Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Tài liệu ôn thi công chức môn kiến thức chung...

Tài liệu Tài liệu ôn thi công chức môn kiến thức chung

.PDF
175
849
118

Mô tả:

Tài liệu ôn thi công chức môn Kiến thức chung
Bài 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC LÀ GÌ? Đảng ta chỉ rõ: “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật chứ không bằng đạo lý, pháp luật là thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân theo pháp luật và chấp hành đường lối chủ trương của Đảng”. Điều 12, Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế Xã hội Chủ Nghĩa… mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Nội dung trên cho ta thấy được phương thức chủ yếu của quản lý Nhà nước và sự khác nhau giữa nó với các dạng quản lý xã hội khác. Từ đó có thể hiểu: “Quản lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ tổ quốc XHCN”. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước gồm: a) Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Tổ chức là một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ xã hội, giữa con người, giữa các tập thể, để thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tổ chức được hình thành là do nhu cầu quản lý, nó phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong quản lý Nhà nước, chức năng quản lý Nhà nước là rất quan trọng, vì không có tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức như thế nào để hàng chục triệu con người của đất nước, mọi người đều có vị trí tích cực đối với xã hội. Điều chỉnh là sự qui định của Nhà nước thể hiện bằng pháp luật và các quyết định quản lý về nguyên tắc, tiêu chuẩn, biện pháp… nhằm tạo sự phù hợp giữa chủ thể quản lý, tạo sự cân bằng cân đối các mặt hoạt động của các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người. b) Sự tác động mang tính quyền lực Nhà nước: Tức là bằng pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế. Quyền lực Nhà nước mang tính quyền lực đơn phương và tính tổ chức rất cao. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không cho phép ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật với đòi hỏi cần phải nghiêm trị những kẻ phạm pháp ở bất cứ ở cương vị nào. Việc quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi các cơ quan và các viên chức lãnh đạo quản lý Nhà nước không tổ chức và hoạt động điều hành phải căn cứ luật pháp (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và Văn bản pháp qui); phải làm đúng theo pháp luật trong qui trình xác định hành vi phạm pháp; phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế và phải kết hợp một cách đúng đắn giữa pháp lý và đạo lý. 1 Muốn tăng cường pháp chế quản lý đất nước bằng pháp luật, phải có 04 điều kiện: - Phải tuyên truyền giáo dục pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật. - Phải tiến hành, một cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các hành vi vi phạm pháp luật ở bất kỳ cấp nào, ở cương vị nào. - Phải kết hợp chặt chẽ và đồng bộ ba loại biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục. Đồng thời pháp luật phải đúng, đủ nghĩa và luật đưa ra phải xuất phát từ chế độ chính trị, phù hợp với qui luật với hoàn cảnh thực tế của đất nước, phải có điều kiện thực hiện và phải được kết hợp đúng đắn giữa pháp lý và đạo lý. c) Cần có sự phân định giữa Nhà nước quản lý và quản lý Nhà nước, giữa quản lý Nhà nước và hành chính Nhà nước. Nói Nhà nước quản lý là ta nói đến chủ thể duy nhất quản lý xã hội toàn dân, toàn diện bằng pháp luật. Nhà nước không chỉ có hệ thống Chính phủ (chấp hành hành chính) mà là một bộ máy Nhà nước bao gồm: Lập pháp, hành pháp, tư pháp và một hệ thống công vụ cưỡng chế. Vì vậy, ta không thể nói Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Tòa án, Viện kiểm sát không làm được chức năng quản lý Nhà nước đối với xã hội. Nhưng hình thức và phương pháp quản lý của các cơ quan này không như cơ quan hành pháp và hành chính (Chính phủ). Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Nhà nước phải thực hiện đúng đắn quyền lực của mình, quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội bằng pháp luật theo đường lối, chính sách của Đảng. - Còn quản lý Nhà nước là dạng quản lý mang tính chất thực hiện quyền lực Nhà nước. Cho nên giữa quản lý Nhà nước và hành chính Nhà nước không có sự khác nhau lớn về nội dung, vì rằng hành chính Nhà nước là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, quản lý Nhà nước có khái niệm rộng, vì nó bao gồm sự quản lý của tất cả các cơ quan Nhà nước đối với xã hội. Còn hành chính Nhà nước là chỉ nói trong hệ thống hành pháp và hành chính. II. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Quản lý Nhà nước XHCN có những đặc điểm cơ bản sau đây: 1. Quản lý Nhà nước XHCN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức rất cao. Mệnh lệnh của Nhà nước mang tính đơn phương. Khách thể quản lý phải phục tùng chủ thể quản lý một cách nghiêm túc. Nếu không thì phải truy cứu trách nhiệm và xử lý theo pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng. 2. Quản lý Nhà nước có mục tiêu chiến lược, chương trình và kế hoạch thực hiện mục tiêu. Đặc điểm này đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước phải có kế hoạch dài hạn, trung hạng và hàng năm. Có chỉ tiêu định hướng chủ yếu, có biện pháp cân đối để thực hiện các chỉ tiêu ấy để hoàn thành có hiệu quả các chương trình mục tiêu chiến lược của Nhà nước. 3. Quản lý Nhà nước có tính chủ động sáng tạo, linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ 2 chức lại nền sản xuất xã hội về cuộc sống của con người trên địa bàn của mình theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền theo nguyên tắc. 4. Quản lý Nhà nước XHCN không có sự phân biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Cán bộ quản lý Nhà nước phải sâu sát với dân, phải có tác phong quần chúng, liên hệ chặt chẽ và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Phải biết làm công tác vận động quần chúng, thu hút rộng rãi quần chúng, tham gia thực sự rộng rãi vào công việc quản lý Nhà nước và xã hội. Chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần chúng. Nhưng phải có sự phân biệt tương đối, nghĩa là không xề xòa, gia đình chủ nghĩa; luộm thuộm trong ăn mặc; tùy tiện trong nói năng… để đảm bảo tính quyền uy của Nhà nước. 5. Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước, sự tác động quản lý Nhà nước phải được thực hiện liên tục. Tránh lối “chiến dịch” hoặc “phong trào”: Các quyết định của Nhà nước phải tương đối ổn định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng. Các văn bản, giấy tờ của Nhà nước, của dân phải được giữ gìn, lưu trữ. Đây là đặc điểm rất quan trọng thể hiện tính trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội, với nhân dân. III. CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 1. Chủ thể quản lý có thể nói một cách dễ hiểu là “ai quản lý”: Dưới XHCN xét về mặt xã hội, chủ thể quản lý đất nước nhân dân lao động Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quản lý không phải là việc riêng của những người quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của nhân dân”. Nhà nước là người thay mặt cho dân, là công cụ mạnh mẽ nhất của nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị, có hệ thống pháp luật và các công cụ cưỡng chế khác. Do vậy, về mặt pháp lý, chủ thể quản lý Nhà nước là Nhà nước đối với hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước và các viên chức lãnh đạo trong các cơ quan đó. Các cơ quan hành chính Nhà nước gồm 02 loại: Cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng. Ở nước ta, các cơ quan hành chính gồm có: * Ở Trung ương: - Chính phủ - Các Bộ, Ủy ban Nhà nước - Các cơ quan khác của Chính phủ * Ở địa phương: - Ủy ban nhân dân các cấp - Các Sở, Ban, thuộc Ủy ban nhân dân Trong đó, Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan thẩm quyền chung, các Bộ, Ủy ban Nhà nước, cơ quan khác thuộc Chính phủ, các Sở, Ban của UBND là cơ quan thẩm quyền riêng. Viên chức lãnh đạo bao gồm những người được bầu và những người được bổ nhiệm, có quyền pháp lý và được sử dụng thẩm quyền ấy trong quá trình quản lý Nhà nước đối với xã hội. Ngoài ra còn có một số người không được bầu, bổ nhiệm nhưng được giao thẩm quyền và sử dụng thẩm quyền được giao trong khi thi hành phận sự (Công an, cán bộ thuế, Thanh tra viên…). Chủ thể quản lý Nhà nước là cơ quan là viên chức lãnh đạo gắn chặt với thẩm quyền. Tách khỏi thẩm quyền, làm sai thẩm quyền thì không có tư cách chủ thể quản lý hành chính 3 2. Khách thể quản lý hành vi hoạt động của con người: Hành vi gắn với con người tạo ra hành vi, chịu trách nhiệm hành vi. Những con người làm ra của cải vật chất cho xã hội; các tập thể lao động; các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học kỹ thuật… hành vi của chúng là khách thể quản lý rất quan trọng. Khách thể quản lý được phân thành nhiều loại, từng loại khách thể có đặc điểm riêng. Phân loại khách thể sẽ giúp cho công tác quản lý Nhà nước xác định nội dung, hình thức và phương pháp quản lý phù hợp với từng loại khách thể. Mọi khách thể quản lý đều tự vận động tích cực, có khả năng tự điều chỉnh, thích nghi với sự thay đổi của điều kiện hoạt động; có khả năng khắc phục được khó khăn tìm ra lối thoát tạo điều kiện để hoạt động tốt. Công tác quản lý Nhà nước nhận biết được các tính chất này, đặc biệt phải hiểu đầy đủ mỗi con người đều luôn luôn có mong muốn, có nhu cầu, đạt được nhu cầu này lại nảy sinh nhu cầu khác. Hiểu được các mặt của khách thể, công tác quản lý Nhà nước sẽ tạo được sự vững chắc và ổn định về mặt xã hội, tạo điều kiện cho khách thể tồn tại và phát triển. Giữa chủ thể và khách thể trong quản lý Nhà nước có mối liên hệ, thể hiện: - Chủ thể quản lý làm nảy sinh sự cộng tác quản lý, còn khách thể thì nảy sinh ra các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người. - Chủ thể quản lý tồn tại chính là vì nhu cầu của xã hội, vì khách thể quản lý. Không quan tâm đến khách thể thì không có gì để quản lý, như thế chủ thể quản lý tồn tại và hoạt động không có mục đích. - Con người vừa là chủ thể, cũng vừa là khách thể quản lý. Nhân dân lao động ta là chủ thể, vừa là khách thể quản lý. Bất kỳ một cơ quan nào, một viên chức lãnh đạo nào dù ở cấp cao nhất cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lý Nhà nước. Chẳng hạn UBND huyện là chủ thể quản lý cấp xã, nhưng lại là khách thể quản lý của cấp tỉnh và Trung ương. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ là chủ thể quản lý Nhà nước cao nhất, nhưng lại là khách thể quản lý của Quốc hội, của Chủ tịch nước và của nhân dân. IV. CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC: Các chức năng của quản lý Nhà nước (các cơ quan hành chính Nhà nước) đều xuất phát từ chức năng của Nhà nước. Chức năng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại có tính chiến lược, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ điều kiện thực tế khách quan, phù hợp với các yêu cầu của các qui luật và bản chất chế độ kinh tế chính trị - xã hội của đất nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước (cơ quan hành chính Nhà nước) cụ thể hóa chức năng của Nhà nước thành chức năng cụ thể của mình, thực hiện quyền lực của Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội, các chức năng cơ bản quản lý Nhà nước gồm có: 1. Chức năng trấn áp: Sự chống đối của các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, bọn phản cách mạng kể cả các trung tâm khiêu khích phá hoại quốc tế, thực hiện chức năng này nhằm 4 bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tổ quốc XHCN, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội. 2. Chức năng tổ chức quản lý kinh tế: Đây là chức năng cơ bản và đặc thù của quản lý Nhà nước. Điều quan trọng nhất là phải phân biệt rõ và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế của các cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ, Bộ, Tổng cục, UBND, Sở…) với chức năng sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Lâu nay do lẫn lộn giữa hai chức năng này nên có tình trạng các cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp sâu vào hành chính, sản xuất kinh doanh, làm cho các đơn vị sản xuất kinh doanh vừa không có quyền tự chủ, vừa bị ràng buộc. Mặt khác, một số đơn vị kinh tế không coi trọng quản lý Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh nên sinh ra tùy tiện, coi thường pháp luật, pháp chế, kỷ cương Nhà nước. 3. Chức năng văn hóa giáo dục, thể dục thể thao… Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng công tác văn hóa, văn học nghệ thuật; đẩy mạnh văn hóa quần chúng; xây dựng và sử dụng hệ thống thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa, viện bảo tàng, nhà truyền thống… quản lý chặt chẽ các công tác xuất bản, điện ảnh, phát hành sách, báo, phim ảnh; phát triển các thông tin đại chúng. Phải nâng cao chất lượng cải cách giáo dục, phát triển nhiều hình thức giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chính qui, không chính qui, tập trung tại chức… cải tiến chế độ thi cử, cấp văn bằng… đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở miền núi, vùng xa, vùng sâu, vùng dân tộc… Phải chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân, xem đó là tương lai của nồi giống, là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta; là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể; là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi công dân. Cùng với công tác y tế, công tác thể dục thể thao góp phần khôi phục và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Phải nâng cao và mở rộng phong tào thể dục thể thao quần chúng. 4. Chức năng xã hội: Đây là chính sách về con người mà Nhà nước phải chăm lo bao gồm: vấn đề kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội chăm lo chính sách bảo trợ xã hội đối với thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người về hưu, quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, người tàn tật, vấn đề gia đình, vấn đề nhà ở, công trình xây dựng… thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Có chính sách đối với công nhân, cán bộ công chức, công nhân, nông dân, tri thức; nâng cao kinh tế, chính trị, quốc phòng, xã hội, văn hóa cho các dân tộc, đảm bảo sự bình đẳng đoàn kết giữa các dân tộc… đối với người Việt nam sinh sống ở nước ngoài, cần tạo điều kiện thuận lợi để bà con hòa nhập với xã hội sở tại, vừa liện hệ mật thiết, gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. 5. Chức năng bảo vệ tài sản đất nước: Chức năng bảo vệ sở hữu tài sản của Nhà nước, bảo đảm quyền và tự do của công dân; lối sống có văn hóa; bảo đảm trật tự kỷ cương an toàn xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền của con người trong xã hội. 5 6. Chức năng quốc phòng: Là chức năng chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, tăng cường cũng cố tình hữu nghị và sự hợp tác quốc tế trong mọi lĩnh vực, bảo vệ hòa bình thế giới. Ngoài các chức năng nói chung trên, trong từng các cơ quan hành chính Nhà nước còn có các chức năng cụ thể. + Chức năng tổ chức: Đây là việc xây dựng mối quan hệ hợp lý và vững chắc giữa con người, giữa tập thể, giữa các cơ quan Nhà nước với nhau. Mỗi tổ chức được xây dựng theo mục đích nhất định. Chức năng tổ chức còn là sự thay đổi các mối quan hệ qua lại. Ở góc độ quản lý Nhà nước, chức năng tổ chức là chức năng quan trọng nhất, vì Nhà nước quản lý toàn thể nhân dân trong nước và điều chỉnh hàng triệu mối quan hệ giữa những con người với nhau. Bởi vậy, phải tổ chức như thế nào để mỗi người công dân đều có vị trí tích cực trong xã hội và chỉ khi đó mỗi người mới có thể cống hiến nhiều nhất cho xã hội. + Chức năng cán bộ: Con người là thành phần cơ bản chủ thể và khách thể quản lý Nhà nước, thực chất các công tác quản lý Nhà nước còn là việc con người quản lý con người. Vì thế việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phân bổ, sử dụng viên chức Nhà nước là rất quan trọng của quản lý Nhà nước XHCN. Chức năng cán bộ phải do các cơ quan Nhà nước thực hiện. + Chức năng kế hoạch hóa: Chức năng kế hoạch hóa của quản lý Nhà nước tầm cỡ toàn xã hội, có vị trí của một trong những chức năng quan trọng nhất của quản lý Nhà nước. Chất lượng thực hiện của chức năng này quyết định rất lớn đối với chất lượng phát triển toàn xã hội nói chung bởi vì kế hoạch hóa không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn bao gồm cả lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và cả trong lĩnh vực quản lý: nó xuyên suốt toàn bộ các bộ phận cơ bản trong hoạt động thực tế quản lý của Nhà nước cũng như của mỗi một cơ quan Nhà nước. Kế hoạch hóa là sự biểu hiện khách quan mang tính qui luật của sự phát triển xã hội, là một quá trình hoạt động nhiều mặt về xây dựng, điều chỉnh, phối hợp, ban hành, thực hiện, kiểm tra, đánh giá các kế hoạch kinh tế phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo tính đồng bộ, cân đối, tập trung mục tiêu và có cơ sở pháp lý nhất định. Còn kế hoạch là một văn bản thể hiện ý định của chúng ta với mục tiêu và biện pháp cụ thể nhằm thực hiện quá trình kế hoạch hóa vấn đề nào đó. + Chức năng điều chỉnh: Nhà nước là người có chức năng điều chỉnh chủ yếu các quá trình xã hội, các hành vi và hoạt động của con người trong xã hội, vì Nhà nước có một phương tiện quan trọng đó là quyền lực của Nhà nước; điều chỉnh chính là sự xác định về mặt pháp lý đối với các quy tắc, tiêu chuẩn hành động của con người và các tập thể quản lý Nhà nước đối với khách thể là một trong những vấn đề quan trọng của quản lý Nhà nước. + Chức năng kiểm tra: Chức năng kiểm tra của quản lý Nhà nước có nội dung là xem xét đánh giá việc thực hiện các chức năng tổ chức, cán bộ, kế hoạch hóa, điều chỉnh. 6 Kiểm tra là mối quan hệ ngược của quản lý, kiểm tra không chỉ tìm kiếm thiếu sót, phát hiện chỗ yếu kém mà còn chỉ ra nguyên nhân, đề ra phương hướng và biện pháp khắc phục chúng. Phê bình trở nên vô nghĩa nếu trong kiểm tra không tìm đúng nguyên nhân thiếu sót. Các chức năng được hình thành trong tác nghiệp quản lý của các cơ quan và đặc điểm hành chính Nhà nước là chức năng bảo đảm vật tư kỹ thuật, chức năng tài chính, chức năng lao động và tiền lương, chức năng định mức kinh tế kỹ thuật, chức năng phổ biến kinh nghiệm công tác… mỗi một viên chức làm việc trong một cơ quan thuộc hệ thống quản lý Nhà nước phải nghiên cứu cụ thể các chức năng của cơ quan mình và thực hiện có hiệu quả. V. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC XHCN: Khi đề cập vấn đề quản lý Nhà nước, điều cần nắm vững trước tiên là các nguyên tắc của nó. Nguyên tắc quản lý Nhà nước là tư tưởng chỉ đạo, là hành động của tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước. Nguyên tắc quản lý Nhà nước không phải do một cơ quan nào, một người nào tự ý đặt ra mà nó được hình thành trên cơ sở quy luật khách quan, trên kết quả nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội, trên bản chất chế độ chính trị trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước gồm có: 1. Nguyên tắc nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo Đảng ta xác định mối quan hệ nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng chức năng của Nhà nước là thể chế hóa quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhân dân lao động thành pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động quản lý Nhà nước trước hết coi trọng vai trò làm chủ của nhân dân, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Các Nghị quyết của Đại hội Đảng, các Ban chấp hành trung ương, của Bộ chính trị, Ban Bí thư… luôn luôn là nguồn quan trọng nhất để ban hành các Quyết định quản lý Nhà nước; đồng thời trong hoạt động của mình, quản lý Nhà nước phải tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt động quản lý Nhà nước một mặt phải bảo đảm quyền dân chủ thực sự của nhân dân lao động trong việc tham gia quản lý Nhà nước, mặt khác phải tạo điều kiện để nhân dân lao động hoàn thành các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra đem lại lợi ích cho xã hội, cho đất nước và cho bản thân họ. 2. Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức và sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của chúng ta. Để thực hiện được nguyên tắc này chúng ta cần nắm vững một số vấn đề chủ yếu sau đây: - Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là Nhà nước dân chủ khác hẳn với Nhà nước tư sản, Nhà nước lấy dân làm gốc, cho nên việc phát huy dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là vấn đề cơ bản được thực hiện đầy đủ trong tổ chức và hoạt động quản lý của Nhà 7 nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII ghi rõ: “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị: (văn kiện Đại hội, trang 90). - Nhà nước phải giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản trong tay Trung ương (Chính phủ, các Bộ) đồng thời phải giao quyền hạn và trách nhiệm giải quyết cho các địa phương, các ngành, tức là thực hiện phân cấp quản lý, giải quyết được sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện luật và các văn bản pháp qui của Trung ương cho các cấp, các ngành. - Trong tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước, hai mặt tập trung và dân chủ là một thể thống nhất, không đối lập nhau, không hạn chế nhau. - Đảng và Nhà nước ta đang ra sức khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời chống rất mạnh bệnh tự do, tùy tiện, phân tán cục bộ địa phương, vô tổ chức, vô kỷ luật, kỷ cương. 3. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ (đặc biệt trên lĩnh vực quản lý kinh tế) - Nhà nước ta là một thể thống nhất. Bộ máy Nhà nước được tổ chức hoạt động theo các cấp hành chính Nhà nước và theo qui định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Đó là quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương. - Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế, kỹ thuật đều nằm trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ), đồng thời nó cũng phải chịu sự quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số mặt theo qui định. Hai mặt đó tạo nên sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung. Đó là căn cứ và lý do của nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Nguyên tắc này đỏi hỏi phải quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải phối hợp, gắn bó nhau trên các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, có trách nhiệm chung trong việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước của ngành cũng như của lãnh thổ, có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của từng bên và cả hai bên theo luật định. 4. Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh của các tổ chức kinh tế: Nguyên tắc đòi hỏi các cơ quan hành chính Nhà nước không được can thiệp sâu vào nghiệp vụ kinh doanh, phải tôn trọng tính tự lập và tự chủ của các đơn vị kinh doanh; đồng thời cũng đòi hỏi các đơn vị kinh doanh trong việc thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chấp nhận cạnh tranh, mở cửa… phải tuân theo pháp luật và chịu sự điều tiết bằng pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước. 5. Nguyên tắc pháp chế XHCN: Nguyên tắc này đòi hỏi có tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước; nguyên tắc này không cho phép các cơ quan Nhà nước thực hiện việc quản lý Nhà nước một cách chủ quan, tùy tiện mà phải dựa vào pháp luật của Nhà nước, để thực hiện nguyên tắc này phải có 03 8 điều kiện: xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật; giáo dục pháp luật cho toàn dân; phải xử lý một cách nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật… bất cứ với ai vi phạm pháp luật đều đưa ra xử lý theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ. Không làm theo kiểu phong kiến: “Dân thì chịu hành pháp, quan thì xử theo lễ”… cấm bao che cho hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào. 6. Nguyên tắc công khai: Tổ chức hoạt động quản lý Nhà nước phải công khai cho dân biết trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Phải chú ý đến dư luận xã hội, từ đó mà điều chỉnh kịp thời các quyết định quản lý Nhà nước, thực hiện phương châm dân biết, dân làm, dân kiểm tra. Ngoài 6 nguyên tắc cơ bản nói trên, tổ chức hoạt động và quản lý Nhà nước còn có các nguyên tắc như: nguyên tắc tập trung và thống nhất của hệ thống, nguyên tắc hai chiều trực thuộc, nguyên tắc trực thuộc thẳng, nguyên tắc lãnh đạo tập thể… 9 Bài 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚC I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC: Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII đã chỉ ra rằng Nhà nước ta được nhân dân trao quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý đời sống xã hội bằng pháp luật. Xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chánh thông suốt từ Trung ương đến cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực và hiệu lực. Đó là một phương hướng chỉ đạo hết sức cơ bản. Đảng, Quốc hội, Chính phủ cũng như tất cả các cơ quan Nhà nước và toàn thể nhân dân rất quan tâm đến vấn đề nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong tình hình hiện nay. Vậy hiệu lực quản lý Nhà nước là gì? Trước khi nói khái niệm hiệu lực quản lý Nhà nước, chúng ta cần phải nhận thức rằng, xét về góc độ quản lý Nhà nước, quản lý xã hội phải có đủ 3 yếu tố chủ yếu: Quyền lực, năng lực và hiệu lực. Ba lực này có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó quyền lực là yếu tố xuất phát bao gồm hệ thống pháp luật và nguyên tắc pháp chế nghiêm minh, là sự bảo đảm tính ổn định vững chắc của hiệu lực. Còn năng lực quản lý được thể hiên bằng quyết định quản lý Nhà nước đúng đắn có ảnh hưởng đến hiệu lực. Như vậy, chúng ta có thể thấy hiệu lực quản lý Nhà nước là sự thể hiện cụ thể quyền lực và năng lực của Nhà nước. Vậy, hiệu lực quản lý Nhà nước là sự tác động của các chủ thể quản lý Nhà nước lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người bằng quyền lực Nhà nước, để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội theo tính chất mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước và sự tuân thủ chấp hành pháp luật của mọi khách thể quản lý một cách nghiêm minh. Duy trì được trật tự xã hội, kỷ cương Nhà nước trong toàn bộ đời sống xã hội. Một cách khác, gọn hơn và dễ hiểu hơn hiệu lực quản lý Nhà nước là tổng thể của các hiệu lực pháp luật (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh), các hiệu lực văn bản pháp qui (Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Chính phủ là các cơ quan hành chính Nhà nước các ngành, các cấp có thẩm quyền, các Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên Bộ); Hiệu lực của các điều lệ, quy chế, kế hoạch… được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và toàn dân chấp hành thực hiện hết sức nghiêm minh. Trong thời gian qua, nhất là từ Đại hội Đảng lần thứ VI, qua các kỳ họp của Quốc hội Khóa VIII và các Nghị quyết quản lý điều hành của Chính phủ, đất nước có sự đổi mới rõ rệt, đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu quan trọng, trong đó nổi lên là những thành tích về đổi mới quản lý kinh tế, bước đầu thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân. Trên một khía cạnh nhất định, sự quản lý Nhà nước ta đã có hiệu lực. Tuy nhiên, nhìn toàn diện, đặc biệt là vấn đề tuân thủ pháp luật, pháp chế, trật tự kỷ cương xã hội còn nhiều phức tạp và nhiều yếu kém. 10 II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đã được Quốc hội và Chính phủ thể chế hóa thành văn bản Luật và văn bản Pháp qui để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước ở nước ta trong thời gian tới. Ở đây chỉ trình bày các phương hướng và biện pháp chủ yếu: 1. Căn cứ vào cương lĩnh chính trị, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội mà đặt ra cơ chế về chính sách quản lý. Cơ chế và chính sách phải đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ và nhất quán, trong đó được nổi lên hàng đầu là cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 2. Phải xây dựng mới, sửa chữa và bổ sung luật để có một hệ thống pháp luật đầy đủ, hợp lý, chính xác, đúng với điều kiện kinh tế - xã hội. 3. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân phải trên cơ sở pháp luật, làm đúng pháp luật và giữ gìn nghiêm minh nguyên tắc pháp chế. 4. Các cơ quan hành chính Nhà nước phải có quyết định thể hiện thành hình thức văn bản pháp qui có căn cứ khoa học, có tính quần chúng, tính chính trị và tính khả thi. 5. Phải giáo dục pháp luật, pháp chế cho toàn dân. Phải xử lý nghiêm minh những ai vi phạm pháp luật dù ờ bất cứ cương vị nào. 6. Phải bồi dưỡng gấp rút, đào tạo chính quy một đội ngũ công chức Nhà nước có đủ phẩm chất, kiến thức và năng lực. 7. Tiếp tục dân chủ hóa, tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân trong mọi mặt đời sống xã hội. Tiếp tục nâng cao dân trí, chống mọi biểu hiện tiêu cực xã hội, thực hiện công bằng xã hội. III. HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC: 1. Một vài nhận thức về hiệu quả nói chung: a) Hiệu quả là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận và thực tiễn, là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lượng hoạt động quản lý kinh tế - xã hội. Trong hoạt động quản lý có một số người hiểu đồng nhất khái niệm kết quả và hiệu quả hoặc cho rằng năng suất cao, có chất lượng tốt là hiệu quả rồi. Thực tế không phải hoàn toàn như vậy, năng suất cao, có chất lượng tốt là những chỉ tiêu chất lượng rất quan trọng, tạo ra một khối lượng giá trị sử dụng lớn làm thỏa mãn được nhu cầu về vật chất và tinh thần cho xã hội, những năng suất cao, chất lượng tốt chưa chắc đã hiệu quả. Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng khoa học và tiến bộ kỹ thuật, cải tiến biện pháp quản lý… để tạo ra một số kết quả hoạt động (sản xuất, công tác, dịch vụ…) sao cho kết quả đạt được tối đa còn chi phí cho kết quả đó ở mức tối thiểu (tiết kiệm nhất). Như vậy, có thể nói: Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả và chi phí, với điều kiện là kết quả đạt tối đa còn chi phí tối thiểu. Trong quá trình so sánh, hiệu quả chỉ có thể đạt được ở các trường hợp sau: - Kết quả tăng lên, chi phí cũng tăng nhưng chậm hơn 11 - Kết quả tăng nhưng chi phí vẫn giữ nguyên (không đủ). - Kết quả tăng, chi phí giảm. - Kết quả giữ nguyên, chi phí giảm. - Kết quả giảm, chi phí giảm nhanh hơn. Tất cả các trường hợp này đều dẫn đến kết luận là muốn có hiệu quả phải đạt được kết quả cuối cùng nhiều hơn, chi phí tương đối ít hơn. Từ đó cũng có thể nói: Hiệu quả lao động là sự tiết kiệm lao động xã hội gồm có lao động quá khứ và lao động sống. b) Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả: Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả lao động là chỉ tiêu dùng làm thước đo, dựa vào đó mà ta so sánh để đánh giá hiệu quả hoạt động giữa các thời kỳ, các khu vực hoặc các phương án. Trong hoạt động thực tế, tiêu chuẩn đánh giá có hai mặt biểu hiện: - Biểu hiện bằng định lượng: Đó là chỉ tiêu được tính bằng các đơn vị đo lường cụ thể (hiện vật, tiền, thời gian lao động). Chẳng hạn: + Trong lĩnh vực sản xuất vật chất để so sánh hiệu quả hoạt động giữa các đơn vị, Nhà nước thường dùng chỉ tiêu (chỉ tiêu lên một số chỉ tiêu của một vài lĩnh vực). + Để đánh giá hiệu quả của các đơn vị sản xuất kinh doanh, ta thường dùng chỉ tiêu tỷ suất lãi trên một đồng vốn. Đối với đánh giá hiệu quả hoạt động xã hội (văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao…) người ta thường dùng các chỉ tiêu so sánh kết quả và chi phí giữa các thời kỳ. Chẳng hạn: + Số lần đi xem văn nghệ của một người dân trong năm. + Số người đến tuổi đi học được đi học trên 1.000 dân. + Số bác sĩ hoặc số giường trên 1.000 dân. + Số đơn vị thể thao trên 10.000 dân v.v… - Mặc định tính hiệu quả: Đó là những chỉ tiêu có thể lượng hóa hoặc không thể lượng hóa, có ý nghĩa phục vụ đường lối, mục tiêu chính trị, phục vụ xã hội, đời sống dân cư. Chẳng hạn: Việc xây dựng công trình phục vụ nhân dân miền núi, các vùng dân tộc ít người… để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thì dù có lỗ, phải bù lỗ thì không được nói là không hiệu quả mà chính là có hiệu quả cao xét về mặt định tính. Hoặc để tạo nên sự cân đối tự chủ và đồng bộ của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có nhiều việc phải làm, phải đầu tư, cho dù thời gian đầu không có lãi, nhưng vẫn phải làm. Đây là vấn đề rất có ý nghĩa về định tính của chỉ tiêu hiệu quả. Hoặc vì công việc an ninh quốc gia, việc khắc phục khẩn trương một sự việc như: Bão lụt, hỏa hoạn để đem lại sự ổn định thì không nên chỉ nghĩ về chi phí lớn mà cho rằng không có hiệu quả… 2. Hiệu quả quản lý Nhà nước là gì? 12 a) Trước khi nói đến hiệu quả quản lý là gì, chúng ta nên đề cập một số vấn đề mang tính đặc thù của công chức quản lý Nhà nước. - Công tác quản lý Nhà nước hình thành, tồn tại và phát triển không phải chỉ do bản thân Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước, các viên chức lãnh đạo hình thành và tồn tại không phải vì bản thân bộ máy Nhà nước. Tất cả cái đó hoạt động chính trị hình thành, tồn tại và phát triển là nhu cầu của xã hội, vì cuộc sống của tất cả mội người trong xã hội. Thật vậy, mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước, của người lãnh đạo, một quyết định quản lý, một biện pháp tổ chức thực hiện được coi là có hiệu quả đối với xã hội chỉ khi nào hoạt động ấy, quyết định và biện pháp ấy đạt được mục đích xây dựng, cải tạo một quá trình, đem lại lợi ích thiết thực làm thay đổi cuộc sống của mỗi người trong xã hội. Đây là một quan niệm có ý nghĩa lý luận và thực tế quan trọng. - Công tác quản lý Nhà nước không trực tiếp sáng tạo các sản phẩm vật chất và tinh thần nhưng sự tác động quản lý của Nhà nước (thể hiện trên văn bản luật và dưới luật) ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tốt và không tốt, nhanh chậm, hoặc giẫm chân tại chỗ của các ngành, các đơn vị, các địa phương và cơ sở trong mọi lĩnh vực sản xuất và không sản xuất của xã hội. Do đó, công tác quản lý Nhà nước phải lấy việc phục vụ xã hội để đánh giá hiệu quả hoạt động của mình. - Quản lý Nhà nước là hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chính trị của quản lý Nhà nước và là quyền lợi chính trị của nhân dân. - Tính toàn diện, tính đa dạng, tính tương đối ổn định của hoạt động quản lý Nhà nước nhằm chỉ ở một mặt nào, một lĩnh vực nào mà phải đề cập đến mọi khía cạnh hoạt động của đời sống xã hội, tất nhiên trong đó vấn đề kinh tế là nền tảng. - Với ý nghĩa trên, chúng ta có thể nói: “Hiệu quả quản lý Nhà nước là kết quả của sự tác động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội để đảm bảo các nhu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế và đời sống mạnh mẽ và đúng hướng, đảm bảo các nhu cầu phát triển văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, phục vụ công cộng, đảm bảo quốc phòng, trật tự an ninh, pháp luật, pháp chế, kỷ luật, kỷ cương xã hội… Trong từng thời kỳ nhất định. Nếu không đáp ứng được các nhu cầu đó thì không thể nói là hoạt động quản lý Nhà nước có hiệu quả”. b) Căn cứ để đánh giá hiệu quả quản lý Nhà nước: - Căn cứ thứ nhất: Hiệu quả xã hội nói chung: Kết quả của việc thực hiện các mục tiêu, chương trình và nhiệm vụ quản lý Nhà nước thông qua việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định có tính đến việc chi phí để thực hiện kế hoạch đó theo tinh thần kế hoạch thì hoàn toàn tốt, chi phí thì ít (tiết kiệm). nội dung chủ yếu là: Việc tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đi lên CNXH trong chặng đường tiếp theo bao gồm: + Về chính trị: Củng cố vững chắc Nhà nước XHCN, trên nền tảng liên minh giai cấp công, nông và tầng lớp trí thức XHCN: Phát huy quyền làm chủ 13 của nhân dân lao động, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù bên trong, bên ngoài, tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế. + Về kinh tế: cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, các thành phần kinh tế khác vẫn tồn tại lâu dài và hoạt động theo pháp luật của Nhà nước, sản xuất nhiều hàng hóa, bảo đảm được tiêu dùng cơ bản của xã hội và có tích lũy. + Về mặt xã hội: Xây dựng từng bước một xã hội lành mạnh, quan hệ giữa người với người tốt đẹp, công bằng; xây dựng nền văn hóa mới để từng bước chiếm lĩnh mặt trận tư tưởng, văn hóa XHCN trong toàn xã hội. Hiệu quả cao nhất của quản lý Nhà nước là việc thực hiện các chương trình mục tiêu, trong từng thời kỳ để thực hiện chiến lược kinh tế xã hội. Mức độ hiệu quả nhiều hay ít là tùy thuộc vào kết quả thực hiện có liên hệ đến chi phí tiết kiệm hay lãng phí. - Căn cứ thứ hai: Hiệu quả xã hội riêng. Đó là hiệu quả hoạt động của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương và hiệu quả xã hội chung. - Căn cứ thứ ba: Hiệu quả xã hội cụ thể. Đánh giá việc tổ chức và hoạt động cụ thể của một cơ quan quản lý Nhà nước thông qua các yếu tố sau đây: + Cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan gọn, nhẹ, hoạt động có hiệu quả. + Cán bộ công chức trước hết là người lãnh đạo, có năng lực và có uy tín đối với xã hội, từng người làm việc có hiệu quả. + Thời gian đầu tư để giải quyết các tình huống nhanh nhạy, kịp thời, chi phí tiết kiệm. + Kết quả của việc ra và việc tổ chức thực hiện qui định quản lý Nhà nước mang lại lợi ích thiết thực. + Tính pháp chế, tính kỷ luật và trách nhiệm trong cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước được tuân thủ nghiêm minh. + Tính dân chủ, công bằng, đoàn kết nội bộ được bảo đảm + Việc sử dụng quyền lực Nhà nước tác động đến các quá trình xã hội và con người được nhân dân tin và làm theo. IV. NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC: 1. Vài nét tình hình: Trong thời gian qua nhất là sau khi có Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và thứ VIII, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta diễn ra một quá trình đổi mới mạnh mẽ. Nhà nước đã thể chế hóa các đường lối chủ trương và biện pháp lớn mà Đảng đã đề ra thành văn bản luật và dưới luật và tổ chức thực hiện, đã bước đầu có thành tựu rất quan trọng. - Về kinh tế, chúng ta đã bắt đầu đổi mới cơ bản về cơ cấu, về cơ chế và đã đem lại kết quả rõ rệt. Chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy mọi năng lực sản xuất hiện có, tạo điều kiện cho mọi công dân quyền sản xuất kinh doanh theo phương pháp luật đã bắt đầu có hiệu quả. Kinh tế quốc doanh đã và đang được củng cố để nhanh chóng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. 14 - Trong nông nghiệp với cơ chế “khoán mười” đã tạo ra một động lực mới trong sản xuất, tạo sự gắn bó giữa người nông dân với đồng ruộng, đưa lại hiệu quả sản xuất nông nghiệp. - Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp để chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng kinh tế đối ngoại, làm cho dân giàu nước mạnh tạo định hướng tiến lên CNXH, đã làm cho đời sống của nhân dân ta từng bước ngày càng cao lên. Tuy nhiên, đến nay đất nước vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội. - Bộ máy Nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nặng nề, chồng chéo, lề lối và tác phong làm việc vẫn còn quan liêu, chưa sát với thực tế, tệ nạn tham nhũng, ức hiếp quần chúng trong một số cán bộ quản lý Nhà nước vẫn chưa được khắc phục. Năng lực tổ chức thực hiện cơ quan và người lãnh đạo ở nhiều cấp, trình độ quản lý điều hành ở cơ sở còn yếu. Đội ngũ cán bộ chưa mạnh, chưa gương mẫu, một bộ phận bị sa sút phẩm chất thoái hóa biến chất. - Các nguyên tắc, tính pháp luật pháp chế, kỷ luật kỷ cương Nhà nước còn quá lỏng lẻo. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa rõ ràng làm cho hiệu lực Nhà nước chưa cao, quyền làm chủ của nhân dân chưa được bảo đảm. - Đời sống của nhân dân lao động tuy có khá lên nhưng chưa đồng đều. Cán bộ công chức Nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn. Đời sống văn hóa chưa lành mạnh, các chính sách xã hội được thực hiện còn quá ít. 2. Phải làm gì để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. a) Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong công tác quản lý Nhà nước. - Phải nhìn thẳng vào cuộc sống, xem cái gì đang cản trở quyền làm chủ của nhân dân lao động. - Những hành động gây khó khăn cho dân (đi lại, học hành, công tác, bắt bớ, giam, tha trái phép…) phải được chấm dứt. - Những hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ của công dân về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một số cán bộ nhân viên Nhà nước phải được xử lý nghiêm khắc, giải quyết triệt để tệ quan liêu tham nhũng. - Phát huy tài năng, sức lực, tiền của người dân để họ tham gia vào công việc xây dựng và bảo vệ đất nước. - Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tập thể lao động, các tổ chức xã hội khác để họ tham gia vào công việc quản lý Nhà nước. - Coi trọng và giải quyết đến nơi đến chốn, đúng pháp luật và kiến nghị, đơn từ, khiếu tố, khiếu nại của nhân dân, bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của nhân dân. b) Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý Nhà nước theo phương hướng Đảng là người lãnh đạo, còn người tổ chức thực hiện điều hành cụ thể chính là Nhà nước. Cương quyết xóa bỏ lối bao biện làm thay chính quyền của cấp ủy Đảng và lối dựa dẫm ỷ lại của 15 các cơ quan chính quyền để Đảng phát huy vai trò lãnh đạo, Nhà nước phát huy hiệu lực điều hành quản lý xã hội. c) Cải cách bộ máy Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đặc biệt là cơ chế quản lý kinh tế. - Giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực. Qui định cụ thể chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương, địa phương và cơ sở. - Phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng sản xuất kinh doanh ở các cấp ngành và đơn vị. d) Xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật và tăng cường pháp chế. Thể chế hóa đúng đắn, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng thành văn bản của Nhà nước. đ) Giải quyết vấn đề cán bộ nhất là người lãnh đạo theo Nghị quyết của Đảng: Muốn nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội có một đội ngũ cán bộ giỏi, có năng lực, có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. e) Các cơ quan quản lý Nhà nước phải đổi mới phong cách làm việc, thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao. Xóa bỏ lối làm việc quan liêu, giấy tờ, vô kỷ luật, vô trách nhiệm, lề mề, gây phiền hà cho nhân dân, tăng cường kỷ luật kỷ cương Nhà nước. f) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm minh theo kết quả kiểm tra, thanh tra. 16 Bài 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. I. ĐẢNG CỘNG SẢN Thực tế, từ khi thành lập năm 1930 đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Năm 1945, Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng tháng 8 chấm dứt ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (là nước CHXHCN Việt Nam ngày nay). Năm 1954, sau 9 năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thắng lợi, Đảng đã giành sự kiểm soát hành chính trên một nửa nước Việt Nam. Từ năm 1954 đến 1975 Đảng cộng sản đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ mới ở miền Bắc, thực hiện cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ trên cả nước và giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước năm 1976. Năm 1986 Đảng cộng sản đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới đạt được nhiều thắng lợi to lớn, sau 10 năm đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, bước vào thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị và Tổng Bí thư. Trước đây chức vụ cao nhất trong Đảng là Chủ tịch Đảng (do Chủ tịch Hồ Chí Minh đảm nhận). Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam là ông Trần Phú. Tổng Bí thư hiện nay (khóa XI) là ông Nguyễn Phú Trọng. Mọi công dân Việt Nam nếu tự nguyện gia nhập Đảng cộng sản và nếu tổ chức Đảng thấy có đủ tiêu chuẩn thì sẽ làm lễ kết nạp. Tuy nhiên, người Đảng viên mới đó phải trải qua một thời kỳ thử thách, ít nhất là một năm, mới có quyền biểu quyết, bầu cử và ứng cử trong Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam đã trải qua 11 lần đại hội. Đại hội XI diễn ra vào tháng 01 năm 2011. Hiện nay Đảng có hơn 3,6 triệu đảng viên. 17 II. HỆ THỐNG NHÀ NƯỚC: 1. Quốc hội: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. a) Nhiệm vụ, quyền hạn: Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; 5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp; 8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật; 18 10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; 11. Quyết định đại xá; 12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội; 15. Quyết định trưng cầu ý dân. b) Nhiệm kỳ của Quốc hội: Điều 71 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh. Điều 83 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội. c) Đại biểu Quốc hội: Là công dân Việt Nam, từ 21 tuổi trở lên, có phẩm chất, trình độ, năng lực, được cử tri tín nhiệm bầu ra. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. 19 Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. d) Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội: Là đại biểu Quốc hội do Quốc hội bầu ra vào kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Quốc hội. e) Ủy ban thường vụ Quốc hội: Điều 73 Hiến pháp năm 2013 quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. Số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nhiệm vụ và quyền hạn: Ðiều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội; 2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 4. Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 5. Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan