tổng hợp tài liệu ôn thi môn lý luận chính trị Hồ Chí Minh
MÔN : LÝ LUẬN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Câu 1: Anh, chị hãy nêu khái niệm, các đặc điểm cơ bản (đặc trưng) của
HCNN (trong điều kiện cụ thể của Việt Nam)? Các đặc trưng này thể hiện
như thế nào trong thực tiễn hoạt động của nền HCNN Việt Nam hiện nay?
Quản lý nhà nước là 1 dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà
nước, sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ
chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà
nước thực hiện nhằm phục vụ nhân dân duy trì sự ổn định và phát triển của xã
hội. QLNN bao gồm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Từ điển Oxford định nghĩa hành chính là: “Một hành động cai trị, là thực thi, là
quản lý các công việc”; là “hướng dẫn hoặc giám sát sự thực hiện, việc sử dụng
hoặc điều khiển”. Theo gốc Latinh, ban đầu hành chính bắt nguồn từ minor,
nghĩa là “phục vụ”, sau này nghĩa là ministrate, nghĩa là “điều hành”.
Hành chính được tách ra từ quản lý, nó là một bộ phận của hoạt động quản lý
nói chung, đó là hoạt động chấp hành và điều hành trong phạm vi tổ chức theo
những quy định nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Sẽ có nhiều quan niệm khác nhau về HCNN, tùy theo mỗi quan điểm và cách
thức tiếp cận mà tồn tại những khái niệm khác nhau, tuy nhiên quan niệm của
Việt Nam về HCNN như sau: “Hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi
quyền hành pháp của Nhà nước, đó là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ
thống HCNN trong quản lý xã hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm
phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội”.
HCNN được hiểu là hoạt động của các cơ quan thực thi quyền hành pháp, đây là
một phần trong tổng thể hoạt động của Nhà nước, là một lĩnh vực hoạt động rất
rộng, đa dạng, phức tạp. Bản thân nó liên quan rất nhiều lĩnh vực khác nhau và
ứng dụng các lý thuyết của nhiều khoa học khác nhau.
Việt Nam là 1 quốc gia có thể chế chính trị, thể chế NN và những nét văn
hóa riêng. Điều đó làm cho hoạt động quản lý của các tổ chức ở VN cũng như
hoạt động của các cơ quan NN và đặc biệt các cơ quan HCNN có những nét đặc
trưng riêng. Nghiên cứu những nét đặc trưng riêng của hành chính công ở Việt
Nam cũng có thể tiếp cận theo tiến trình phát triển lịch sử của nền HC Việt
Nam. HCNN Việt Nam có 7 đặc điểm cơ bản (hay đặc trưng cơ bản) sau đây:
Lệ thuộc vào chính trị và phục vụ chính trị
Pháp quyền trong hành chính
Hoạt động liên tục, ổn định tương đối và thích ứng.
Mang tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao
Có hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Không vụ lợi trong hoạt động
Có tính nhân đạo
Phân tích từng đặc điểm:
Tính lệ thuộc vào chính trị và phục vụ chính trị: Nền HCNN là một bộ
phận cấu thành hệ thống chính trị, là công cụ để thực hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng và thực hiện ý chí của nhân dân
trong xã hội dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Vì vậy HCNN
mang bản chất chính trị, là hoạt động thực thi nhiệm vụ chính trị, phải phục tùng
ý chí chính trị và phục vụ lợi ích chính trị. Ở nước ta, HCNN phải chấp hành các
quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Tính lệ thuộc chính trị: HCNN thực hiện các hoạt động của mình trong khuôn
khổ các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành, bên cạnh đó các nhà hành chính
cấp cao đồng thời cũng là các nhà chính trị. Ví dụ: Các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ thuộc Chính phủ đều là các Ủy viên Trung ương Đảng, một số
đồng chí trong thường trực Chính phủ, Bộ trưởng Công an, Quốc phòng là Ủy
viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương..
Tính phục vụ chính trị: HCNN là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị,
biến mục tiêu chính trị thành những sản phẩm cụ thể.
Tuy nhiên, HCNN cũng có tính độc lập tương đối nhất định với chính trị thể
hiện ở tính chuyên môn, nghiệp vụ hành chính. Cán bộ, công chức nhà nước vận
dụng hệ thống tri thức khoa học tiên tiến vào việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan hành chính như: quản trị học, khoa học quản trị nhân sự, kinh tế
học luật học, chính trị học, tâm lí học, xã hội học ...
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam: Tính lệ thuộc vào chính trị thể hiện rõ nét.
HCNN phải chấp hành các quyết định của các cơ quan quyền lực nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ví dụ, điều 94, Hiến pháp 1992
(sửa đổi bổ sung 2013) quy định “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của
nước CHXHCNVN, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước”.
Tất cả các văn bản HCNN đều là sự hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng. Ví dụ như trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020”, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ “Thực hiện chương trình tổng thể cải cách
hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”. Trên cơ sở đó, chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 8/11/2011 về “chương trình tổng
thể cải cách HCNN giai đoạn 2011 - 2020”; trong đó đề ra mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp… cụ thể nhằm thực hiện chủ trương trên của Đảng.
Những người lãnh đạo, công chức giữ vị trí quan trọng trong bộ máy HCNN là
đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, có trách nhiệm cụ thể hóa chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng.
Pháp quyền trong hành chính: Trong một xã hội dân chủ, để bảo vệ quyền
tự do, quyền làm chủ của người dân, cần phải xây dựng một nhà nước pháp
quyền để quản lý xã hội dân sự bằng một nền pháp trị. Trong nhà nước pháp
quyền thì hệ thống pháp luật là tối cao, mọi chủ thể xã hội đều phải hoạt động
trên cơ sở pháp luật và tuân thủ pháp luật. HCNN, với tư cách là chủ thể quản lý
xã hội, được sử dụng pháp luật là công cụ quản lý chủ yếu, nhưng mọi hoạt
động phải dựa trên cơ sở pháp luật, phải đảm bảo pháp luật được thực thi trên
thực tế.
Tính pháp quyền đòi hỏi các chủ thể HCNN phải:
Sử dụng đúng đắn quyền lực, thực hiện đúng thẩm quyền theo chức năng, nhiệm
vụ được trao khi thi hành công vụ.
Chú trọng nâng cao uy tín chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ.
Kết hợp hài hòa yếu tố thẩm quyền và uy quyền để không ngừng nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của một nền hchính phục vụ nhân dân.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam: Theo đánh giá của hội nghị trực tuyến tổng kết
cải cách hành chính 2001 -2011 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì
(5/4/2011):
Hệ thống pháp luật, trong đó có các văn bản luật và dưới luật, tạo hành lang
pháp lý cho hoạt động của HCNN được bổ sung, hoàn thiện theo hướng giảm tối
đa sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ, phân biệt rõ hoạt động của cơ quan hành
chính với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công (đã ban hành các luật:
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật Thanh tra, Luật
Công chức; các Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ…; bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố
công khai…).
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho
tổ chức và công dân, vẫn còn tồn tại xu hướng cơ quan HCNN giành thuận lợi
về mình, đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong việc giải quyết công
việc của dân, của doanh nghiệp; một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái phẩm
chất, đạo đức, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước…
Hoạt động liên tục, ổn định tương đối và thích ứng: Nền HCNN có nghĩa là
phục vụ nhân dân, lấy phục vụ công vụ và nhân dân là công việc hàng ngày,
thường xuyên cho nên HCNN phải đảm bảo:
Tính liên tục (liên tục trong hoạt động, gắn với tính kế thừa, tránh hiện tượng
“phong trào”, “chiến dịch”, sau đó “đánh trống bỏ dùi”) để thỏa mãn nhu cầu
hàng ngày của nhân dân, của xã hội.
Ổn định tương đối trong tổ chức và hoạt động để đảm bảo không bị gián đoạn
trong bất kỳ tình huống chính trị - xã hội nào.
Nhà nước là một sản phẩm của xã hội, trong khi đời sống kinh tế - xã hội luôn
vận động, biến đổi, nên HCNN cũng cần thích nghi với hoàn cảnh thực tế để đáp
ứng yêu cầu phát triển.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Tính liên tục, kế thừa là yếu kém nhất, có tình trạng “tân quan, tân chính sách”.
Tính ổn định về mặt tổ chức không đảm bảo: như việc tách nhập các cơ quan,
trong một số trường hợp việc tách nhập chưa thực sự dựa trên cơ sở khoa học,
đã ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động.
Thiếu tính ổn định trong việc ra quyết định hành chính. Một số quyết định ra
nhưng chưa kịp áp dụng đã có quyết định khác thay thế.
Chuyên nghiệp hóa các hoạt động: HCNN tác động trực tiếp đến tất cả các
ngành, lĩnh vực trong xã hội, vì thế hoạt động hành chính phải phù hợp với đặc
tính từng đối tượng, theo không gian và thời gian cụ thể. Điều này đồng nghĩa
với việc HCNN phải là một hoạt động có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp
cao. HCNN không chỉ được coi là “một nghề” mà còn là một nghề có tinh tổng
hợp và độ phức tạp cao so với các nghề:
Là hoạt động quản lý trong một tổ chức đặc biệt, đó là các cơ quan HCNN.
Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan HCNN
nói riêng (cán bộ, công chức) được sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã
hội.
Là hoạt động tổng hợp, sáng tạo, phức tạp (vì đối tượng quản lý của HCNN là
toàn dân, toàn diện; và hoạt động chính là ra quyết định nên cần sáng tạo).
Là một nghề có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội (ra quyết định phải đúng
đắn).
Yêu cầu: Nhà hành chính phải có chuyên môn sâu và có kiến thức rộng trên
nhiều lĩnh vực, phải có kiến thức và các kỹ năng hành chính, có tác phong làm
việc và thái độ đúng đắn. Các cán bộ công chức làm việc phải tuân thủ theo một
trình tự khoa học nhất định, tránh làm theo chủ nghĩa kinh nghiệm. Phải tuân thủ
các quy luật khách quan và vận dụng thành tựu của các khoa học khác vào hoạt
động của mình.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Ở Việt Nam công chức được sắp xếp theo hệ thống chức nghiệp, được đảm bảo
về mặt nghề nghiệp, việc thăng tiến của công chức chủ yếu dựa vào trình độ
chuyen môn và thâm niên.
Việt Nam đã và đang đẩy mạnh cải cách hành chính, mà một trong những nhiệm
vụ trọng tâm là xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ
phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát
triển của đất nước. Các vấn đề liên quan đến đội ngũ nhân sự làm việc trong các
cơ quan HCNN (tiêu chuẩn tuyển dụng, quyền lợi, nghĩa vụ, chế độ chính
sách…) được quy định chặt chẽ, nhất là trong Luật cán bộ công chức năm 2008.
Điều này tạo điều kiện cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Việt Nam ngày càng chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, đội ngũ nhân sự hành chính Việt Nam vẫn còn một số tồn tại đó là;
một bộ phận thiếu kỹ năng mềm, thái độ đối với công việc, đối với nhân dân có
lúc có nơi chưa đúng mực (theo đánh giá của một số tổ chức tư vấn quốc tế thì
công chức Việt Nam “khó tính”, “hay gây trở ngại”); yếu về tin học và soạn thảo
văn bản; việc bố trí công việc ở một số cơ quan, địa phương chưa phù hợp với
năng lực của cán bộ… Theo đánh giá của báo cáo Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương khóa X trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thì
“chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới của đất nước”.
Có hệ thống thứ bậc chặt chẽ: Bộ máy HCNN là một hệ thống thứ bậc chặt
chẽ, được thiết kế theo hình tháp, gồm nhiều cơ quan hành chính được cấu trúc
theo hệ thống dọc từ trung ương đến cơ sở. Đồng thời, do tính “hành chính” chi
phối nên các bộ phận trong thống này có trật tự, kỷ luật cao, quan hệ thông suốt
từ trên xuống dưới theo nguyên tắc, cấp dưới phục tùng mệnh lệnh cấp trên,
chấp hành nhiệm vụ và chịu sự kiểm soát thường xuyên của cấp trên trực tiếp.
Để tránh biến hệ thống HC thành hệ thống quan liêu, cứng nhắc, chính hệ thống
thứ bậc cũng cần sự chủ động sáng tạo linh hoạt của mỗi cấp, mỗi cơ quan, mỗi
công chức để thực hiện luật pháp và mệnh lệnh của cấp trên trong khuôn khổ
phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Hệ thống các cơ quan HCNN ở Việt Nam được tổ chức thông suốt từ trung ương
đến cơ sở, chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất. Bộ máy hành chính trung
ương gồm chính phủ, Bộ và các cơ quan ngang Bộ; ở địa phương gồm UBND
các cấp và các sở, ban, ngành, phòng chức năng, trực thuộc UBND cấp huyện.
Cơ quan HCNN cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cơ quan hchính cấp trên về tổ
chức, biên chế và hoạt động.
Một trong những mục tiêu của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay là
xây dựng hệ thống các cơ quan HCNN từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong
sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả.
Không vụ lợi trong quá trình tồn tại: HCNN bao gồm 1 hệ thống cơ quan
công quyền được thành lập ở trung ương và địa phương để thực hiện công việc
thuộc về hành pháp. HCNN không có mục đích tự thân, nó tồn tại vì xã hội, nó
có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công cộng và lợi ích nhân dân vô điều kiện. Do đó,
không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao, không theo đuổi lợi nhuận.
Đây cũng chính là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa mục tiêu hoạt
động của cơ quan HCNN và doanh nghiệp hoạt động SXKD.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam: Tính không vụ lợi thể hiện rõ nhất ở chức năng
cung cấp các dịch vụ công cộng của nền HCNN (dịch vụ y tế, giáo dục…) nhằm
đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của người dân. Người dân sử dụng các dịch vụ này
vẫn phải trả phí nhưng ở mức thấp hơn nhiều so với cùng loại dịch vụ do tư
nhân cung cấp, mức phí này không phản ánh đúng quy luật giá trị, giá cả; mức
phí này được nộp vào ngân sách nhà nước để đầu tư cho các công trình công
cộng, phúc lợi xã hội... Ngoài ra, nhà nước còn có các chính sách ưu đãi đối với
các đối tượng là hộ nghèo, người có công với cách mạng, người già, người dân
tộc thiểu số, vùn núi và hải đảo… Điều này thể hiện rõ nét bản chất tốt đẹp của
nhà nước ta.
Tính nhân đạo cao: Xuất phát từ bản chất nhà nước dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tất cả các hoạt động HCNN đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm
cho việc xây dựng hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính,
cũng như trong thực hiện các hành vi hành chính.
Cơ quan HC và đội ngũ cán bộ, công chức không được quan liêu, cửa quyền,
hách dịch, gây phiền hà cho dân khi thi hành công vụ. Mặt khác, hiện nay chúng
ta đang xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của NN, hơn lúc nào hết HC cần đảm bảo tính
nhân đạo để hạn chế tối đa mặt trái của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy sự ph
triển kinh tế, xã hội bền vững.
Tính nhân đạo của hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan HCNN là bảo đảm
cho mọi thành viên xã hội kể cả những người chịu thua thiệt trong nền kinh tế
thị trường cũng được đối xử bình đẳng như những người khác.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Việc ban hành quyết định hành chính: Nhiều khi còn xu hướng đẩy khó khăn về
cho người dân, doanh nghiệp, chưa thực sự vì người dân. Ví dụ như quyết định
trái pháp luật số 460/QĐ-UB ngày 23/4/2008 về việc “thu hồi diện tích đất giao
nuôi trồng thủy sản đã hết thời hạn sử dụng” của UBND hiện Tiên Lãng đối với
gia đình ông Đoàn Văn Vươn.
Trong thực hiện nhiệm vụ: Một số cán bộ, công chức chưa làm hết trách nhiệm
đối với công việc, có biểu hiện cửa quyền, quan liêu, hách dịch, gây khó khăn
cho người dân.
Trong việc áp dụng các phương pháp quản lý, ở một số cơ quan, địa phương có
biểu hiện lạm dụng phương pháp hành chính, gây bất bình trong nhân dân, thậm
chí ở một số địa phương còn xảy ra hiện tượng người dân sử dụng vũ lực chống
lại chính quyền, như Quyết định cưỡng chế số 3307/QĐ-UBND ngày
24/11/2011 “Về việc cưỡng chế để thi hành quyết định hành chính thu hồi đất
đối với ông Vươn -Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng".
Tóm lại: HCNN là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước mang tính
cưỡng chế đơn phương đối với xã hội của các cơ quan HCNN để thực thi pháp
luật, dùng pháp luật để điều chỉnh hành vi của các tổ chức cá nhân trong xã hội
nhằm mục đích duy trì sự ổn định, trật tự và đảm bảo cho sự phát triển của xã
hội theo 1 hướng thống nhất. Tuỳ theo từng loại hình hoạt động của các cơ quan
NN sẽ có những nét đặc trưng riêng.
Câu 2: Hãy trình bày các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của HCNN ở
VN và liên hệ thực tiễn?
Hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó
là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống HCNN trong quản lý xã hội
theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định
và phát triển xã hội”.
Nguyên tắc HCNN: Là các quy tắc, những tư tưởng chỉ đạo, những tiêu chuẩn
hành vi đòi hỏi các chủ thể HCNN phải tuân thủ trong tổ chức và hoạt động
HCNN.
HCNN có 7 nguyên tắc sau: 1.Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với HCNN; 2.
Nguyên tắc nhân dân tham gia vào hoạt động HCNN; 3.Nguyên tắc tập trung,
dân chủ trong HCNN; 4. Nguyên tắc kết hợp phát triển ngành với lãnh thổ; 5.
Nguyên tắc phân định giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh
của doanh nghiệp; 6. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; 7. Nguyên tắc công
khai, minh bạch trong HCNN
Phân tích các nguyên tắc:
Thứ nhất: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với HCNN.
Về Cơ sở:
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống chính trị nhất nguyên,
trong đó chỉ tồn tại một đảng là Đảng cộng sản Việt Nam - lực lượng duy nhất
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, giữ
vai trò lãnh đạo toàn dân, toàn diện. HCNN là một bộ phận của hệ thống chính
trị nên chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong Điều 4, Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2013).
Về nội dung:
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng cho quá trình tổ chức
và hoạt động HCNN.
Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những người có phẩm chất, năng lực và giới
thiệu vào đảm nhận các chức vụ trong bộ máy nhà nước thông qua con đường
bầu cử dân chủ, thông qua bổ nhiệm.
Đảng kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng.
Các cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng gương mẫu trong việc thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động HCNN phải thừa nhận và
chịu sự lãnh đạo của Đảng; HCNN có trách nhiệm đưa đường lối, chủ trương
của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội và đảm bảo sự kiểm tra của tổ chức
Đảng đối với HCNN.
* Ví dụ: Hàng năm, theo quý, theo tháng, các cơ quan tổ chức họp Chi bộ để các
cá nhân, tổ chức báo cáo tình hình hoạt động của cá nhân và bộ phận mình cho
Chi bộ biết để có định hướng chủ trương điều hành cho phù hợp.
Trong các năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
đúng đắn, kịp thời, góp phần quan trọng cho định hướng, hoạt động của HCNN
đoa là: Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày
01/8/2007 “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy Nhà nước. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày
08 tháng 11 năm 2011 và trong năm 2013 Chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị
số 07/CT-TTg, ngày 22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực
hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2013.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và sắp xếp, bố trí cán bộ. Đảng
và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết sách quan trọng để đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, đồng thời quy hoạch, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày
30/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp theo trong năm
2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của
Bộ Chính trị (khóa XI) về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ
đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta đã bố
trí, sắp xếp các Đảng viên ĐCS vào giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy HCNN
từ Thủ tướng, các Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan
ngang bộ thuộc Chính phủ đều là các Đảng viên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương, một số đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung ương.
Công tác kiểm tra của Đảng viên đối với HCNN được thực hiện thường xuyên ,
liên tục, góp phần quan trọng vào nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước
và cải cách nền hành chính công vụ cũng như cải cách thủ tục hành chính. Uy
tín của các Đảng viên, tổ chức Đảng trong cơ quan HCNN thể hiện ngày càng rõ
nét, được nhân dân tín nhiệm cao.
Thứ hai, nguyên tắc nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý HCNN
(nhân dân làm chủ)
Về Cơ sở: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân,
do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước là công
cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Vì vậy, trong hoạt động HCNN phải đảm bảo sự tham gia và giám sát
của nhân dân đối với hoạt động HCNN.
Về nội dung:
Tăng cường, mở rộng sự tham gia trực tiếp của người dân vào các công việc của
nhà nước: Nhân dân trực tiếp đóng góp ý kiến và thảo luận về những vấn đề của
đất nước. Góp ý kiến và quyết định phương hướng hoạt động của cơ quan, đơn
vị mà mình là thành viên. Góp ý kiến vào các văn bản quản lý nhà nước khi nhà
nước có ý kiến. Biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân. Kiểm tra hoạt động
của các cơ quan HCNN. Thực hiện các quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện hành chính.
- Phát huy tính tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội để thúc đẩy tính tích
cực chính trị của người dân (gián tiếp): Thông qua việc bầu ra các cơ quan dân
cử và các cơ quan dân cử bầu ra các cơ quan HCNN. Cần nâng cao chất lượng
của hình thức dân chủ đại diện, để các cơ quan này thực sự đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Thông qua việc kiểm tra giám sát thông qua hoạt
động của Ban Thanh tra nhân dân. Gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị - xã
hội và tổ chức quần chúng. HCNN có trách nhiệm tạo ra cơ sở pháp lý và các
điều kiện tài chính, vật chất… cho các tổ chức này hoạt động; định ra những
hình thức và biện pháp để thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, nhân dân
tham gia vào hoạt động HCNN.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Việc tham gia giám sát của nhân dân còn hạn chế, mang tính hình thức và còn
ngại tố cáo là do chưa có chính sách bảo đảm an toàn cho người dân, nhất là
trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Luật khiếu nại và luật tố cáo năm
2011 ở nước ta mới có hiệu lực từ 01/7/2012, cần phải có thời gian để luật thực
sự đi vào thực tiễn cuộc sống.
Sự tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo còn hạn chế, các ý kiến đưa ra gần
như là mang tính chất chiếu lệ, có nhiều ý kiến tâm huyết của các nhà khoa học
nhưng không được tiếp thu nên người dân không muốn tham gia đóng góp ý
kiến.
Hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự thực chất, do phụ
thuộc vào các cơ quan HCNN về tài chính nên thiếu chủ động trong hoạt động,
nhất là việc thực hiện vai trò phản biện xã hội.
Nói chung nước ta chưa có cơ chế thu hút người dân người dân tham gia giám
sát một cách hữu hiệu, người dân nghĩ việc thực hiện bầu cử của mình chỉ mang
tính chất hình thức đối phó và cho rằng mình có bỏ phiếu cũng vậy thôi nên
người dân không tham gia tích cực vẫn còn rất nhiều người đi bỏ phiếu hộ.
Giải pháp thực hiện tốt 2 nguyên tắc nêu trên trong thời gian tới.
Một là; Nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của hoạt động
giám sát đối với bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan dân cử nói riêng
thông qua hoạt động tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
nhân dân. Nâng cao chất lượng cuộc sống (cả vật chất và tinh thần của nhân
dân). Bên cạnh đó, phải nâng cao dân trí, có biện pháp cụ thể để khuyến khích
các tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại với các cơ quan, cán bộ công chức;
phải trang bị cho nhân dân các thông tin và kiến thức cần thiết để nhân dân thực
hiện quyền giám sát của mình.
Hai là; Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chú trọng việc ban hành Luật Trưng cầu
ý dân, trong đó quy định rõ nội dung trưng cầu ý dân, quyền quyết định trưng
cầu ý dân, trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân; ban hành Luật Giám sát của
nhân dân làm cơ sở pháp lý để hiện thực hóa sự giám sát của nhân dân; Hoàn
thiện Luật Khiếu nại và tố cáo để thành cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân
không chỉ thực hiện quyền khiếu nại mà còn thực hiện tốt hơn nữa quyền tố cáo
của mình; Hệ thống hóa những văn bản dưới luật về quy chế dân chủ cơ sở để
nâng Pháp lệnh dân chủ cơ sở thành Luật về dân chủ cơ sở; Quy định chế độ
thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan HCNN trước nhân dân.
Ba là; Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia đóng góp ý kiến, ngoài
việc đăng trên trang web, cần gửi trực tiếp văn bản đến các nhà khoa học, các
đối tượng liên quan để xin ý kiến. Các cơ quan HCNN cần nghiêm túc nghiên
cứu những đề xuất của người dân để điều chỉnh các quyết định hoàn thiện,
khuyến khích người dân tích cực hơn.
Bốn là; Đổi mới cách thức hoạt động, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội để thu hút người dân tham gia giám sát các cơ quan
HCNN, nhất là hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và Ban Thanh tra nhân dân.
Thứ ba, nguyên tắc tập trung, dân chủ:
Về cơ sở:
Xuất phát từ hai yêu cầu khách quan của quản lý, đó là: đảm bảo tính thống nhất
của hệ thống lớn (quốc gia, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, bộ phận) và
đảm bảo sự phù hợp với đặc thù của hệ thống con lệ thuộc (từng ngành, từng địa
phương, từng cơ quan, đơn vị, bộ phận, cá nhân).
Xuất phát từ bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam
Về Nội dung:
Tập trung trong HCNN thể hiện trên các nội dung: Tổ chức bộ máy HCNN, cơ
quan HCNN theo hệ thống thứ bậc; tập trung điều hành KT - XH vào cơ quan
HCNN cao nhất là chính phủ nhằm đảm bảo tính thống nhất trong điều hành,
lãnh đạo. Thống nhất chủ trương, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển. Thống nhất các quy chế quản lý. Thực hiện chế độ một thủ trưởng
hoặc trách nhiệm cá nhân người đứng đầu ở tất cả các cấp, các cơ quan, đơn vị.
Cơ quan cấp trên có quyền đình chỉ, bãi bỏ quyết định của cơ quan cấp dưới.
Dân chủ trong HCNN là sự phát huy trí tuệ của các cấp, các ngành, cơ quan, đơn
vị và các cá nhân tổ chức và hoạt động hành chính. Tính dân chủ được thể hiện
ở: Cấp dưới được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến về những vấn đề trong
quản lý. Cấp dưới được chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ được
giao và chịu trách nhiệm trước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hai nội dung tập trung và dân chủ liên quan hữu cơ với nhau, tác động bổ trợ
cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ trong khuôn khổ tập trung;
tránh hiện tượng “ độc đoán, chuyên quyền” hoặc “ vô chính phủ”.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Ở nước ta, nguyên tắc này không những được áp dụng trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan NN mà tổ chức của ĐCSVN và một số tổ chức khác cũng
vận dụng nguyên tắc này. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân và vì dân. Các cơ quan quyền lực Nhà nước như Quốc hội, HĐND các
cấp phải do nhân dân bầu ra theo bốn nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín trên cơ sở dân chủ.
Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật, nhưng những vấn đề quan trọng của đất nước
khi quyết định phải lấy ý kiến của nhân dân. Những vấn đề quan trọng ở địa
phương cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến hoặc
trực tiếp quyết định.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có khi vẫn còn mang
tính hình thức và những hạn chế trong quá trình thực hiện. Thực tế không ít cán
bộ Đảng viên, quần chúng nhân dân không thật sự tích cực tham gia ý kiến,
đồng thời cũng không phải mọi ý kiến của người dân đều được phản ánh tới các
cấp lãnh đạo. Và một số trường hợp, ý kiến của lãnh đạo vẫn có sức nặng quyết
định cuối cùng, ý kiến thuộc thiểu số rất ít khi được đặt lại để xem xét.
Mặt khác, một số người lợi dụng dân chủ để thực hiện những yêu sách vượt quá
khuôn khổ hợp pháp, coi thường kỷ cương phép nước.
Thứ tư, nguyên tắc kết hợp phát triển ngành với lãnh thổ:
Về cơ sở: Xuất phát từ 2 xu hướng khách quan của nền sản xuất xã hội, đó là
chuyên môn hoá theo ngành và phân bổ sản xuất theo địa phương, lãnh thổ.
Về Nội dung
Quản lý HCNN đối với ngành là điều hành hoạt động của ngành theo các quy
trình công nghệ, quy tắc kỹ thuật nhằm đạt được các định mức kinh tế - kỹ thuật
đặc thù của ngành.
Nội dung của quản lý theo ngành bao gồm:
Định hướng cho sự phát triển của ngành thông qua hoạch định chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển.
Tạo môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển của ngành thông qua việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, các quy tắc quản lý, các quy định chuyên
môn kỹ thuật.
Khuyến khích, hỗ trợ và điều tiết sự phát triển của ngành thông qua việc ban
hành chính sách, tài trợ, hạn ngạch, nghiên cứu và đào tạo…
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý nhà nước.
Ngăn ngừa, phát hiện và khắc phục những tiêu cực phát sinh trong phạm vi
ngành thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Quản lý HCNN địa phương và vùng lãnh thổ là hành chính tổng hợp và toàn
diện về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một khu vực dân cư trên
địa bàn lãnh thổ đó, có nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức hoạt động: QLHCNN
theo ngành kết hợp với HCNN theo địa phương, lãnh thổ nhằm đảm bảo sự
thống nhất của các quan hệ kinh tế trên lãnh thổ, sử dụng đồng bộ nguồn nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên, năng lượng tại chỗ. Quản lý HCNN theo ngành và
địa phương phải được phối hợp gắn bó với nhau trên các lĩnh vực, đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế, có trách nhiệm chung trong hoàn thành kế hoạch của Nhà nước,
của ngành, của địa phương theo quy định của pháp luật. Tại các địa phương có
các cơ quan chuyên môn cấp địa phương, các cơ quan này vừa trực tiếp chịu sự
quản lý trực tiếp về tổ chức, nhân sự và hoạt động của chính quyền địa phương,
vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn theo ngành dọc. Các cơ quan này thực hiện
chức năng tham mưu cho chính quyền địa phương về quản lý ngành, đồng thời
đảm bảo đạt được các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của ngành. Các chính quyền địa
phương có trách nhiệm bảo đảm cho các ngành đóng trên địa bàn địa phương
mình hoạt động thuận lợi như: nguồn nhân lực, tài nguyên, điều kiện vật chất, kỹ
thuật…
Liên hệ thực tiễn:
Trong những năm qua, chính quyền địa phương phối hợp với các bộ, ngành thực
hiện công tác kết hợp quản lý, và đã đạt được những thành tựu rõ rệt:
Sự kết hợp với địa phương đã tạo ra cơ cấu ngành nghề ở địa phương không
ngừng tăng lên, thế mạnh của các địa phương cũng được ngành khai thác một
cách triệt để.
Cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Ví dụ như công tác
chăm sóc chức khỏe cộng đồng của Bộ Y tế tại các địa phương ngày càng được
nâng cao, nhiều dịch bệnh đã kịp thời được phát hiện và xử lý kịp thời tránh
được.
Hạn chế được những thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra.
Tuy nhiên, nguyên tắc này vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện. Cả
nước ta có 64 tỉnh, thành phố thì hoạt động phối hợp của 64 tỉnh, thành phố với
các Bộ là không đồng đều, dẫn tới những hạn chế nhất định:Sự “xé rào” trong
hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương trái với quy
định của cơ quan quản lý ngành, lãnh thổ.Sự phối hợp không chặt chẽ trong việc
tổ chức thực hiện các quy định của ngành ở địa phương. Bất cập trong hoạt động
kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại địa phương.
Thứ năm, Nguyên tắc phân định giữa quản lý nhà nước về kinh tế và
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp:
Về cơ sở:
Trong điều kiện hiện nay, thực hiện nguyên tắc phân định giữa HCNN về kinh
tế và quản trị kinh doanh của doanh nghiệp để tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lí vĩ mô của nhà nước.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được trao quyền tự
chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản
lý của nhà nước. Nên vai trò chủ yếu của Nhà nước là định hướng, dẫn dắt, hỗ
trợ và điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, không can thiệp sâu vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước như trước đây. Vì vậy, cần phải
phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Về Nội dung:
Các cơ quan HCNN không can thiệp vào nghiệp vụ kinh doanh, phải tôn trọng
tính độc lập và tự chủ của các đơn vị kinh doanh.
Các đơn vị kinh doanh trong việc thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, phải chấp
nhận cạnh tranh, mở cửa… phải tuân theo pháp luật và chịu sự điều chỉnh bằng
pháp luật của các cơ quan HCNN.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Thực tế, so với trước đây, Nhà nước đã bớt can thiệp vào hoạt động SXKD của
các doanh nghiệp.
Từ năm 2010 đến nay, khi Luật DNNN bị xóa bỏ, các DNNN thực hiện chuyển
đổi sang dạng DN hoạt động theo Luật DN, thì KTNN hiện bao gồm: Các
DNNN 100% vốn Nhà nước đã chuyển đổi hình thức theo Luật DN và phần vốn
và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp khác đang hoạt động theo Luật DN.
Các quỹ và tài sản quốc gia khác (tài chính và phi tài chính) thuộc sở hữu nhà
nước và các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách nhà
nước.
Thứ sáu, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Về Cơ sở: Theo nguyên tắc này, đòi hỏi toàn bộ hoạt động HCNN phải tự giác,
tôn trọng thực hiện các quy định pháp luật.
Tính pháp quyền của Nhà nước: Các cơ quan và chủ thể hành chính phải được tổ
chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, lấy pháp luật làm thước đo, làm
chuẩn mực trong công tác tổ chức và hoạt động của mình.
Bản chất nhà nước dân chủ: Các cơ quan HCNN phải tạo điều kiện cho các chủ
thể trong xã hội tham gia giám sát một cách có hiệu quả toàn bộ quá trình tổ
chức và hoạt dộng của hệ thống mình.
Về Nội dung: trong tổ chức và hoạt động của HCNN phải dựa trên cơ sở pháp
luật của Nhà nước; các cơ quan nhà nước phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp
luật, nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc pháp chế, cụ thể:
HCNN phải chịu sự giám sát của các cơ quan lập pháp, tư pháp và xã hội.
Tổ chức và hoạt động HCNN trong phạm vi do pháp luật quy định, không vượt
quá thẩm quyền.
Các hành vi hành chính phải được tiến hành đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật
quy định.
Các quyết định quản lý HCNN được ban hành đúng luật.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Thông tư số 02/2003/TT-BCA (C11) của Bộ Công An có qui định: “… Mỗi
người chỉ được đăng ký 1 xe mô tô hoặc xe gắn máy” là chưa phù hợp với hiến
pháp và pháp luật, hạn chế quyền sở hữu của công dân được qui định tại điều 58
Hiến pháp năm 1992, và khoản 1, điều 221 của Bộ luật dân sự năm 1995; Quyết
định số 33/2008/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người điều
khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và quyết định số 34/2008/QĐBYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người khuyết tật điều khiển môtô, xe
máy ba bánh dành cho người khuyết tật là không đúng thẩm quyền vì theo quy
định của Luật giao thông đường bộ và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
thì việc quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ phải do liên bộ ban hành thông tư liên tịch.
Nguyên nhân của tồn tại trên là do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, ý thức
chấp hành pháp luật chưa tốt, chưa hiểu pháp luật, chưa có chế độ xử lý nghiêm
đối với các vi phạm nên chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa; trình độ của cán
bộ còn hạn chế.
Một số giải pháp để thực hiện tốt hơn nguyên tắc pháp chế: cần phải nâng cao
đời sống dân sinh, nâng cao trình độ dân trí; tuyên truyền phổ biến pháp luật cho
tất cả các đối tượng khác nhau và cần phải xử lý nghiêm tất cả các trường hợp
sai phạm. Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại trình độ các mặt nói chung nhất là pháp
luật cho đội ngũ cán bộ công chức tham mưu xây dựng văn bản luật.
Thứ bảy, Nguyên tắc công khai, minh bạch.
Về cơ sở: Xuất phát từ bản chất nhà nước dân chủ và pháp quyền. Nguyên tắc
này nhằm đề cao và tôn trọng địa vị pháp lí của cơ quan hành chính nhà nước
trong xã hội thông qua việc các chủ thể này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật và nhu cầu của xã hội.
Về Nội dung:
Công khai là việc các cơ quan HCNN thông tin chính thức về văn bản, hoạt
động hoặc nội dung nhất định. Tất cả những thông tin của HCNN phải được
công khai cho người dân trừ trường hợp có quy định cụ thể với lý do hợp lý và
trên cơ sở những tiêu chí rõ ràng.
Công khai trong hành chính nhà nước là việc cán bộ, công chức có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ thông tin, kịp thời và chính xác những thông tin chính thức có
trong văn bản quản lí và phương thức thực hiện công việc của mình cho các đối
tượng có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo thẩm
quyền và quy định của pháp luật.
Công khai trong HC có thể hiểu là sự không “che đậy”, không “bí mật” vì tư lợi
cá nhân hoặc tổ chức nào đó.
Thực hiện tốt nguyên tắc công khai vừa đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động
hành chính, vừa là phương thức thực hiện quyền làm chủ của người dân trong
việc kiểm tra, giám sát.
Các hình thức công khai gồm: Trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tại các
cuộc họp của cơ quan đơn vị. Phát hành công báo hoặc các ấn phẩm khác. Trên
thông tin điện tử. Thông tin cho các đơn vị, tổ chức theo yêu cầu. Thông qua
hội, họp; qua tiếp xúc cử tri, tiếp dân định kỳ của tổ chức, cán bộ lãnh đạo.
Minh bạch trong HCNN là những thông tin phù hợp được cung cấp kịp thời cho
nhân dân dưới hình thức dễ sử dụng, đồng thời các quyết định và các quy định
của HCNN phải rõ ràng và được phổ biến đầy đủ.
Tính minh bạch là điều kiện tiên quyết để HCNN có trách nhiệm thực sự trước
nhân dân và giúp nâng cao khả năng dự báo của người dân. Nếu không minh
bạch sẽ dẫn đến sự tùy tiện hoặc sai lầm trong việc thực hi quyền hạn, có những
giao dịch không trung thực, những dự án đầu tư sai lầm, dẫn đến quan liêu, tham
nhũng. Sự minh bạc sẽ giúp xây dựng một nền hành chính cởi mở, có trách
nhiệm, ngăn chặn được tham nhũng trong HCNN.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Ở Việt Nam hiện nay việc công khai hoá, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung, bộ máy HCNN nói riêng là đòi hỏi quan trọng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng xã
hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, tăng cường tính công khai, minh
bạch trong quản lý HCNN là một trong những nội dung quan trọng của cải cách
hành chính ở Việt Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020, Đảng ta xác định cần tiếp tục “công khai các chuẩn mực, các quy định
hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Tăng cường tính minh bạch,
trách nhiệm trong hoạt động công vụ”.
Việc thực hiện nguyên tắc này ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,
nhất là trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng và cải cách thủ tục hành chính.
Theo đánh giá của Cục kiểm soát thủ tục hành chính (Văn phòng Chính phủ),
việc thực hiện Đề án 30 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính đã
đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, tính đến ngày 15-6-2012, các bộ, ngành
đã hoàn thành việc đơn giản hóa 3.644 thủ tục hành chính trong tổng số 4.751
thủ tục cần được đơn giản. Hội nghị Trung ương 5 ghi nhận “Công tác phòng
chống tham nhũng, lãng phí đã có chuyển biến tích cực, nhất là trong phòng
ngừa, công khai, minh bạch hóa hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách thủ
tục hành chính, quản lý tài sản công. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí
từng bước được kiềm chế”.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Trên thực tế, ở một số địa phương, việc công khai, minh bạch các thủ tục hành
chính chưa được thực hiện nghiêm túc. Một số cán bộ, công chức còn cố tình
không công khai minh bạch các thủ tục để có cơ hội “gây khó mới ló phong bì”
(đánh giá của ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục kiểm soát thủ tục hành chính,
tháng 01/2012).
Vấn đề tuyển dụng công chức cũng không được thông tin kịp thời đến người
dân, ngày hôm nay mới đăng thông báo tuyển dụng thì ngày hôm sau đã có
người đi làm như vậy thông báo chỉ là hình thức còn mọi thứ đã được tiến hành
âm thầm từ trước. Còn hiện tượng “gửigắm”, “con ông cháu cha” trong tuyển
dụng công chức. Điều này, khiến cho việc tuyển dụng sẽ không đáp ứng dược
yêu cầu về trình độ năng lực chuyên môn và thiệt thòi cho một số ứng cử viên
khác.
Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ công chức theo quy định của
Nghị định 37/2007/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định
68/2011/NĐ-CP) chưa thực sự hiệu quả, ở một số cơ quan, đơn vị mới chỉ mang
tính hình thức, chưa thực sự đóng góp thiết thực vào công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng.
Một số giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc công khai minh bạch:
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện; bổ sung và hoàn thiện Luật phòng, chống
tham nhũng 2005 (sửa đổi, bổ sung 2007); luật khiếu nại 2011, luật tố cáo 2011;
Công văn số 3973/VPCP-KSTT về mẫu Báo cáo tình hình, kết quả giải quyết
TTHC và Hướng dẫn niêm yết công khai TTHC, nội dung và địa chỉ tiếp nhận
phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức tại các cấp chính quyền của Văn phòng
Chính phủ… nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của HCNN…
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện để thông qua và ban hành Luật tiếp cận thông tin
(Dự thảo được xây dựng từ năm 2009) càng sớm, càng tốt để hiện thực hóa một
trong những quyền cơ bản nhất của người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp
là quyền được thông tin. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh 30/2000/PLUBTVQH10, nghiên cứu việc nâng lên thành luật bảo vệ bí mật nhà nước cho
phù hợp với tình hình mới.
Thực hiện nghiêm túc việc kê khai, minh bạch tài sản của cán bộ, công chức,
viên chức.
Tóm lại: Nguyên tắc được hiểu là những chuẩn mực mà cá nhân, tổ chức phải
dựa vào đó trong suốt quá trình hoạt động hay nói cách khác nó là tiêu chuẩn
định hướng hành vi của con người, tổ chức. Để đạt được mục tiêu của mình,
Nhà nước cần phải đặt ra những nguyên tắc định hướng chi phối tổ chức và hoạt
động quản lý nhà nước nói chung và hành chính nhà nước nói riêng. Xét về bản
chất, các nguyên tắc hành chính nhà nước phản ánh các quy luật của quản lý nhà
nước và hành chính nhà nước, và phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Câu 3: Nhận xét đánh giá gì về thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với
HCNN. Nguyên tắc này được thể hiện như thế nào trong cơ quan, địa
phương anh chị đang công tác?
Trong hệ thống chính trị của các nước, có thể có nhiều Đảng phái cùng tồn
tại và hoạt động. Mỗi Đảng phái đóng vai trò nhất định trong đời sống xã hội và
giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Ở Việt Nam, Đảng cộng sản
Việt Nam và Nhà nước có mối quan hệ biện chứng gắn bó hữu cơ và có tác
động qua lại với nhau. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Nhà nước
nói chung, hoạt động quản lí hành chính nói riêng được ghi nhận là một nguyên
tắc cơ bản và được đặt lên hàng đầu trong quản lí hành chính Nhà nước.
Lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Đảng là hạt nhân của mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng tháng Tám đã
thắng lợi và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Kể từ đó, sự phát triển của
Nhà nước Việt Nam luôn gắn với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng và các
Đảng viên đều trực tiếp lãnh đạo và tham gia phong trào cách mạng nên đủ khả
năng tổng kết kinh nghiệm để thực hiện sự lãnh đạo một cách có hiệu quả. Do
đó, Đảng có vai trò quan trọng đối với hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt
động quản lí hành chính Nhà nước nói riêng.
Đây là nguyên tắc Hiến định, quy định tại Điều 4 Hiến pháp 2013: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”. Đảng CSVN là Đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo toàn dân,
toàn diện bao gồm chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, anh ninh và ngoại giao.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với HCNN được thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo trong quản lí hành chính Nhà nước bằng việc đưa
ra những đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động
khác nhau của quản lí hành chính Nhà nước. Các vấn đề quan trọng của hoạt
động quản lí Nhà nước nói chung và quản lí hành chính Nhà nước nói riêng đều
cần phải có đường lối, chủ trương của các tổ chức Đảng có trách nhiệm. Sự lãnh
đạo của Đảng được thực hiện trên nguyên tắc chỉ mang tính chất chính trị để
Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật chứ không làm thay Nhà nước. Nghị
quyết của các cấp ủy Đảng đưa ra phương hướng hoạt động cơ bản tạo cơ sở
quan trọng để các chủ thể quản lí hành chính Nhà nước có thẩm quyền thể chế
hóa thành các văn bản pháp luật thực hiện trong hoạt động quản lí hành chính
Nhà nước. Điều 22 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
“Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…”. Khi
quyết định những vấn đề cụ thể khác nhau của hoạt động quản lí hành chính Nhà
nước thì đường lối chủ trương chính sách của Đảng về những vấn đề có liên
quan bao giờ cũng được coi là cơ sở rất quan trọng để các chủ thể quản lí hành
chính Nhà nước xem xét và đưa ra các quyết định quản lí của mình. Tuy vậy,
nghị quyết của Đảng không phải là văn bản mang tính quyền lực – pháp lí.
Những nghị quyết này được thực hiện trên thực tế thông qua hàng loạt những
hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước của các chủ thể quản lí hành
chính Nhà nước để thực hiện hóa chúng.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lí hành chính Nhà nước thể
hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Nó vai trò quan đặc biệt quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả của quản lí hành chính Nhà nước. Điều 5 Luật cán
bộ, công chức quy định Các nguyên tắc quản lý cán bộ công chức: “Bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước.,…”. Sự lãnh
đạo của Đảng về công tác này thể hiện ở chỗ các tổ chức Đảng bồi dưỡng, đào
tạo những Đảng viên ưu tú, có phẩm chất, năng lực để gánh vác những nhiệm vụ
trong bộ máy hành chính Nhà nước. Tổ chức Đảng có ý kiến về việc bố trí
những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính
Nhà nước. Những ý kiến này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác tổ chức
cán bộ. Tuy nhiên, vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan hành
chính Nhà nước theo nội dung, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ý kiến
của tổ chức Đảng là cơ sở để các cơ quan hành chính Nhà nước xem xét và đưa
ra quyết định cuối cùng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo trong quản lí hành chính Nhà bằng hình thức kiểm
tra. Kiểm tra của các tổ chức Đảng là kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong hoạt động quản lí hành chính Nhà nước nhằm
đánh giá tính hiệu quả, tính thực tế của các chính sách mà Đảng đề ra, trên cơ sở
đó khắc phục những khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công tác
lãnh đạo. Điều này đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức Đảng có tính thông
tin hai chiều. Cũng thông qua công tác kiểm tra Đảng, các tổ chức Đảng biết
được tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách do mình đề ra, trên cơ sở đó
có các biện pháp kịp thời nhằm làm cho hoạt động quản lí hành chính Nhà nước
đi đúng định hướng phù hợp với lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được
thực hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của
từng Ðảng viên. Việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật được coi là kỉ luật của
tổ chức Đảng. Điều đó tạo cơ sở quan trọng để nâng cao uy tín của Đảng với
nhân dân, với cơ quan Nhà nước, làm cho các tổ chức Đảng trở thành hạt nhân
lãnh đạo của các cơ quan hành chính Nhà nước.
HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Hiện nay, dù vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội được khẳng định
trong các bản Hiến pháp của đất nước mà gần đây nhất là Điều 4 Hiến pháp năm
2013, tuy nhiên, sự khẳng định này vẫn không thể phủ nhận rằng chưa có điều
luật nào quy định một cách cụ thể những nội dung, hình thức và phương pháp
lãnh đạo của Đảng với Nhà nước nói chung và trong quản lí hành chính Nhà
nước nói riêng. Vấn đề này vẫn chỉ nằm trong những văn bản mang tính chất lí
luận chính trị. Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc Đảng thực hiện vai trò
lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Vì vậy, ngoài những giải pháp mang tính biện pháp, cần có giải pháp mang tính
trực tiếp tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lí hành chính nhà
nước nói riêng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung. Đó là việc xây
dựng một đạo luật ghi nhận về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và
xã hội. Việc làm này hết sức quan trọng và cần thiết nhằm cụ thể hóa Điều 4
Hiến pháp 2013.
- Xem thêm -