực nhảy giá và xuất tinh
qua âm đạo giả. 2-3 ngày sau lặp lại và tiếp lục như vậy cho đến khi thành thạo.
* Phương pháp kết hợp
Có thể kết hợp hai phương pháp tham quan và thay thế để huấn luyện đối
với bò đực giống "khó tính" hoặc đối với đực giống Zêbu (Bos indicus)
Phương pháp huấn luyện trâu đực nhảy giá cũng tương tự như ở bò, tuy
nhiên, do một số đặc điểm sinh lý sinh dục của trâu đực thường chậm và kém
hơn bò đực, nên trong huấn luyện trâu đực lấy tinh cần thời gian lâu hơn, người
huấn luyện phải kiên trì và linh hoạt.
Để huấn luyện lợn đực giống người ta có 4 phương pháp sau:
* Kích thích tính dục
Đưa lợn đực vào phòng lấy tinh, đến cạnh giá nhảy, dùng tay kích thích bao
dương vật, kết hợp với âm thanh "kích động" để dương vật cương cứng và tiết
4
dịch ở qui đầu. Có thể dùng chất keo nhầy trong tinh dịch của một lợn đực khác
hoặc dịch âm hộ của lợn nái động dục bôi vào phần sau của giá nhảy, đưa lợn
đực cần huấn luyện đến ngửi, đồng thời kích thích dương vật lợn đực để lợn đực
hưng phấn và nhảy giá.
* Cưỡng bức kích thích
Đối với lợn nhút nhát người ta có thể huấn luyện bằng cách: một người ôm 2
bên vai lợn đực, giữ cho lợn đực ôm ghì vào giá nhảy giống như tư thế giao phối,
một người khác dùng tay kích thích vào bao dương vật để lợn đực thò dương vật ra
ngoài. Sau vài lần, lợn đực mạnh dạn hơn, quen với giá nhảy và có thể tự động
nhảy lên giá dễ dàng. Lúc đó, cần chuẩn bị sẵn sàng tạo điều kiện cho lợn đực xuất
tinh.
* Tham quan
Cố định lợn đực cần huấn luyện ở vị trí mà nó có thể quan sát được một lợn
đực khác đã nhảy giá thành thạo và xuất tinh. Sau khi lấy tinh xong, đưa lợn đực
đã nhảy giá ra khỏi phòng lấy tinh, cho lợn đực cần huấn luyện vào phòng lấy
tinh quan sát giá nhảy và ngửi mùi tinh dịch của lợn đực vừa nhảy, kết hợp với
kích thích bao dương vật và tạo âm thanh "kích động” cho lợn đực cần huấn
luyện hưng phấn đòi giao phối. Tiến hành cho tham quan một số lần, khi lợn đực
cần huấn luyện có dấu hiệu muốn nhảy giá và cương cứng dương vật, cần tạo
điều kiện để cho lợn đực xuất tinh.
* Dùng lợn nái
Nếu các phương pháp huấn luyện trên không đạt kết quả, người ta phải
dùng lợn nái để kích thích lợn đực nhảy giá (đây là phương pháp bất đắc dĩ).
Trước hết, dùng một lợn nái nhỏ cho vào gầm giá nhảy (hoặc cho nằm lên trên
lưng giá nhảy) và ép cho lợn đực tiếp cận với giá nhảy, tìm mọi cách kích thích
nó trèo lên giá nhảy để lấy tinh. Phương pháp này đòi hỏi người huấn luyện phải
kiên nhẫn. Nếu như sau nhiều lần tập luyện mà lợn đực cố tình không nhảy giá,
cần sử dụng lợn nái động dục để gây kích thích.
Đưa lợn nái động dục ở thời kỳ mê ỳ vào gầm giá nhảy, giữ cho lợn nái ổn
định. Đưa lợn đực vào phòng lấy tinh. Lợn đực đến giá nhảy thấy lợn cái động
dục đòi bao, ôm. Kết hợp dùng tay kích thích dương vật lợn đực, kích thích tính
dục, dương vật cương cứng, lợn đực sẽ nhảy lên giá và người huấn luyện sẽ lấy
được tinh dịch của lợn huấn luyện. Tuy nhiên, không nên lạm dụng phương
pháp này vì khi lợn đực đã ngửi được mùi lợn cái động dục, có thể lần sau nó
tiếp tục đòi lợn cái động dục.
Huấn luyện ngựa đực nhảy giá
Tuổi thành thục tính dục của ngựa đực vào lúc 20 - 24 tháng tuổi. Lúc ngựa
đực thành thục về tính cũng là thời điểm huấn luyện thích hợp. Thời gian khai
thác tinh dịch của ngựa đực có thể bắt đầu ngay sau khi huấn luyện thành công
và kéo dài tới 5 - 6 năm tuổi.
Phương pháp huấn luyện ngựa đực nhảy giá: được áp dụng như phương
pháp huấn luyện trâu, bò nhảy giá. Tuy nhiên cần lưu ý: ngựa cái làm giá nhảy
phải được buộc giữ 2 chân sau và đuôi, nếu cho ngựa cái đứng giá vào trong
gióng thì phải có then cài hai chân sau hoặc buộc giữ 2 chân sau để tránh sự cố
5
cho người lấy tinh và ngựa đực giống. Khi thay ngựa cái động dục bằng ngựa
cái không động dục phải chú ý đảm bảo không có các phản ứng bất lợi. Khi thấy
ngựa đực có trạng thái hưng phấn và dương vật thập thò ngoài bao dương vật thì
cho ngựa đực nhảy lên ngựa đứng giá.
Huấn luyện dê, cừu đực nhảy giá
Tuổi huấn luyện dê, cừu đực nhảy giá lấy tinh có thể bắt đầu vào lúc 7 - 8
tháng tuổi vì lúc này dê, cừu đực đã thành thục về tính dục.
Phương pháp huấn luyện được áp dụng như đối với trâu. bò. Để làm giá
nhảy có thể dùng giá nhảy tự nhiên như dê, cừu cái động dục hoặc không động
dục. Cũng có thể dùng giá nhảy nhân tạo bằng da súc vật nhồi, giá gỗ có phủ
bạt, cao su hoặc bộ lông súc vật cùng loại.
1.3. Khai thác tinh
Khai thác tinh dịch là một khâu có ý nghĩa quan trọng trong thụ tinh nhân
tạo động vật, vì nó cho phép đánh giá sức sản xuất của con đực, trên cơ sở đó để
định ra chế độ chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp, nâng cao sức sản xuất của con
đực. Đồng thời khai thác tinh dịch còn tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu tiếp
theo của quá trình thụ tinh nhân tạo, đó là: kiểm tra phẩm chất, pha loãng, bảo
tồn và vận chuyển tinh dịch.
1.3.1. Nguyên tắc khai thác tinh
- Phải khai thác toàn bộ tinh dịch của con đực trong một lần khai thác.
- Đảm bảo phẩn chất của tinh dịch.
Dụng cụ khai thác tuyệt đối vô trùng.
Không được khai thác tinh dịch của gia súc ốm, bị bệnh.
Phải tắm rửa con đực trước mỗi lấn khai thác tinh dịch.
Vệ sinh sạch sẽ giá nhảy, phòng lấy tinh.
Nhân viên lấy tinh dịch phải cố định và không mắc bệnh truyền
nhiễm.
- Không gây ảnh hưởng thô bạo đến cơ quan sinh dục
- Dụng cụ an toàn cho cơ quan sinh dục gia súc, dễ thao tác.
1.3.2. Phương pháp khai thác tinh
1.3.2.1. Khai thác tinh bằng âm đạo giả
Nguyên lý của phương pháp này là cho con đực giao phối và xuất tinh
trong một loại dụng cụ gọi là âm đạo giả có các điều kiện (nhiệt độ, áp suất, độ
nhớt...) tương tự như trong đường sinh dục của con cái động dục. Đây là phương
pháp khai thác tinh dịch cổ điển nhưng hiện nay vẫn đang được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu và sản xuất.
Ưu điểm:
- Khai thác được toàn bộ lượng tinh dịch trong một lần xuất tinh.
- Không gây ảnh hưởng xấu đến cơ quan sinh dục đực.
- Không cần sự có mặt của con cái động dục.
Nhược điểm:
- Phương pháp này cần phải có một số dụng cụ nhất định, công tác chuẩn bị
lâu, thao tác khi tiến hành khai thác phức tạp.
- Để tiến hành khai thác được tinh dịch bằng phương pháp âm đạo giả,
6
người ta phải huấn luyện cho con đực có phản xạ nhảy giá và giao phối trong âm
đạo giả.
Cấu tạo âm đạo giả:
Vỏ AĐG: vỏ làm bằng chất dẻo, hình ống. Kích thước và hình dáng có
khác nhau đôi chút để thích hợp với các loài gia súc. Trên vỏ âm đạo có 1 hố để
cho nước nóng vào.
Ruột A Đ G: ruột AĐG bằng cao su mềm, đàn hồi tốt, hình ống, dài hơn vỏ
từ 10-15 cm.
Kích thước A Đ G của một số giống gia súc
Loài gia súc
Vỏ âm đạo
Ruột
Dài
Đường
kính Dài
Đường kính trong
(cm)
trong (cm)
(cm)
(cm)
Bò
40
6-7
60-70
6-7
Lợn nội
20-25
5
30-35
4-5
Lợn ngoại
25-30
5
40-45
4-5
Phễu hứng tinh: phễu hứng tinh bằng cao su mềm, đàn hồi, hình nón cụt.
miệng lớn lắp vào AĐG, miệng nhỏ lắp với lọ hứng tinh.
Dụng cụ hứng tinh: dụng cụ hứng tinh thường bằng thủy tinh nhưng tùy
theo từng loài gia súc và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà có hình dáng khác
nhau cho phù hợp.
Với dê, cừu, bò ở các nước lạnh phải có cốc hứng tinh hai tầng, nhưng ở
các nước nhiệt đới thì chỉ là một cái lọ nhỏ hoặc ống nghiệm dày có chia độ.
Với lợn đực vì lượng tinh dịch nhiều nên thường phải dùng bình, chai có
chia độ để hứng tinh.
7
Đai cố định: dùng để cố định ruột AĐG và phễu hứng tinh vào vỏ AĐG.
Lắp AĐG: lắp ruột AĐG vào vỏ, lắp phễu hứng tinh vào AĐG, lắp các đai
cố định, tiệt trùng ruột AĐG bằng cồn.
Khi dùng đổ nước nóng có nhiệt độ 50-60 độ C tùy theo từng mùa vào van
trên vỏ âm đạo giả sao cho nhiệt độ trong lòng AĐG thích hợp với từng đực
giống: 38- 40 độ C đối với lợn; 40- 41 độ C với ngựa; 40-42,5 độ C với bò; 4245 độ với cừu,…
Lượng nước nóng đổ đủ vào xoang vỏ- ruột AĐG khác nhau tùy từng loài
gia súc, tuy nhiên yêu cầu chung là lượng nước chiếm 2/3 thể tích xoang AĐG.
Bơm hơi vào xoang AĐG với áp lực thích hợp.
Bôi trơn trong lòng AĐG bằng vaselin đã tiêu độc hoặc dùng dung dịch bôi
trơn. Chiều dài bôi trơn trong lòng AĐG từ 1/3- ½.
Lắp AĐG vào giá nhảy.
AĐG phải đạt các yêu cầu kỹ thuật sau:
Nhiệt độ trong lòng AĐG phải thích hợp với từng loài gia súc.
Có áp lực thích hợp.
Có độ nhờn thích hợp.
Kín, chắc chắn và phải đảm bảo vô trùng.
1.3.2.2. Khai thác tinh bằng tay (cơ học)
Phương pháp này được sử dụng từ năm 1779 bởi Lauro. SpHllazani. Đến
nay phương pháp này vẫn còn được áp dụng. Nguyên lý của phương pháp này là
sử dụng áp lực cơ học tác động vào cơ quan sinh dục đực, kích thích, gây hưng
phấn sinh dục cho con đực để gây nên phản xạ xuất tinh. Người khai thác nắm
lấy da của bao qui đầu và thực hiện chuyển động đi lại của lòng bàn tay ở bao
quy đầu. Chính sự di chuyển này kích thích những nhú nhận cảm của quy đầu và
bao quy đầu làm dương vật cương cứng một cách nhanh chóng. Khi sự cương
cứng đạt đến điểm đỉnh và sự phóng tinh bắt đầu, dương vật thụt lùi lại phía sau,
người thao tác phải giữ một áp lực đầy đủ và không đổi ở phía sau quy đầu.
Bình thu nhận tinh phải được giữ ở dưới đầu tự do của dương vật và phải tránh
những tiếp xúc của quy đầu với thành bình và giá nhảy vì có thể gây ra sự ức
chế phóng tinh của động vật. Sự có mặt của con cái động dục sẽ kích thích hơn
tính hăng sinh dục. Theo Ivanov, sự có mặt của con cái động dục có tác dụng
thúc đẩy sự bắt đầu phóng tinh, tăng thời gian phóng tinh, thể tích tinh dịch và
nồng độ tinh trùng.
Dựa vào nguyên lý này, năm 1974, GS. TS. Nguyễn Thiện (Viện chăn
nuôi) đã đưa ra phương pháp dùng bàn tay kích thích trực tiếp vào dương vật để
khai thác tinh dịch lợn. Những điều kiện cho xuất tinh là nhiệt độ, áp lực lòng
bàn tay và nhu động của các ngón tay.
Các bước tiến hành của phương pháp này như sau:
- Chuẩn bị dụng cụ: Dụng cụ khai thác tinh địch gồm có: găng tay bằng cao
su mỏng, lọ (hay bình) hứng tinh. Rửa sạch phần bụng, sát trùng bộ phận sinh
dục đực, phần mông của giá nhảy, lọ hứng tinh và găng tay cao su.
- Khai thác tinh dịch: Dùng tay kích thích vào bao dương vật để lợn đực
hưng phấn, nhảy lên ôm giá nhảy. Khi dương vật của lợn đực bắt đầu thò ra,
8
dùng lòng bàn tay nắm nhẹ vào đầu dương vật (đoạn xoắn mũi khoan) và lái cho
qui đầu lệch ra ngoài giá nhảy. Lúc này dương vật của lợn đực sẽ giao cấu trong
lòng bàn tay. Bàn tay của người khai thác tinh cần nắm nhẹ dương vật (giữ
nguyên tư thế, vị trí của lòng bàn tay), các ngón tay hơi cử động nhẹ đểgây kích
thích. Khi hưng phấn đạt cao độ, lợn bắt đầu xuất tinh. Người khai thác tinh
dùng tay kia cầm lọ hứng tinh kề gần vào qui đầu để hứng tinh dịch chảy ra.
Chú ý: - Không nắm dương vật của lợn quá chặt làm lợn đau và sợ hãi,
cũng không nên nắm quá lỏng lẻo vì có thể làm dương vật tuột ra ngoài bàn tay
- Không được để qui đầu chạm vào giá nhảy hoặc lọ hứng tinh vì dễ gây
sây sát, chảy máu làm cho lợn sợ hãi, thậm chí dẫn tới ức chế phản xạ xuất tinh.
Sau khi lợn xuất tinh xong cần nới lỏng lòng bàn tay nắm dương vật để lợn tự co
dương vật lại và tụt khỏi giá nhảy
- Khi hứng tinh phải để cho tinh dịch chảy nhẹ theo thành lọ.
Ưu điểm:
- Không cần nhiều trang thiết bị, dụng cụ.
- Người khai thác tinh dịch có thể quan sát trực tiếp được các pha trong quá
trình xuất tinh, từ đó đưa ra quyết định hứng tinh ở "pha" nào là tốt nhất, đặc
biệt trong quá trình khai thác tinh dịch lợn.
Nhược điểm:
- Cần có sự luyện tập và thích ứng của động vật.
- Dễ bị nhiễm bẩn cơ quan sinh dục hoặc lây truyền bệnh cho người khai
thác tinh dịch nếu không vô trùng tết hoặc các dụng cụ bảo hộ không đảm bảo
an toàn vệ sinh.
- Kích thích không gây khoái cảm cho con đực dễ gây ức chế khó xuất tinh
và tinh dịch thu được có số lượng và chất lượng tinh trùng thấp.
9
Chế độ lấy tinh
Để thu được số lượng và chất lượng tinh dịch cao nhất, kinh tế nhất cần có
chế độ lấy tinh thích hợp.
Nếu lấy tinh mau quá sẽ thu được tinh dịch với số lượng và chất lượng
thấp. kéo dài chế độ này có thể dẫn tới hiện tượng bệnh lý sinh dục, thậm chí bị
liệt.
Nếu lấy tinh quá thưa, không những giảm hiệu suất sinh sản của đực tốt,
giảm hiệu quả kinh tế mà tinh trùng thu được có tỷ lệ kỳ hình cao.
Chế độ lấy tinh thích hợp
Trâu, bò: 3-4 ngày/lần
Lợn ngoại: 3-4 ngày /lần
Lợn nội: 4-5 ngày/ lần
Gia cầm: 2-3 ngày/ lần
Ngựa (trong mùa sinh sản) 1 ngày/ lần (cho nghỉ chủ nhật)
Dê cừu (trong mùa sinh sản) 2-4-6 lần/ngày
10
Bài 2: Kiểm tra phẩm chất tinh dịch
Mục tiêu của bài
Học xong bài này người học có khả năng:
- Kiểm tra được một số chỉ tiêu về phẩm chất tinh dịch : Dung tích(V), hoạt
lực (A), nồng độ (C), độ PH, tỉ lệ kỳ hình (K), màu và mùi tinh dịch.
- Sử dụng các dụng cụ, trang thiết bị phòng thí nghiệm thành thạo
2.1. Đại cương về tinh dịch
Theo Ivanov, tinh dịch có ba đặc điểm chung.
+ Tinh dịch là dịch tiết của cơ quan sinh dục đực khi con đực thực hiện có
kết quả phản xạ sinh dục.
+ Tinh dịch được hình thành một cách tức thời khi con đực phóng tinh,
nghĩa là lúc nó hưng phấn cao nhất trong quá trình thực hiện phản xạ giao phối.
+ Tinh dịch gồm hai thành phần cơ bản là tinh trùng và tinh thanh.
- Tinh trùng là tế bào sinh dục đực.
- Tinh thanh là chất tiết của các tuyến sinh dục phụ, phụ hòan và ống dẫn
tinh.
2.1.1. Tinh trùng
Tế bào sinh dục đực của các loài gia súc khác nhau là khác nhau, nó đặc
trưng và ổn định theo loài.
Tinh trùng của gia súc: Có hình thái giống con nòng nọc, có chiều dài gần
gấp đôi đầu, bề dày không đáng kể nên khi nhìn nghiêng giống như hạt gạo hơi
cong. Có hình thái khác nhau ở phần cổ và thân. Thông thường nó có độ dài nói
chung: 45-90 µ (trong đó phần đuôi là dài nhất. Về độ dài, kích thước, trong
lượng của tế bào sinh dục đực không phụ thuộc vào tuổi tác, trọng lượng của
con đực mà nó phụ thuộc và giống lòai.
Trong bản thân tinh trùng chủ yếu là nước- chiếm 75%, còn lại là vật chất
khô: 25%. Trong vật chất khô chủ yếu là Protein- chiếm 85%, lipit- 13.2%;
ngoài ra khoáng, vitamin: 1.8%.
11
2.1.1.1. Cấu tạo tinh trùng
Dưới góc độ sinh sản người ta chia tinh trung ra làm 3 phần:
- Phần đầu
- Phần cổ thân
- Phần đuôi
* Cấu tạo phần đầu:
Ngoài cùng là màng chung của tinh trùng gọi là màng bán thấm
Lipoprotein. Nó có 3 lớp: protid - lipid - protid, có 2 chức năng: (i) Định hình
cho tinh trùng; (ii) Bán thấm: cho phép trao đổi chất bên trong và bên ngoài.
Trên cùng phần đầu trong màng có lớp màng mỏng gọi là mũ trước chóp
(galeapitis). Dưới mũ trước có một màng gọi là thể giả hoặc thể đỉnh kết hợp với
mũ trước chóp tạo nên xoang Acrosome thể hiện khả năng thụ thai của tế bào.
Acrosome rất dễ bong và men Hyaluronidaza do Acrosome tiết ra rất dễ thẩm
xuất ra ngoài.
Nhiệt độ càng cao thì Acrosome mất tác dụng và mức độ sốc, lắc làm xoang
Acrosome bong và mất tác dụng. Ở xoang Acrosome chứa nhiều men
Hyaluronidaza không đặc hiệu chủng loại, nó có chức năng như nhau, để tăng tỷ
lệ thụ thai người ta thường bổ sung thêm men tổng hợp Hyaluronidaza vào tinh
dịch. Nó phá vỡ màng phóng xạ của trứng trong quá trình thụ tinh. Sau hệ thống
Acrosome là nhân tinh trùng, nó chiếm gần hết phần đầu. 76.7-86.3% thể tích
của đầu là nơi chứa các gen mật mã di truyền để truyền cho đời con. Bản chất
hóa học của nhân chủ yếu là Nucleoprotid gồm 2 thành phần cơ bản là acid
nucleic và histine, chúng được nối với nhau bởi cầu nối NH2-P, cầu nối này rất
dễ bị đứt bởi 3 yếu tố: áp suất thẩm thấu, nhiệt độ cao tới 420C, sự rung động
như sốc-lắc. Nếu NH2-P đứt thì tinh trùng bị chết.
Ngoài ra còn có các nguyên sinh chất.
12
* Phần cổ- thân
Cổ tinh trùng gắn với đầu hết sức lỏng lẻo, nhưng có tác dụng rất lớn trong
quá trình thụ tinh, nhưng bất lợi trong quá trình bảo quản.
Phần cổ tế bào sinh dục đực rất ngắn và mảnh, chiều dài không đáng kể, coi
phần cổ là vạch biên giữa thân và đầu. Về cấu trúc vi thể thì cổ tương đối giống
thân. Có 2 trung tử, trung tử 1 nằm ở dưới đầu, trung tử 2 nằm dưới trung tử 1
và trên thân.
Về cấu trúc vi thể, cắt ngang phần cổ thân của tinh trùng, từ trung tử 1 nằm
trong hố thụ tinh xuất phát ra 2 sợi trục trung tâm và cũng là nơi xuất phát ra 9
sợi fibrin vành trong, 9 sợi này bao bọc lấy hai sợi trung tâm. Trung tử 2 nằm
thấp hơn trung tử 1 một chút, là nơi xuất phát của 9 sợi fibrin vành ngoài với
kích thước sợi fibrin là khác nhau: sợi 1, 4, 7 có kích thước to (1000 A0), sợi 9
nhỏ (180 A0), sợi 2, 3, 5, 6, 8 có đường kính 700 A0. Nó chạy dọc từ cổ đến
đuôi hoặc có công thức cấu trúc vi thể 2+ 9+ 9 giúp cho cơ thể tinh trùng không
thay đổi vị trí trong di chuyển. Phần cổ thân chứa nhiều ty thể. Các ty thể là các
túi nhỏ chưa 50% protid, 30% lipid và các chất khác. Trong ty thể chứa nhiều
men giúp cho quá trình photpho-oxyhóa của tế bào, nó nằm sắp xếp như các
vách ngăn từ phía ngoài vỏ đi vào phần trung tâm của thân. Có nhiều chất ở thể
sắc tố Sytine Cytocrom hoặc tế bào sắc tố ở phần cổ thân giúp cho qúa trình
oxyhóa của tinh trùng. Ngoài ra có lượng lipid đáng kể, trước đây (1856) người
ta tưởng tượng lipid đáng kể này là Lơxitin, lượng Lơxitin đó giúp cho tế bào có
khả năng thích nghi, thích ứng. Đến năm 1952 lượng lipid đáng kể này được tác
giả Bowguth khẳng định không phải là Lơxitin mà đó là Plasmalogen, chất này
không có khă năng "chống lạnh" của tế bào. Plasmalogen có khản năng bảo vệ
tế bào vì thế mà người ta bổ sung chất chống lạnh đó là lòng đỏ trứng gà.
Ở phần cổ thân là kho chưa ATP, ATP chính là năng lượng được thu nhận
qua quá trình trao đổi chất của tế bào và kho cung cấp năng lượng cho tế bào
sống.
* Đuôi
Chia làm 3 đoạn: trung đoạn, đuôi chính và đuôi phụ.
+ Trung đoạn nối giữa thân với đuôi. Về cấu trúc cơ thể ở đuôi có công
thức 2+9+9, nhưng có điểm khác là sợi trung tâm và các sợi vành trong với vành
ngoài có sự liên hệ với nhau giống lip xe và bánh xe đạp gọi là mối liên hệ "nan
hoa", giữa các sợi trung tâm với nhau cũng có mối liên hệ "bắt tay", có tác dụng
thông tin giữa các sợi trên cùng một chức năng với nhau, làm cho cấu trúc vi thể
đuôi tế bào khăng khít, quan sát kính hiển vi thấy rối lên như một màng nhện.
+ Ở đuôi chính cũng có chưá ATP nhưng với một lượng ít hơn ở thân,
nguyên sinh chất với số lượng ít có một số men chủ yếu là men giúp cho qúa
trình fotforin hóa.
+ Phần đuôi phụ của tế bào không được bao phủ bởi lớp màng chung của tế
bào cho nên đó chính là các mái chèo giúp cho tế bào hoạt động.
* Chức năng chính của đuôi:
Đuôi có chức năng duy nhất là chịu trách nhiệm về sự vân động của tế bào.
Đối với tế bào sinh dục đực sống được là nhờ trao đổi chất, thể hiện của sự
13
sống là vận động, mà vận động thì phải cần trao đổi chất nhờ năng lượng, như
vậy càng vận động thì trao đổi chất càng tăng lên, tất cả những hiện tượng này
làm cho tế bào mau chết bởi vì cạn kiệt năng lượng và nhiều độc tố.
Trao đổi chât trực tiếp sử dụng năng lượng tích lũy dưới dạng ATP của cổ,
thân, đuôi. Nó lấy bằng cách nhờ phần protein sợi đuôi (có hai loại: spartine và
spermiogine). Nhờ các thành phần protein sợi đuôi này mà ATP được dự trữ ở
phần cổ thân nhờ spermiogine và APTaza giải phóng ra ADP + E1, sau đó ADP
với sự có mặt của ADPaza giải phóng ra AMP + E2. 2 năng lượng trên được
protid sợi đuôi thứ 2 là spartine rải đều năng lượng khắp sợi đuôi làm sợi đuôi
co rút gây nên sự chuyển động của tế bào.
2.1.1.2. Đặc điểm sinh lý tinh trùng
a. Đặc điểm vận động
Tế bào vận động nhờ đuôi, đuôi rung động sẽ làm cho tinh trùng vận động.
Bản thân đuôi có khả năng chuyên động chủ động nên khi dòng điện chạy dọc
theo tế bào thì cuối đuôi xẽ xòe như mái chèo dẫn đến vận động. Tế bào sinh
dục đực vận động phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Cấu trúc đuôi hoàn thiện hay không hoàn thiện.
- Năng lượng vận động đủ, nhiều.
- Môi trường sống bên ngoài của tế bào, áp suất thẩm thấu, nhiệt độ làm
cho mức độ, cường độ vận động thay đổi và thông qua đấy người ta có thể đánh
giá được chất lượng của tế bào. Có thể phân chia ra 3 mức độ vận động:
+ Vận động tiến thẳng: bao gồm các tế bào tốt nhất, gồm những tế bào có
phương thức hoạt động mà ở đó mức độ vận động mãnh liệt, vectơ vận động
không thay đổi mà nó chỉ tiến lên phía trước mà thôi. Dưới góc độ sinh sản thì tế
bào tiến thẳng mới có khả năng thụ tinh. Để đánh giá chất lượng tế bào sinh dục
đực thì người ta đánh giá tỉ lệ % số lượng tế bào của phương thức tiến thẳng.
+ Vận động xoay vòng: Gồm có các tế bào có cường độ vận động mạnh khi
chuyển động thì vectơ chuyển động luôn thay đổi, sức sống tót nhưng tốc độ
sinh sản không tốt nên ít có khả năng thụ tinh.
+ Vận động lắc lư: là loại tế bào đứng một chỗ nhưng vẫn sống, chúng
không có vơ chuyển động, không có khả năng thụ tinh.
b. Đặc điểm về trao đổi chất của tế bào
Tinh trùng muốn sống thì phải trao đổi chất và trao đổi chất xảy ra theo
nhiều yếu tố hoặc là kìm hãm hoặc làm tăng quá trình trao đổi chất dẫn đến có
nhiều quá trình trao đổi chất khác nhau.
Có hai quá trình trao đổi chất cơ bản sau:
* Quá trình hô hấp yếm khí
Là quá trình trao đổi chất có thể xảy ra ở trên tất cả các đường nhưng mà
các loại đường này đều phải chuyển hóa và quá trình này xảy ra hết sức phức tạp
tạo thành đường fructoza và đường này mới sử dụng hết trong quá trình trao đổi
chất. Yếu tố quan trọng nhất là không có Oxy thì đường fructoz tiến hành trao
đổi chất tạo thành 2 axit lactic và với năng lượng E1= 50 Kcal được dự trữ dưới
dạng ATP.
C6H12O6
2 C3H6O3 + E1
14
Axit lactic thải ra môi trường được xem là con dao 2 lưỡi. Nếu với nồng độ
thấp thì kéo dài thời gian sống của tinh trùng vì nó có tác dụng ức chế tinh trùng
hoạt động, nhưng với nồng độ cao sẽ gây chết cho tinh trùng hàng loạt.
Trong môi trường pha loãng người ta có thể bổ sung đường glucoza để
tham gia quá trình đường phân xảy ra trong điều kiện yếm khí với sự có mặt
của enzim glucophotphataza và hecxokinaza.
* Quá trình hô hấp háo khí
Quá trình này cũng xảy ra trên đường fructoz và trong điều kiện có Oxy:
C6H12O6
CO2+ H2O + E2
Giai đoạn đầu của quá trình này là đường phân. Giai đoạn sau của quá trình
này axit pyruvic được hoạt hoá đi vào chu trình Kreb và phân giải triệt để, cuối
cùng cho ra CO2 và nước và năng lượng lớn gấp nhiều lần (670 Kcal) so với
dạng không có Oxy, năng lượng này được dự trữ dưới dạng ATP (38 ATP).
Nồng độ CO2 tăng lên thì ức chế sự hoạt động của tế bào. Lượng nước sinh
ra và thay đổi nhiệt độ, chất tan, áp suất thẩm thấu, đều giết được tinh trùng
trong một thời gian ngắn.
Muốn kéo dài thời gian sống của tế bào thì giữ trong môi trường không có
Oxy.
Trước khi phối tinh cho con cái thì cho tinh trùng tiếp xúc với không khí.
c. Các đặc điểm khác
- Đặc tính chuyển động tới trước
Tinh trùng sống thì luôn luôn chuyển động. Tinh trùng chuyển động nhờ cổ
hay thân và đuôi để chuyển động quanh trục.
Đuôi ngoằn ngoèo uốn khúc chuyển động gây ra một xung động để tự tiến
tới trước.
Ngoài ra, tinh trùng có đầu giống như quả lê nên tự nó chuyển động xung
quanh cái trục của thân nó. Sự rung động của đuôi kết hợp với sự xuay của trục
giữa làm cho tinh trùng vận động tiến thẳng tới trước.
Tốc độ di chuyển của tinh trùng thẳng tới trước còn phụ thuộc vào các điều
kiện nội tại và ngoại cảnh và nội tại như niêm dịch ở đường sinh dục gia súc cái
tiết ra nhiều hay ít, phương thức phóng tinh của con đực, độ co bóp bộ phận bên
trong con cái mà chủ yếu là sừng tử cung, ống dẫn trứng, mà tinh trùng di
chuyển nhanh hay chậm.
- Đặc tính lội ngược dòng nước
Tinh trùng chuyển động được nhờ đuôi lái. Do đó, nó có thể vận động
ngược dòng nước và cũng có xu hướng lội ngược dòng nước.
Thí dụ: Nhỏ một giọt tinh dịch lên phiến kính, nghiêng phiến kính để một
bên cao bên thấp, sẽ thấy tinh trùng chạy lên phía cao, ngược với trọng lực của
giọt tinh dich.
Nhờ đặc tính này, khi tinh trùng vào âm đạo gia súc cái, gặp dịch nhờn từ
đường sinh dục tiết ra, tinh trùng có khả năng bơi lội ngược dòng, và nhờ lông
nhung ở cổ tử cung và ống dẫn trứng làm cho tinh trùng tiến thẳng vào trong 1/3
phía trên ống dẫn trứng để gặp tế bào trứng, tiến hành quá trình thụ thai.
- Đặc tính tiếp xúc
15
Đối với một vật lạ (hạt bụi, rác bọt khí...) tinh trùng có đặc tính bao vây
xung quanh vật lạ ấy. Do đó tinh trùng vào đến ống dẫn trứng và tìm nơi lõm
của tế bào trứng để đi vào.
Thí nghiệm: Lấy một tế bào trứng của lợn động đực đặt vào kính hiển vi
quan sát, cho một ít tinh dịch lợn vào, thấy hiện tượng tinh trùng bao vây lấy tế
bào trứng và đang phá màng phóng xạ để đi vào, có con vào được. Chính nhờ
đặc tính này mà có hiện tượng thụ thai.
- Đặc tính tiếp xúc với hóa chất
Trong ống dẫn trứng có tiết ra chất hóa học, kích thích tinh trùng gây tinh
trùng hưng phấn, làm tinh trùng tập trung lại và tiến đến tế bào trứng. Chất hóa
học này gọi là Firtilzin.
- Đặc tính tiếp xúc với điện
Trong ống dẫn trứng hay tử cung có một điện thế mà bản thân tinh trùng
cũng mang điện, nên chúng có điện thế, đặc tính của dòng điện này chạy từ cao
đến thấp (từ điện thế cao đến điện thế thấp). Cho nên làm tinh trùng lội có
phương hướng nhất định.
Thí nghiệm: Cho dòng điện 3,55 V vào tinh dịch thì thấy tinh trùng hoạt
động rất mạnh.
Biết được 5 đặc tính trên của tinh trùng nên trong việc bảo quản tinh trùng,
pha chế tinh dịch cần phải chú ý.
2.1.2. Tinh thanh
Tinh thanh là chất tiết của các tuyến sinh dục phụ, phụ hòan và ống dẫn
tinh. Nhưng sự đóng góp của các tuyến này vào trong tinh thanh là không giống
nhau và nó phụ thuộc vào loài động vật.Ví dụ: Trong tinh dịch bò đực, lượng
dịch tiết do tuyến tinh nang tiết ra chiếm 40% thể tích của tinh thanh, trong khi
đó, ở lợn, lượng tinh thanh do hai tuyến tiền liệt và cowper tiết ra chiếm từ 5570%.
2.2. Kiểm tra phẩm chất tinh trùng
Kiểm tra phẩm chất tinh dịch gia súc có tầm quan trọng trong việc sử dụng
đực giống. Nhiều con đực có ngoại hình đẹp nhưng không có khả năng sinh sản
hoặc sinh sản kém (vô sinh, thụ thai thấp, gây sẩy thai hoặc quái thai...). Có
những trường hợp trong tinh dịch không có tinh trùng hoặc tinh trùng kỳ hình,
loãng, có mang mầm bệnh truyền nhiễm (xoắn trùng, sẩy thai truyền nhiễm...).
Vì vậy, cần thông qua việc đánh giá chất lượng tinh dịch để có biện pháp
can thiệp hoặc xử lý đốivới con đực, nhất là những đực giống dùng trong thụ
tinh nhân tạo.
Ví dụ:
Tinh dịch kém quá: bỏ đi, tìm nguyên nhân
Tình dịch bình thường: sản xuất tinh lỏng
Tinh dịch có phẩm chất tốt: sản xuất tinh đông lạnh
Từ chỉ tiêu VAC (tổng số tinh trùng tiến thẳng trong 1 lần xuất tinh) người
ta có thể sản xuất ra một lượng liều tinh lớn nhất mà vẫn đảm vảo sinh sản cho
con cái và thu được hiệu quả kinh tế-kỹ thuật cao nhất.
n = VAC/N
16
Trong đó: n- số liều tinh sản xuất; N-số tinh trùng cần có trong liều phối
để có tỷ lệ thụ thai tốt.
2.2.1. Nguyên tắc kiểm tra
Nghiêm túc, chính xác, trung thực.
Dụng cụ, thiết bị kiểm tra tốt, sạch sẽ, vô trùng.
2.2.2. Phương pháp kiểm tra
2.2.2.1. Kiểm tra bằng mắt
Thể tích tinh dịch (V, volume)
* Khái niệm:Thể tích tinh dịch (lượng xuất tinh) là lượng tinh dịch trong
một lần xuất tinh sau khi đã lọc bỏ keo phèn. Đây là chỉ tiêu quan trọng vì nó
cấu thành nên chỉ tiêu tổng hợp VAC.
Riêng đối với tinh dịch lợn, ngựa có một lượng khá nhiều chất keo phèn
hay còn gọi keo nhầy (chiếm 5-25%) thể tích tinh dịch nguyên chưa lọc. Chất
này có nguồn gốc từ chất phân tiết của tuyến Cowper, khi gặp men Vedicunaza
(từ tuyến tinh) sẽ đông đặc lại thành dạng hạt có đặc tính hấp phụ nước trong
tinh dịch và trương phồng lên nhanh chóng (kèm theo đó keo nhầy cũng hấp phụ
cả luôn tinh trùng). Vì vậy, sau khi lấy tinh xong cần lọc bỏ ngay chất keo phèn
này, nếu không chỉ cần sau 30 phút đến 1 giờ, lượng tinh dịch sẽ giảm còn
khoảng 50% và nồng độtinh trùng còn khoảng 30%.
Khi xác định lượng xuất tinh chúng ta chia làm hai trường hợp:
- Đối với lợn, ngựa: ta có thể dùng cốc có chia độ (hoặc ống đong) để xác
định, khi đã lọc bỏ keo phèn.
- Đối với trâu, bò, dê, cừu: chúng ta có thể xác định ngay tinh thanh trong
lọ hứng tinh nếu lọ hứng tinh có vạch chia độ.
Chú ý: khi đọc kết quả cần đặt lọ đựng tinh trên một mặt phẳng nằm ngang
và đọc kết quả ở vạch cong dưới của mặt tinh dịch để xác định lượng xuất tinh.
a. Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng xuất tinh
- Loài gia súc
Các loài gia súc khác nhau thì có thể tích tinh dịch khác nhau.
Lượng tinh dịch phụ thuộc vào mức độ phát dục khác nhau của các tuyến
sinh dục phụ. Ở lợn và ngựa tuyến sinh dục phát triển hơn nên thể tích tinh dịch
của nó nhiều hơn và ngược lại ở trâu, bò, cừu thì ít hơn. Chính vì vậy, thể tích
tinh dịch thường tỉ lệ nghịch với nồng độ tinh trùng.
Loài g.s Bò Cừu Dê
Lợn
Ngựa Chó Thỏ
V (ml) 2-10 0.5-2 0.5-2.5 150-500 20-300 2-15 0.4-6
- Giống gia súc
Các giống gia súc khác nhau thì cũng cho thể tích tinh dịch khác nhau.
- Tuổi của gia súc
Thể tích của tinh dịch thường tăng theo lứa tuổi của gia súc. Yếu tố này
được biểu hiện rất rõ ở lợn, ở lợn hậu bị chúng ta thường thấy lượng tinh dịch ít
hơn só với lợn trưởng thành đặc biệt là lợn già. Tuy nhiên nó cũng chỉ tăng đến
một mức độ nào đó rồi giảm.
Ở lợn ngoại: 12 tháng tuổi có V = 100-150ml
24 tháng tuổi có V = 200-300ml
17
36 tháng tuổi có V = 250-350ml
- Cá thể gia súc
Ngay trong cùng một giống, cùng một lứa tuổi nhưng từng cá thể khác
nhau thì cũng cho lượng xuất tinh khác nhau (nếu trong một điều kiện sống như
nhau thì do tình trạng sức khỏe, sinh lý của mỗi cá thể khác nhau).
- Kỹ thuật lấy tinh
Khi lấy tinh nếu điều kiện cần và đủ cho gia súc xuất tinh đảm bảo, gia súc
xuất tinh thoải mái thì tinh dịch sẽ thu được nhiều và ngược lại.
Khi theo dõi về khoảng cách lấy tinh lợn, kết quả thu được như sau:
+ 4-5 ngày lấy tinh một lần: V = 150-200ml
+ 2-3 ngày lấy tinh một lần: V = 60-100ml
+ Hằng ngày lấy tinh: V = 50-60ml
+ 1 ngày lấy tinh 2 lần: V = 20-50ml
Trong khi thụ tinh, nếu có những tác nhân kích thích khác thường, đều làm
giảm hoặc không có lượng xuất tinh. Ví du: khi lấy tinh lợn bằng âm đạo giả mà
nước quá nóng (ôn độ trong lòng âm đạo giả trên 450C) hoặc quá nguội (dưới
350C), áp lực trong lòng âm đạo giả quá cao hoặc quá thấp... Hoặc khi lấy tinh
bằng tay nếu cầm nắm chắc dương vật quá chặt hoặc quá lỏng lẻo... cũng ảnh
hưởng đến qúa trình xuất tinh của lợn.
- Thời tiết, mùa vụ
Điều kiện thời tiết khí hậu và mùa vụ cũng ảnh hưởng đến thể tích tinh
dịch. Trong điều kiện Việt nam, chúng ta thấy vào vụ đông xuân thì lượng tinh
dịch thường cao hơn vụ hè thu.
- Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
Đây là yếu tốrất quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến lượng tinh dịch. Vì
vậy trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng ta cần chú ý đến các chế độ ăn uống,
vận động, tắm chải...
Màu sắc tinh dịch
Màu sắc tinh dịch quyết định bởi nồng độcủa tinh trùng và các hạt lipoit có
trong tinh dịch. Xác định được màu của tinh dịch ta có thểsơbộbiết được phẩm
chất của tinh dịch, màu sắc càng đậm thì nồng độtinh trùng càng cao.
Màu bình thường
Màu sắc của tinh dịch tùy thuộc vào từng loại gia súc.
Loài gia súc Màu của tinh dịch
Ngựa Trắng xám
Bò Kem sữa
Cừu Kem
Lợn Trắng xám
Chó Trắng xám
Màu khác thường
+ Màu đỏ có thể là do lẫn máu (khi ta lấy tinh làm dương vật bị xây xát).
Vì vậy khi khai thác tinh dịch đặc biệt là trong trường hợp lấy tinh bằng tay
không để dương vật gia súc cọ xát vào giá lây tinh làm xây xát dương vật.
+ Màu xanh lam thường do lẫn mủ, nó thường xảy ra trong các trường hợp
18
gia súc bị viêm nhiễm đường sinh dục.
+ Màu vàng thường do lẫn nước tiểu. Để khắc phục trong trường hợp này
cần chú ý khi lấy tinh tránh hứng cả nước tiểu vào trong tinh dịch.
+ Màu đen thường do lẫn phân hoặc các chất bẩn.
Chúng ta chỉ được phép sử dụng những mẫu tinh có màu bình thường, còn
tất cả các mẫu tinh có màu khác thường thì không được sử dụng.
Độ vẩn của tinh dịch
Ta có thể dùng chỉ tiêu này đánh giá sơ bộ mức độ hoạt động, mật độ, nồng
độ của tinh trùng có trong tinh dịch và đây là chỉ tiêu quan sát bằng mắt thường
và kiểm tra thường xuyên. Người ta cầm lọ tinh dịch và quan sát từ thành bình
bên này quan thành bên kia. Người ta đánh giá độ vẩn theo 3 mức:
+ Khi tinh dịch có độ vẩn ở mức kém nhất, nồng độ, hoạt lực kém nhất (Ta
ghi nhận độ đậm đặc của mẫu tinh đó là +): người ta thấy từ thành bình này sang
thành bình bên kia, không nhìn thấy sự chuyển động trong đó. Độ đậm đặc này
thường gặp ở lợn nội và chó.
+ Khi tinh dịch có độ đậm đặc trung bình thì quan sát không thấy thành
bình bên kia, không nhìn thấy sự chuyển động trong đó, ta ghi nhận độ đậm đặc
của mẫu tinh là ++. Độ đậm đặc này thường gặp ở lợn ngoại.
+ Khi tinh dịch đậm đặc (nồng độ, mức độ, hoạt lực tốt nhất) thì khi quan
sát không thấy thành bình bên kia và trong đó có những cuộn sóng chuyển động.
Độ đậm đặc này thường gặp ở tinh dịch trâu, bò, dê, cừu và một số trường hợp
của lợn ngoại.
Mùi của tinh dịch
- Mùi bình thường: Bình thường tinh dịch có mùi nồng, hắc, tanh. Mùi của
tinh dịch chủ yếu là do chất tiết của các tuyến sinh dục phụ quyết định.
- Mùi khác thường
+ Mùi khai do có lẫn nước tiểu.
+ Mùi thối do lẫn phân.
* Chú ý: Chúng ta chỉ được sử dụng những mẫu tinh có mùi bình thường.
Độ pH của tinh dịch
pH của một chất lỏng được xác định bằng nồng độ ion H+ có trong đó. Số
lượng ion H+ càng tăng thì chất lỏng đó càng toan và ngược lại thì kiềm tính.
Tinh dịch bình thường phải có pH bình thường, nếu pH quá cao hoặc quá thấp
đều ảnh hưởng đến chất lượng của tinh dịch.
Loài g. súc Bò
Cừu
Lợn Ngựa
Chó
Thỏ
pH
6.4 - 6.9 5.9 - 6.3 6.8 - 7.9 6.2 - 7.8 6.1 - 7.0 6.6 - 7.5
Để xác định pH của tinh dịch ta có nhiều phương pháp khác nhau.
* Phương pháp xác định pH bằng pH meter.
Đưa cực của máy đo pH vào dung dịch chuẩn và điều chỉnh kim đồng hồ để
pH chỉ đúng pH của dung dịch chuẩn. Lấy cực của máy ra khỏi dung dịch
chuẩn, rửa sạch bằng nước cất. Sau đó nhúng cực của máy vào cốc tinh dịch,
máy sẽ báo pH của tinh dịch trên đồng hồ.
* Phương pháp dùng giấy chỉ thị màu hoặc hệ thống ống màu.
Chuẩn bị giấy chỉ thị sau đó dùng đũa thủy tinh nhỏ một giọt tinh nguyên
19
lên giấy chỉ thị màu, màu của giấy chỉ thị sẽ thay đổi, ta so sánh với màu chuẩn
trên cuộn giấy chỉ thị ta sẽ có kết quả (chú ý kết quả chỉ đọc trong vòng 2-3 giây
nếu để lâu, kết quả sẽ không chính xác).
* Dùng pH kế.
Nhúng đầu pH kế vào nước và đọc kết quả.
Sức hoạt động của tinh trùng (A, active)
a. Khái niệm
Sức hoạt động của tinh trùng là tỷ lệ % tinh trùng có hoạt động tiến thẳng so
với tổng số tinh trùng có trong vi trường quan sát được. Việc đánh giá sức hoạt
động của tinh trùng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá phẩm chất tinh
dịch vì nó là chỉ tiêu cấu thành nên chỉ tiêu tổng hợp VAC mà chỉ tiêu này cho
biết tổng số tinh trùng có khả năng thụ thai trong một lần xuất tinh gia súc.
b. Phương pháp đánh giá
Ngày nay có nhiều phương pháp đánh giá sức hoạt động của tinh trùng. Các
nước có điều kiện người ta sử dụng hệ thống máy tính để kiểm tra, phương pháp
này rõ ràng và chính xác. Trong điều kiện Việt nam chúng ta thì đánh giá sức
hoạt động của tinh trùng bằng cách quan sát qua kính hiển vi có độ phóng đại từ
200-600 lần. Việc đánh giá được cho điểm theo thang 10 điểm của Milavanov
V. K như sau:
Bảng 12.Thang điểm đánh giá sức hoạt động của tinh trùng
Điểm
1.0
0.9 0.8 0.7
0.6 0.5 0.4 0.3 0.2 0.1
Số% t.t
t. thẳng 95-100 85-95 75-85 65-75 55-65 45-55 35-45 25-15 15-25 5-15
* Phương pháp tiến hành như sau:
Dùng đũa thủy tinh sạch, lấy một giọt tinh nhỏ lên một phiến kính sạch,
dùng la men khô sạch đậy lên giọt tinh sao cho giọt tinh dàn mỏng, đều. Đặt tiêu
bản lên kính hiển vi và xem ở độ phóng đại 160-600 lần. Trong khi kiểm tra,
tiêu bản được sưởi ấm ở nhiệt độ 40-410C (ta có thể dùng máy ổn nhiệt để nâng
nhiệt độ). Khi đưa tiêu bản lên kính ta quan sát tại ba điểm trên một vi trường,
mỗi điểm ta quan sát và đếm 10 tinh trùng xem có bao nhiêu tinh trùng tiến
thẳng và tính theo tỉ lệ %. Kết quả tại ba điểm cộng lại và chia trung bình thì đó
là kết quả của sức hoạt động của tinh trùng.
* Chú ý:
- Tinh trùng cần phải kiểm tra sức hoạt động ngay sau khi lấy ra khỏi cơ thể
gia súc hoặc ngay sau khi lấy ra khỏi nơi bảo tồn.
- Khi kiểm tra phải ởnhiệt độ40-410C.
- Độchênh lệch cho phép là 0.1 giữa các lần kiểm tra.
- Sức hoạt động của tinh trùng một sốloài gia súc sau khi khai thác xong
phải đạt: dê, cừu A ≥0.9, trâu bò A ≥0.8, lợn A ≥0.7 chúng ta mới sửdụng tinh
dịch đo trong thụtinh nhân tạo.
Nồng độ tinh trùng (C)
a. Khái niệm
Nồng độ tinh trùng là tổng số tinh trùng có trong 1 ml tinh nguyên. Đây là
chỉ tiêu quan trọng vì nó là một trong những chỉ tiêu cấu thành nên chỉ tiêu tổng
20
- Xem thêm -