Lời nói đầu
Giáo trình “Lí luận dạy học Tin học ở trường phổ thông”
được biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết đào tạo Cử nhân sư
phạm ngành Tin học của Trường ĐHSP Vinh. Học phần “Lí luận
dạy học Tin học ở trường phổ thông” là học phần đầu tiên trong
mảng các môn học về nghiệp vụ dạy học môn Tin học. Nó có
nhiệm vụ trang bị cho sinh viên những cơ sở lí luận về quá trình
dạy học Tin học, về phương pháp dạy học Tin học và về tổ chức
quá trình dạy học Tin học.
Giáo trình gồm 5 chương:
Chương 1: Đại cương về lý luận dạy học Tin học
Chương 2: Mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn Tin học ở
trường phổ thông
Chương 3: Phương pháp dạy học Tin học ở trường phổ thông
Chương 4: Tổ chức dạy học Tin học
Chương 5: Một số xu hướng cải tiến dạy học vận dụng vào
môn Tin
Giáo trình có thể làm tài liệu học tập cho sinh viên sư phạm
chuyên ngành Tin học và tài liệu tham khaỏ cho giáo viên Tin học ở
trường phổ thông.
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã nhận được sự cổ vũ và
sự đóng góp về nội dung, cách trình bày của các đồng nghiệp trong
khoa, đồng thời đã tham khảo, rút trích nhiều tư liệu của các nhà
giáo lão thành. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo về
những đóng góp quý báu để giáo trình được hoàn thành.
Mặc dầu đã thể hiện được phần nào sự cân nhắc trong quá
trình biên soạn, nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tác giả
1
mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp thêm để chỉnh lí, bổ
sung, hoàn thiện giáo trình này.
Vinh, tháng 8 năm 2000
Tác giả
Chương 1
đại cương về lý luận dạy học tin học
1.1 Đối tượng và nhiệm vụ của lí luận dạy học Tin học ở
trường phổ thông
Cho đến nay người ta cho rằng khoa học giáo dục bao gồm
các lĩnh vực chính sau đây: Tâm lí học (chủ yếu là tâm lí học nhận
thức, tâm lí học sư phạm), lí luận giáo dục, lí luận dạy học đại
cương và lí luận dạy học các bộ môn. Do đó lí luận dạy học Tin
học được coi như là một bộ phận của khoa học giáo dục. Và theo
quan điểm đó thì lí luận dạy học Tin học cũng như lí luận dạy học
các môn học khác lấy tri thức về tâm lí học, về lí luận giáo dục và
về lí luận dạy học đại cương làm nền tảng. Tuy nhiên, lí luận dạy
học Tin học còn phải dựa vào nội dung và phương pháp nghiên cứu
của bộ môn Tin học. Từ cơ sở này làm nảy sinh tính đặc thù của lí
luận dạy học Tin học so với lí luận dạy học các môn khác.
1.1.1 Đối tượng
Lí luận dạy học bộ môn nào đó là sự vận dụng lí luận dạy học
đại cương vào bộ môn ấy. Do đó đối tượng của lí luận dạy học bộ
môn là nghiên cứu những điều kiện mà trong đó những kiến thức
của môn học đó được xây dựng và nghiên cứu đặc trưng cho
những hoạt động giảng dạy các kiến thức đó. Tức là nghiên cứu
2
những điều kiện trong đó xuất hiện những biểu hiện đặc thù của
một tri thức cụ thể nào đó, nhằm kiểm soát nó, mô tả nó, tái tạo nó
trong mối quan hệ giữa các hoạt động của thầy và trò, giúp trò nắm
được tri thức, chuyển tri thức đó thành tri thức của mình.
Với tư cách là một bộ phận của khoa học giáo dục, lí luận dạy
học Tin học có đối tượng nghiên cứu của mình. Đó là những đặc
trưng, những quy luật của quá trình dạy và học Tin học ở nhà
trường phổ thông. Một cách bao quát, đối tượng của lí luận dạy
học Tin học là lí thuyết biên soạn nội dung chương trình, sách giáo
khoa và tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo cho việc dạy và học
bộ môn Tin học; là nhiệm vụ mà nền giáo dục nói chung, nhà
trường nói riêng giao phó cho môn Tin học và phương pháp để
thực hiện chúng thông qua hoạt động dạy học cũng như những
hình thức tổ chức quá trình dạy học Tin học ở trường phổ thông.
Cũng như quá trình dạy học các môn học khác, quá trình dạy
học môn Tin học có hai loại nhân vật: thầy và trò, trong đó thầy
giữ vai trò chủ đạo, còn trò giữ vai trò chủ động. Từ hai loại nhân
vật này nảy sinh nhiều mối quan hệ: quan hệ giữa thầy với cá nhân
trò, giữa thầy với tập thể trò, giữa cá nhân trò với cá nhân trò.
Quá trình dạy học bao gồm việc dạy và việc học mà đối tượng
của việc học là nội dung bộ môn. Có thể biểu diễn mối quan hệ
giữa các yếu tố của quá trình dạy học như sau:
Thầy giáo
Học sinh
3
nội dung
môn học
Các thành tố: Thầy giáo, học trò, nội dung môn học và những
mối liên hệ giữa chúng đều được đặt trong điều kiện của môi
trường tổ chức dạy học, môi trường nhà trường. Thầy giáo có
phương tiện dạy học và phương pháp dạy học của mình, Từ đó thầy
giáo tìm kiếm mô hình phù hợp nhất để chuyển nội dung môn học
cho học sinh. Học sinh, với những quan niệm, với những tri thức
kinh nghiệm của mình về lĩnh vực mà môn học đề cập tới và với
những điều kiện học tập cụ thể mà chiếm lĩnh các vấn đề được
truyền thụ, biến chúng thành tri thức của mình. Nội dung môn học
được quy định trong chương trình bộ môn. Có thể coi đây là một
mô hình tĩnh về quá trình dạy học, song chưa diễn tả được chi tiết
sự hoạt động của các thành tố trong quá trình đó.
Để diễn tả một cách đầy đủ các mặt hoạt động diễn ra trong
quá trình dạy học cần phải tính đến cả sự tương tác giữa các mặt:
Mục đích, nội dung và phương pháp dạy học, đây chính là mô hình
động của quá trình dạy học.. Mục đích dạy học là kiểu nhân cách
mà xã hội đòi hỏi. Nội dung môn học trong trường hợp này là môn
Tin học. Phương pháp giảng dạy là cách thức hoạt động và ứng xử
của thầy để gây nên những hoạt động của trò nhằm đạt được mục
đích dạy học. Các thành phần cơ bản này tác động lẫn nhau, trong
đó mục đích giữ vai trò chủ đạo. Nói mục đích giữ vai trò chủ đạo
không có nghĩa là các thành phần khác hoàn toàn thụ động, thật ra
mối liên hệ giữa chúng rất biện chứng. Trong điều kiện nào đó
phương pháp dạy học có thể có tác động tích cực trở lại mục đích
4
và nội dung dạy học. Các mặt này không những tương tác lẫn nhau
mà còn quy định sự vận động của quá trình dạy học.
Ngoài ba thành phần cơ bản là mục đích, nội dung và phương
pháp, càng ngày, người ta càng chú ý tới một thành phần khác nữa
là điều kiện dạy và học. Đó là điều kiện về phương tiện dạy học,
các điều kiện về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế,..Đặc biệt với
môn Tin học, môn học gắn liền với máy tính điện tử và các điều
kiện liên quan tới máy tính điện tử, việc dạy học không thể có hiệu
quả cao khi điều kiện này không đạt yêu cầu.
1.1.2 Nhiệm vụ
Tư mục tiêu chung của hoạt động dạy học trong nhà trường, từ
việc xác định mục đích dạy học môn Tin học và từ sự phân tích quá
trình dạy học ta thấy nhiệm vụ tổng quát của ngành khoa học
phương pháp dạy học Tin học (lí luận dạy học Tin học) là nghiên
cứu những mối liên hệ có tính quy luật giữa các thành tố của quá
trình dạy học môn Tin, chủ yếu là giữa mục đích, nội dung và
phương pháp dạy học, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học
môn Tin học theo các mục đích đã đề ra.
+ Xác định mục đích môn Tin học: Để xác định rõ mục đích
môn Tin học, lí luận dạy học Tin học cần phải chỉ rõ:
Cần trang bị cho học sinh những tri thức Tin học nào làm cơ
sở để các em sẵn sàng tiếp nhận những tri thức mới về công nghệ
thông tin của thời đại và đáp ứng được yều cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Yêu cầu, nhiệm vụ của môn Tin học cho từng cấp học, từng
loại trường.
5
+ Xác định nội dung môn Tin học: Cần phải giải đáp câu hỏi:
“Dạy học những gì trong khoa học Tin học ở nhà trường phổ
thông”.
Từ mục đích của môn học các nhà sư phạm Tin học cần căn
cứ vào điều kiện thực tiễn của nước nhà để soạn thảo chương trình
bộ môn Tin học. Đó là một cấu trúc của hệ thống các tri thức Tin
học mà ta phải truyền thụ cho học sinh ở nhà trường phổ thông.
Những tri thức nào cần được đưa vào cấp học nào, loại trường
nào? Việc chọn lọc trong kho tàng khoa học Tin học những tri thức
cần dạy cho học sinh được quy định bởi yêu cầu của xã hội. Yêu
cầu này ngày càng cao nên thường nội dung chương trình Tin học
phổ thông phải càng ngày càng cao. Mặt khác trong điều kiện công
nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, Tin học trong nhà trường
phổ thông cần được cập nhật như thế nào để vừa không quá tải cho
học sinh mà vẫn giúp các em bắt kịp với thời đại. Hoạt động xay
dựng chương trình và soạn thảo sách giáo khoa để dạy trong nhà
trường thường do những cơ quan nghiên cứu và chỉ đạo quốc gia và
các chuyên gia sư phạm Tin học đảm nhận.
+ Nghiên cứu phương pháp dạy học trong môn Tin học:
Khi đã xác định được “dạy và học” cái gì thì hoạt động “dạy
và học như thế nào” là rất quan trọng. Bởi vì với giả định rằng, học
sinh có vốn kiến thức như chương trình bắt buộc mà không có
phương pháp xây dựng kiến thức thì họ vẫn chưa đủ để tự lực và
sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Do đó việc tìm kiếm phương
tiện dạy học và cách thức tổ chức quá trình dạy và học là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của lí luận dạy học Tin học ..
Nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học Tin học cũng là
nhiệm vụ quan trọng. Có thể coi hình thức tổ chức dạy học Tin học
6
theo lớp -bài đang là hình thức được các nhà sư phạm Tin học sử
dụng, tuy nhiên trong quá trình dạy học Tin học cần phải sau nghĩ
đến
- Dạy học cho từng nội dung trong chương trình như thế nào?
- Làm thế nào để dạy cho học sinh tự học?
- Xây dựng và sử dụng phòng học môn Tin học như thế nào?
- Hình thức sử dụng máy tính điện tử trong dạy học Tin học
như thế nào?
- Phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi Tin như thế nào
- Giúp đỡ học sinh kém môn Tin như thế nào
- Có thể sử dụng các hình thức ngoại khoá, dạy học phân hoá
không?
Ngoài ra do nhu cầu thực tiễn và do điều kiện kinh tế, kỹ thuật
phát triển, đã và đang xuất hiện những hình thức khác của dạy học
Tin học như dạy học từ xa, dạy học qua phát thanh truyền hình, dạy
học qua Internet,...Những hình thức dạy học Tin học này cũng sẽ là
đối tượng nghiên cứu của lí luận dạy học Tin học.
Lí luận dạy học Tin học đang còn là ngành khoa học non trẻ,
đang dần được đổi mới hoàn thiện. Vận dụng sáng tạo những thành
tựu của khoa học giáo dục nói chung vào tực tiễn dạy học Tin học
là nhiệm vụ của mỗi một giáo viên. Và qua thực tiễn phong phú
không ngừng bổ sung, đổi mới để hoàn thiện lí luận, phát triển lí
luận là hoạt động mang ý nghĩa khoa học và ý nghĩa cách mạng của
các nhá sư phạm Tin học.
1.2 Những cơ sở của lí luận dạy học Tin học
7
1.2.1 Cở sở Triết học
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức có sự điều khiển.
Do đó việc tổ chức hoạt độngnhận thức trong quá trình dạy học học
phải dựa trên cơ sở của lí luận nhận thức mà Triết học đã xây dựng
nên. Một trong những thành tựu quan trọng của triết học về nhận
thức đã được nêu lên thành quy luậtQ: “từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn” mà
Lê nin đã tổng kết. Từ đó, vận dụng vào quá trình dạy học để xây
dựng nên những nguyên tắc cơ bản mà chúng ta phải tôn trọng.
Trong dạy học Tin học ta còn dựa vào thế giới quan và những
quy luật biện chứng, vì vậy những luận đề Triết học duy vật biện
chứng là cơ sở của khoa học Tin học cũng như của lí luận dạy học
Tin học. Nó cung cấp cho ta phương pháp nghiên cứu đúng dắn:
xem xét những hiện tượng giáo dục trong quá trình phát triển và
trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong sự mâu thuẫn thống
nhất, phát hiện những sự biến đổi số lơựng dẫn tới những biến đổi
chất lơựng v.v...
1.2.2 Cơ sở Tâm lí
Sản phẩm chính của Tâm lí học là những quy luật cơ bản của
hoạt động thần kinh cao cấp, là những quy luật của khoa học tư
duy, của lí thuyết nhận thức thế giới của con người, nhất là thế hệ
trẻ. Những quy luật này cũng là cơ sở để xây dựng những nguyên
tắc của quá trình dạy học. Phương pháp dạy học Tin học phải dựa
vào những thành tựu của Tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học trẻ em,
Tâm lí học phát triển và Tâm lí học học tập để xác định mục đích
yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học Tin học ở từng lớp, từng
cấp...
8
1.2.3 Cơ sở lí luận giáo dục và lí luận dạy học đại cương
Dạy học Tin học vừa có nhiệm vụ truyền thụ tri thức Tin học,
vừa có nhiệm vụ giáo dục đạo đức tư tưởng cho học sinh. Quá trình
dạy học môn Tin học là một bộ phận của quá trình giáo dục nói
chung, chịu sự chi phối của các quy luật giáo dục nói chung. Lí
luận dạy học Tin học cần phải vận dụng những thành tựu, những
kết quả nghiên cứu của Giáo dục học và lí luận dạy học đại cương ở
nước ta và trên thế giới, lấy đó làm cơ sở để vạch ra những hình
thức tổ chức nhận thức, những cách thức lựa chọn phương tiện và
phương pháp cho dạy học Tin học.
1.2.4 Cơ sở Tin học
Lí luận dạy học Tin học trở thành một lĩnh vực của khoa học
giáo dục, mang những đặc trưng riêng biệt so với lí luận dạy học
các môn học khác, khi nó dựa vào đặc trưng của khoa học Tin học.
Trước hết lí luận dạy học Tin học phải bám sát nội dung của Tin
học, phải phản ánh vào nhà trường những tri thức và phương pháp
phổ thông, cơ sở trong những thành tựu Tin học của nhân loại, sắp
xếp chúng thành một hệ thống đảm bảo tính khoa học, tính tư
tưởng, tính thực tiễn và tính sư phạm phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của đất nước, đáp ứng yêu cầu của cách mạng khoa học công
nghệ ngày nay.
1.2.5 Logic học
Tính logic là phải bắt buộc đối với mọi khoa học. Dựa vào
Logic học người ta trình bày những khái niệm một cách chính xác,
những lập luận một cách có căn cứ. Trong phương pháp dạy học
9
Tin học, điều đó lại càng cần thiết vì ngành này liên hệ với nhiều
khoa học được xây dựng chặt chẽ như Toán học, Vật lí học, Tin
học,v.v...
1.2.6 Cơ sở thực tiễn
Lí luận dạy học Tin học đang mới mẽ nhưng đứng trước một
thực tiễn phát triển nhanh chóng của khoa học Tin học trên thế giới,
một điều kiện kinh tế còn mới bắt đầu phát triển của đất nước. Việc
giảng dạy môn Tin học trong trường phổ thông còn gặp nhiều khó
khăn về chương trình, về trang thiết bị cho phòng học bộ môn, về
đội ngũ giáo viên Tin học. Đó chính là những cơ sở để các nhà quản
lí giáo dục, các chuyên gia sư phạm Tin học hoạch định những hình
thức tổ chức, lựa chọn phương pháp cho dạy học Tin học.
1.3 Nhiệm vụ của bộ môn Phương pháp giảng dạy Tin học
trong nhà trường sư phạm
Cũng như mọi lĩnh vực khoa học khác, lí luận dạy học Tin học
cần phải luôn luôn phát triển và ngày càng phát triển nhanh chóng
để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, trang bị không những cho giáo
viên Tin học ở các trường phổ thông mà còn truyền thụ tri thức và
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên chuyên ngành Tin học ở
các trường CĐSP hoặc ĐHSP. Vì vậy Bộ môn Phương pháp dạy
học Tin học trong trường sư phạm có các nhiệm vụ sau:
1.3.1 Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về dạy
học môn Tin học
10
Cần truyền thụ cho giáo sinh trước hết là các tri thức sau:
- Những hiểu biết đại cơưng về lí luận dạy học Tin học với tư
cách là một ngành khoa học và là một môn học trong nhà trường
sư phạm.
- Những tri thức cơ bản về mục đích, nội dung, các nguyên tắc
và phương pháp dạy học Tin học, nhất là giúp các em nắm vững
chương trình và sách giáo khoa Tin học ở nhà trường phổ thông.
- Những tri thức cụ thể về việc lập kế hoạch dạy học, thiết kế
và thi công từng bài học.
1.3.2 Rèn luyện những kĩ năng cơ bản về dạy học môn Tin
học cho sinh viên
Rèn luyện cho sinh viên những kĩ năng:
- Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo
viên và các sách tham khảo.
- Lập kế hoạch dạy học, soạn giáo án cho từng tiết dạy
- Tiến hành một tiết dạy, khả năng bao quát, điều khiển của
giáo viên trong từng tiết dạy
- Kĩ năng dạy học thực hành Tin học
- Tiến hành các hoạt động ngoại khoá Tin học, bồi dưỡng học
sinh giỏi, giúp đỡ học sinh yếu kém.
- Tìm hiểu đối tượng học sinh, những lớp, cấp mà mình sẽ
giảng dạy
- Thực hành công tác chủ nhiệm, công tác đoàn thể,.. hỗ trợ
cho công tác giảng dạy.
11
1.3.3 Bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức
cho người giáo viên Tin học.
Thông qua dạy học phương pháp dạy học Tin học, cần làm cho
sinh viên thấy rõ vai trò, vị trí của các tri thức và kĩ năng Tin học,
cái mới, cái hay, cái khó và tính chất sáng tạo của việc dạy học môn
Tin học, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và tình cảm nghề
nghiệp. Đồng thời rèn luyện cho sinh viên những phẩm chất đạo
đức cần thiết của ngơừi giáo viên Tin học như: kiên trì, vượt khó,
cẩn thận, chính xác, độc lập khai thác cái mớivv.v...
1.3.4 Phát triển năng lực tự đào tạo, tự nghiên cứu về lí
luận dạy học Tin học cho sinh viên
Kết hợp quá trình đào tạo và tự đào tạo, tăng cường yếu tố tự
học, làm nghiên cứu khoa học về lí luận dạy học Tin học
Hướng dẫn sinh viên làm bài tập lớn, tiểu luận, luận văn về đề
tài lí luận dạy học Tin học
1.3.5 Phối hợp, liên hệ với nhà trường phổ thông
Lí luận dạy học Tin học muốn phát triển được cần luôn bám
sát thực tiễn dạy và học Tin học ở trường phổ thông: đúc rút
những kinh nghiệm thành công và thất bại của thực tiễn dạy học
Tin học. Từ đó phát triển và hoàn thiện lí luận dạy học Tin học.
Mặt khác bộ môn Phương pháp dạy học Tin học cần phải tổ
chức những đợt bồi dưỡng lí luận, hội thảo về phương pháp dạy học
Tin học cho giáo viên phổ thông, giúp đội ngũ này cập nhật được
những tri thức mới về khoa học giáo dục nói chung và lí luận dạy
học Tin học nói riêng.
1.4 Phương pháp nghiên cứu của lí luận dạy học Tin học
12
1.4.1 Cơ sở phương pháp luận
Phép biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận cho mọi
ngành khoa học, trong đó có lí luận dạy học Tin học bởi nó khái
quát hoá những sự kiện từ tất cả các khoa học và trên cơ sở đó phát
hiện ra những quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng quyết định những quan điểm xuất phát, chiến lược
nghiên cứu, quyết định việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu và
giải thích kết quả. Trong nghiên cứu lí luận dạy học Tin học cần
vận dụng được những tư tưởng cơ bản của phương pháp duy vật
biện chứng là:
- Xem xét những quá trình và hiện tượng trong mối quan hệ
nhiều mặt và tác động qua lại giữa chúng.
- Xem xét những quá trình và hiện tượng trong sự vận động và
phát triển, vạch ra những bước chuyển hoá từ sự biến đổi về chất
sang biến đổi về lượng.
- Phát hiện những mâu thuẫn nội tại và sự đấu tranh giữa
những mặt đối lập để tìm ra những động lực phát triển.
- Thừa nhận thực tiễn như nguồn gốc của nhận thức và tiêu
chuẩn của chân lí.
Chẳng hạn muốn nghiên cứu việc phát triển năng lực khái quát
hoá cho học sinh thông qua môn Tin học, ta không xem xet năng
lực này một cách cô lập mà phải nghiên cứu nó trong mối liên hệ
chặt chẽ với các năng lực trí tuệ khác như phân tích, tổng hợp, so
sánh, tương tự hoá, trừu tượng hoá, với những đặc điểm nhân cách
khác nữa như kiến thức, phẩm chấtv.v..đồng thời cần nghiên cứu
năng lực này trong quá trình vận động, phát triển từ thấp đến cao.
1.4.2 Các phương pháp nghiên cứu
13
Các phương pháp thường dùng trong nghiên cứu koa học giáo
dục nói chung và trong lí luận dạy học Tin học nói riêng là: nghiên
cứu lí luận, quan sát -điều tra, tổng kết kinh nghiệm và thực
nghiệm giáo dục.
+ Nghiên cứu lí luận: Trong nghiên cứu lí luận người ta dựa
vào những kết quả nghiên cứu có sẵn, những thành tựu của nhân
loại trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng trọng tâm là những kết
quả nghiên cứu đã được trải nghiệm của các ngành Giáo dục học,
Tâm lí học, Tin học,...Ngoài ra khi nghiên cứu lí luận dạy học Tin
học cũng cần phải vận dụng các văn kiện của đảng và Nhà nước ta.
Người ta cũng nghiên cứu cả những kết quả của bản thân lí
luận dạy học Tin học để kế thừa những cái hay, phê phán và gạt bỏ
những cái dở nhằm bổ sung, phát triển và hoàn thiện những nhận
thức đã đạt được.
Là ngành khoa còn mới mẻ nên việc tìm hiểu tình tình và so
sánh quốc tế trên lĩnh vực dạy học môn Tin học giúp ta lựa chọn,
xây dựng phương án tác động giáo dục trên cơ sở đánh giá, so sánh
tài liệu, cách làm của các nước khác nhau.
+ Quan sát -điều tra: Quan sát điều tra được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu giáo dục. Điều tra giống quan sát ở chỗ cùng dựa
vào khái thác những hiện tượng có sẵn, không chủ đông gây nên
những tác động sư phạm, nhưng qua sát thiên về xuất phát từ những
dấu hiệu bên ngoài, còn điều tra có thể khai thác những thông tin
bản chất từ bên trong.
Quan sát -điều tra giúp ta theo dõi hiện tượng giáo dục theo
trình tự thời gian, phát hiện những biến đổi số lượng, chất lượng
gây ra do tác động gióa dục. Nó giúp ta thấy được những vấn đề
14
thời sự cấp bách đòi hỏi phải nghiên cứu hoặc góp phần giải quyết
nhiệm vụ nghiên cứu.
Quan sát -điều tra thực tiến sư phạm như dự giờ, thăm lớp sẽ
giúp ta nhận thức được thực trạng dạy học môn Tin học, phát hiện
được những vấn đề cần nghiên cứu, thu lượm được những dữ liệu
phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu.
Quan sát -điều tra cần có mục đích cụ thể, có nội dung cụ thể
và có tiêu chuẩn đánh giá cụ thể mới có hiệu quả cao.
+ Tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm thực chất là
đánh giá và khái quát kinh nghiệm, từ đó phát hiện ra những vấn đề
cần nghiên cứu hoặc khám phá ra những mối liên hệ có tính quy
luật của những hiên tượng giáo dục.
Những kinh nghiệm cần được đặc biệt chú ý là kinh nghiệm
tiên tiến, kinh nghiệm thành công và kinh nghiệm lặp lại nhiều lần.
Tổng kết kinh nghiệm không phải chỉ đơn thuần là trình bày
lại những công việc đã làm và những kết quả đã đạt được. Là một
phương pháp nghiên cứu khoa học, nó phải được tiến hành theo
một quy trình nghiêm túc.
Tổng kết kinh nghiệm phải có lí luận sói sáng thì mới có thể
thoát khỏi những sự kiện lôn xộn, những kinh nghiệm vụn vặt
không có tính phổ biến, mới loại bỏ được ngẫu nhiên, đi sâu vào
bản chất của sự vật, hiện tượng, đạt tới những kinh nghiệm có giá
trị khoa học. Chỉ khi đó tổng kết kinh nghiệm mới thực sự là một
phương pháp nghiên cứu khoa học.
+ Thực nghiệm giáo dục: Thực nghiệm sư phạm cho phép ta
tạo nên những tác động sư phạm, từ đó xác định và đánh giá kết
quả của những tác động đó. Đặc trưng của thực nghiệm giáo dục là
nó không diễn ra một cách tự phát mà là dưới sự đều khiển của nhà
15
nghiên cứu. Nhà giáo dục tổ chức quá trình giáo dục một cách có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, tự giác thiết lập và thay đổi những
điều kiện thực nghiệm cho phù hợp với ý đồ và nghiên cứu cuả
mình.
Trong những điều kiện cho phép, thực nghiệm giáo dục, cho
phép ta khẳng định hoặc bác bỏ một giả thuyết khoa học đã nêu.
Thực nghiệm giáo dục là một phương pháp nghiên cứu rất hiệu
quả song cũng rất công phu, vì thế ta không nên lạm dụng nó. Khi
nghiên cứu một hiện tượng giáo dục, trước hết có thể dùng những
phương pháp không đòi hỏi nhiều công sức, ví dụ như nghiên cứu lí
luận, quan sát, tổng kết kinh nghiệm. Chỉ ở những chỗ những
phương pháp này chưa đủ sức thuyết phục, chỉ ở một số khâu mấu
chốt, ta mới dùng đến thực nghiệm giáo dục.
Thông thường những phương pháp nghiên cứu được sử dụng
kết hợp với nhau. Chẳng hạn qua nghiên cứu lí luận, quan sát, tổng
kết kinh nghiệm, người ta đề xuất một giả thuyết khoa học, rồi đem
thực nghiệm giáo dục để kiểm nghiệm. Sau đó lại dùng lí luận để
phân tích kết quả, xác định nguyên nhân và khái quát hoá những
điều đã đạt được.
Chương 2
Mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn tin học
2.1 Mục tiêu dạy học môn Tin học
Bộ môn Tin học phải cùng với các bộ môn khác tham gia thực
hiện mục tiêu của nhà trường phổ thông là đào tạo thế hệ trẻ thành
16
những người lao động có học vấn vững chắc, có nhân cách hoàn
thiện và có năng lực bảo vệ, xây dựng đất nước phồn vinh. Là một
trong những môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, bộ môn Tin học
phải cung cấp những tri thức cơ bản, làm nền tảng để học sinh có
thể tiếp tục đi sau vào tìm hiểu và xây dựng khoa học Tin học hoặc
tiếp thu những tri thức của các lĩnh vực kĩ thuật công nghệ tiên
tiến, nhất là các lĩnh vực của công nghệ thông tin. Vì vậy việc xác
định mục tiêu dạy học môn Tin học phải xuất phát từ mục tiêu giáo
dục Việt nam, từ đặc điểm và vị trí môn Tin học trong nhà trường.
2.1.1 Mục tiêu giáo d
ục
Mục tiêu giáo dục Việt nam được Nghị quyết của Hội nghị lần
thứ hai của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII khẳng định:
“ Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ gắn bó với tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo
vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa
và văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt nam có ý thức công đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có
tính tổ chức kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên như lời căn dặn của Bác
Hồ”.
Luật giáo dục nước ta cũng đã cụ thể hoá tại chương II, mục 2
điều 23 là: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng
cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
17
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Môn Tin học, cũng như mọi môn học khác, căn cứ vào mục
tiêu trên để xác định ra những nhiệm vụ cụ thể của môn học, tổ
chức hoạt động đào tạo góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà
Đảng và nhà nước đẫ đề ra.
2.1.2 Đặc điểm môn Tin học
Việc xác định mục tiêu dạy học môn Tin phải căn cứ đặc điểm
môn Tin học, bao gồm:
Đặc điểm thứ nhất là tính trừu tượng cao độ và tính thực tiễn
phổ dụng:
Tính trừu tượng của Tin học là ở chỗ nó nghiên cứu các
phương pháp công nghệ và kĩ thuật xử lí thông tin một cách tự
động. Bản thân khái niệm thông tin đã là trừu tượng, quá trình xử lí
thông tin (thu nhập, lưu trữ, biến đổi và truyền nhận) dựa trên
những thành tựu của những ngành khoa học mang tính trừu tượng
cao như Vật lí, Toán học, Lí thuyết thông tin,... vì thế Tin học mang
đặc điểm trừu tượng hoá cao độ.
Sự trừu tượng hoá trong Tin học diễn ra trên những bình diện
khác nhau. Có những khái niệm Tin học là kết quả của sự trừu
tượng hoá những đối tượng vật chất cụ thể, chẳng hạn khái niệm
biến, khái niệm về mảng, bản ghi... Nhưng cũng có nhiều khái
niệm là kết quả của sự trừu tượng hoá những cái trừu tượng đã đạt
được trước đó, chẳng hạn những khái niệm tham biến hình thức,
mảng có phần tử là mảng, bản ghi...
Tính trừu tượng cao độ chỉ che lấp chứ không hề làm mất tính
thực tiễn của Tin học. Tin học có nguồn gốc thực tiễn. Mảng ra đời
18
trước hết do nhu cầu xử lí thông tin trên những danh sách. Bnả ghi
ra đời do nhu cầu quản lí ghồ sơ nhân sự, vật tư...
Tin học học có tính thực tiễn phổ dụng: Là một tiến bộ khoa
học mũi nhọn của thời đại, Tin học học nhanh chóng được ứng
dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Nó cung cấp
những phương pháp và cộng cụ hiệu quả giúp con người khai thác
và xử lí thông tin, là công cụ phục vụ tất cả các ngành khoa học kỹ
thuật, các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, văn hoá, dich vụ và
đặc biệt quan trọng trong công tác quản lí.
Ngày nay Tin học, nói rộng hơn là công nghệ thông tin được
coi là một trong những ngành mũi nhọn chiếm vị trí hàng đầu trong
chính sách kinh tế, khoa học và công nghệ ở những nước phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của kĩ thuật truyền thông đã đưa đến
những chuyển biến to lớn và cơ bản trong công nghệ thiết lập các
mạng Tin học về việc hình thành trong thực tế các siêu xa lộ cao tốc
thông tin như Intranet, Internet.
Đặc điểm thứ hai là tính logic và tính thực nghiệm của Tin
học: Khi xây dựng những phần mềm, hay ngôn ngữ lập trình, người
ta dùng suy diễn logic, xuất phát từ những dữ liệu chuẩn người ta
xây dựng lên các các dữ liệu có cấu trúc.
Khi trình bày môn Tin học trong nhà trường phổ thông, do đặc
điểm lứa tuổi và yêu cầu của từng cấp học, bậc học, nói chung là vì
lí do sư phạm, người ta có thể châm chước, nhân nhượng về tính
logic: mô tả (không định nghĩa) một số khái niệm không phải là
nguyên thuỷ, thừa nhận (không chứng minh) sự đúng đắn của
chương trình sau một số phép thử với một số tập dữ liệu. Tuy nhiên
giáo trình Tin học phổ thông cũng vẫn mang tính logic, hệ thống: trí
19
thức trước chuẩn bị cho tri thức sau, tri thức sau dựa vào tri thức
trước.
2.1.3 Vị trí môn Tin học
Môn Tin học là môn học công cụ. Do tính trừu tượng cao độ,
Tin học có tính thực tiễn phổ dụng. Những tri thức và kĩ năng Tin
học cùng với những phương pháp làm việc trong Tin học đã trở
thành công cụ để học tập những môn học khác trong nhà trường,
là công cụ của nhiều ngành khoa học khác, là công cụ để hoạt
động trong đời sống thực tế và vì vậy là một thành phần không thể
thiếu của trình độ văn hoá phổ thông của con người mới. Về mặt
tri thức và kĩ năng, môn Tin học trong nhà trường cần làm cho tất
cả mọi học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đều nắm được
những yếu tố cơ bản của Tin học, có khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin như công cụ học tập và hoạt động, có thể nhanh chóng
bước vào những ngành nghề đòi hỏi sử dụng công nghệ này. Cụ thể
là học sinh có những hiểu biết về Tin học và máy tính điện tử, có
khái niệm về thuật giải và làm quen với tư duy thuật giải. Học sinh
biết lập trình để giải những bài toán đơn giản, trước hết là những
bài toán trong sách giáo khoa Toán, Lí, Hoá,... từ đó chuẩn bị những
tri thức kỉ năng và phong cách làm việc cần thiết để sau này có thể
đi sâu hơn về lĩnh vực lập trình. Học sinh biết làm việc với một số
hệ điều hành, một số phần mềm như soạn thảo văn bản, bảng tính
điện tử, hệ quản trị cơ sở dữ liệu.
Ngoài việc tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh những tri
thức và kỉ năng Tin học cần thiết, môn Tin học còn có tác dụng góp
phần phát triển năng lực trí tuệ chung như phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hoá, khái quát hoá,... rèn luyện những đức tính, phẩm
chất của người lao động mới như tính cẩn thận, chính xác, tính kỉ
luật, tính phê phán, tính sáng tạo. Học sinh thấy rõ hiệu lực mạnh
20
- Xem thêm -