Khoa Kinh Tế - QTKD
Kinh Tế Vĩ Mô
Tác giả: Nguyễn Tri Khiêm
Biên mục: sdms
Giới thiệu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
Khoa Kinh Tế Quản Trị Kinh Doanh
Bộ Môn Kinh Tế Tổng Hợp
KINH TẾ VĨ MÔ
TS. Nguyễn Tri Khiêm
Phùng Ngọc Triều
Long Xuyên - 2006
Lời nói đầu
Tài liệu giảng dạy môn học Kinh tế vĩ mô được biên soạn phục vụ việc giảng dạy cho sinh viên đại
học thuộc các chuyên ngành kinh tế. Mục tiêu của tài liệu là cung cấp cho sinh viên những kiến
thức cơ bản trong quá trình học tập và nghiên cứu kinh tế vĩ mô, làm cơ sở cho sinh viên hiểu các
nguyên lý và các mô hình kinh tế vĩ mô và có thể lý giải được một số vấn đề kinh tế trong thực tế.
Kết cấu nội dung tài liệu bao gồm 7 chương được sắp xếp theo trình tự như sau:
Chương 1 tổng quan về kinh tế vĩ mô: chương này giới thiệu cho sinh viên những vấn đề mà kinh
tế vĩ mô quan tâm, các chính sách, cũng như các công cụ chủ yếu để phân tích vĩ mô – mô hình
tổng cung và tổng cầu.
Chương 2 đo lường sản lượng và giá cả: phân tích sự luân chuyển của hàng hóa và tiền tệ trong
nền kinh tế, giới thiệu định nghĩa và cách tính tổng sản phẩm quốc nội.
Chương 3 tổng cầu và xác định sản lượng quốc gia: phân tích các nguyên nhân gây ra biến động
kinh tế từ tổng cầu trong ngắn hạn và chính sách công cộng có thể làm gì để ngăn chặn các thời
kỳ thu nhập giảm sút và thất nghiệp tăng cao.
Chương 4 tiền tệ và chính sách tiền tệ: chương này tập trung vào các vấn đề liên quan đến tiền:
tiền, các hình thái của tiền, hệ thống ngân hàng tạo tiền như thế nào và cách thức ngân hàng
trung ương kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế.
Chương 5: Năng suất, tiền lương, nhân dụng và thất nghiệp. Đây là chương tập trung vào thị
trường lao động, tìm hiểu thất nghiệp, các nguyên nhân gây ra thất nghiệp và cách tính thất
nghiệp.
Chương 6 lạm phát: nội dung chương giới thiệu khái niệm, cách thức đo lường lạm phát, các
nguyên nhân gây ra lạm phát và tác hại của nó. ở cuối chương bàn về sự đánh đổi giữa lạm phát
và thất nghiệp.
Chương 7 lý thuyết kinh tế vĩ mô về nền kinh tế mở: chương này tập trung vào những khái niệm
cơ bản liên quan đến tỷ giá hối đoái, phân tích cung cầu về vốn vay và thị trường ngoại tệ. Tìm
hiểu sự ảnh hưởng của các chính sách và sự kiện đến nền kinh tế mở.
Tài liệu này được biên soạn dựa trên các tài liệu, giáo trình, sách kinh tế vĩ mô của các trường đại
học trong nước và các sách dịch. Nội dung cơ bản của tài liệu được biên soạn chủ yếu dựa vào
các tài liệu:
(1) Sách “ Nguyên lý kinh tế học tập 2” của giáo sư N. Gregory Mankiw ( giáo sư kinh tế học
trường đại học tổng hợp Harvard). Sách này được dịch sang tiếng việt bởi khoa kinh tế học
trường đại học quốc dân Hà Nội, nhà xuất bản thống kê, 2003.
(2) Giáo trình “kinh tế vĩ mô đại cương và nâng cao” tái bản lần hai của tập thể tác giả Trần văn
Hùng, Nguyễn Trí Hùng, Trương Quang Hùng, Nguyễn Thanh Triều, Châu Văn Thành ( trường
đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh). Nhà xuất bản giáo dục, 1999.
(3) Sách “ kinh tế học” tái bản lần 1 của tác giả Paul A Samuelson và Wiliam D. Nordhaus. Nhà
xuất bản thống kê, 2002.
(4) Các thông tin thực tế cùng kinh nghiệm tích lũy từ đọc các sách, báo khác của tác giả và
những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong tổ bộ môn kinh tế tổng hợp cũng như trong
khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh trường đại học An Giang.
Đây là tài liệu được biên soạn lần đầu của nhóm tác giả thuộc bộ môn kinh tế tổng hợp, khoa kinh
tế - QTKD do đó sẽ không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các độc giả để chúng tôi hoàn thiện tài liệu giảng dạy này hơn.
Nhóm tác giả bộ môn kinh tế tổng hợp
Khoa kinh tế - quản trị kinh doanh
Đại học An Giangc
Chữ viết tắt
AD : Aggregate Demand (Tổng cầu)
AS : Aggregate Supply (Tổng cung)
GDP : Gross Domestic Products ( Tổng sản phẩm quốc nội)
GNP : Gross National Product ( Tổng sản phẩm quốc dân)
CPI : Consumer Price Index ( Chỉ số giá hàng tiêu dùng )
C : Consumtion ( tiêu dùng của hộ gia đình)
S : Saving ( tiết kiệm)
I : Investment (đầu tư)
G : Government expenditure ( chi tiêu chính phủ )
X : Exports ( xuất khẩu)
M : Imports ( nhập khẩu)
MPC : Marginal Propensity to Consume ( khuynh hướng tiêu dùng biên)
MPS : Marginal Propensity to Save ( Khuynh hướng tiết kiệm biên)
NX : Net Exports (Xuất khẩu ròng)
Tr : Transfer payment ( chi chuyển nhượng của chính phủ )
De : Depreciation ( khấu hao)
Tx : Taxes ( thuế)
NFI : Net Foreign Investment (đầu tư nước ngoài ròng)
NNP : Net National Products
PI : Personal Income
P : Price in general ( mức giá chung)
i : Interest ( tiền lãi)
g : Economic growth rate (Tốc độ tăng trưởng)
Yp : Potentiel Output ( Sản lượng tiềm năng)
IS : Investment/Saving equilibrum (Cân bằng đầu tư và tiết kiệm)
LM : Liquidity preference/Money supply equilibrum (Cân bằng cung tiền và nhu cầu giữ tiền)
Chương 1. Tổng quan về Kinh Tế Vĩ Mô
Kinh tế học hiện đại được phân thành hai nhánh – kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Cả hai
phân môn đều nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, tìm hiểu các nội dung kinh tế để đưa ra những
giải pháp hợp lý ở hai cấp độ. Kinh tế học vi mô nghiên cứu các vấn đề kinh tế ở cấp độ đơn vị
sản xuất hay người tiêu dùng trong khi kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề này ở cấp độ
tổng thể - ở cấp quốc gia hay quốc tế. Môn học này nhằm giới thiệu đối tượng nghiên cứu của
kinh tế vĩ mô, mục tiêu và các chính sách kinh tế vĩ mô, cũng như một số công cụ chủ yếu được
sử dụng trong phân tích kinh tế vĩ mô, mô hình tổng cung và tổng cầu.
I.Kinh tế học vĩ mô là gì
Kinh tế học là môn học nghiên cứu những lựa chọn của cá nhân và xã hội về cách thức sử dụng
những nguồn tài nguyên có giới hạn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Những lựa
chọn của cá nhân và xã hội được biểu hiện bằng những hiện tượng và các hoạt động dưới hai
góc độ: góc độ bộ phận, kinh tế vi mô nghiên cứu hành vi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình
và sự tương tác giữa chúng trên các thị trường từng ngành hàng. Ở góc độ toàn bộ nền kinh tế
gọi là kinh tế vĩ mô.Trong kinh tế vĩ mô chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề: (1) tìm hiểu sự
tương tác giữa các bộ phận trong nền kinh tế tức là nghiên cứu về hoạt động của tổng thể nền
kinh tế và (2) chính phủ sẽ tham gia cải thiện thành tựu chung của nền kinh tế như thế nào?
Hành vi của một nền kinh tế được nghiên cứu dưới bốn phạm vi cơ bản: sản lượng và tăng
trưởng kinh tế; việc làm và thất nghiệp; sự biến động của mặt bằng giá cả; và thu nhập ròng thông
qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Kinh tế vĩ mô tìm cách giải thích điều gì qui định các biến số
đó, tại sao chúng lại biến động theo thời gian và mối quan hệ giữa chúng.
Tạo sao cần phải học kinh tế vĩ mô?
Tầm quan trọng và sự quan tâm đến kinh tế vĩ mô đã tăng rất nhanh trong vòng 30 năm qua xuất
phát từ lý do thực tế cũng như lý thuyết. Trên lãnh vực thực nghiệm, các nền kinh tế phát triển
cũng như đang phát triển đều phải đối phó với các vấn đề kinh tế vĩ mô: trì trệ hay chậm phát
triển, thất nghiệp, lạm phát, cán cân thương mãi thâm hụt, thất thóat vốn, gia tăng nợ quốc gia.
Để có thể tìm câu trả lời cho các vấn đề trên, cần phải hiểu nguyên lý họat động của nền kinh tế.
Nghĩa là chúng ta cần phải tìm lời giải cho các câu hỏi lý thuyết như:
- Điều gì xác định mức độ của họat động kinh tế và nhân dụng trong một nước?
- Mức thu nhập quốc dân cân bằng được xác định như thế nào?
- Nhân tố nào ảnh hưởng đến sự biến động của sản lượng quốc gia?
- Mức giá cả chung của một nước được xác định như thế nào?
- Điều gì gây ra lạm phát và thất nghiệp?
- Điều gì ảnh hưởng đến mức độ mua bán ngoại thương và cán cân thương mại?
- Nhân tố nào ảnh hưởng đến thâm hụt ngoại thương và mất cân bằng trong cán cân thương mại
của một nước.
- Các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế
nào?
Đây là những câu hỏi mà kinh tế vĩ mô tìm cách trả lời.
Nền tảng của kinh tế học vĩ mô hiện đại, như là một ngành khoa học kinh tế riêng biệt, được xây
dựng bởi nhà kinh tế người Anh, John Maynard Keynes (1883-1946) trong cuốn sách nổi tiếng
The General Theory of Employment, Interest and Money (Lý thuyết tổng quát về nhân dụng, lãi
suất và tiền tệ) xuất bản năm 1936.
1.1. Các mục tiêu của Kinh tế vĩ mô.
1.1.1. Sản lượng cao và tăng trưởng nhanh.
Nhìn chung các nhà kinh tế đánh giá hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách nhìn vào một vài biến số
trọng yếu, trong đó biến số quan trọng nhất là tổng sản phẩm quốc nội (GDP). GDP là thước đo
theo giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất tại một nước
trong một năm. Có hai cách tính toán GDP: GDP danh nghĩa được xác định theo giá hiện hành và
GDP thực tế được xác định theo giá cố định hay giá gốc.
Ví dụ: Giả sử nền kinh tế chỉ sản xuất Lúa và Cà phê thì:
GDPdanh nghĩa = (giá Lúa x lượng Lúa) + (giá Cà phê x lượng Cà phê)
GDP tính theo cách này không phản ánh chính xác mức độ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu của hộ
gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. Vì nếu giá cả tăng gấp đôi nhưng lượng hàng sản xuất ra
như cũ, GDP lúc này cũng tăng gấp đôi. Điều này sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn khi kết luận rằng nền
kinh tế có khả năng thỏa mãn nhu cầu gấp đôi.
Trong ví dụ nền kinh tế sản xuất Lúa và Cà phê. Năm gốc là năm 1995 và năm hiện hành là năm
2000. Tính GDP thực tế của năm 2000.
GDPthực = (giá Lúa 1995 x lượng Lúa 2000) + (giá Cà phê 1995 x lượng Cà phê 2000)
Vì giá không thay đổi nên GDP biến động từ năm này sang năm khác chỉ do sự thay đổi của
lượng hàng. Nên khi muốn biết GDP của một quốc gia tăng hoặc giảm qua thời gian, người ta so
sánh GDP thực giữa các năm.
GDP thực theo xu hướng và những dao động của GDP thực: GDP thực theo xu hướng là xu
hướng hoặc khuynh hướng tăng của GDP thực qua thời gian. Những dao động của GDP thực là
sự chênh lệch của GDP thực so với xu hướng của nó. Xu hướng tăng của GDP thực qua thời
gian bắt nguồn từ những lý do như: sự gia tăng dân số làm gia tăng nguồn nhân lực, sự gia tăng
cơ sở vật chất do quá trình tích luỹ vốn, tiến bộ kỹ thuật.
Sự biến động của GDP thực tế là một thước đo hiện có tốt nhất về qui mô và tăng trưởng của
mức sản lượng bởi vì GDP thực tế không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả, nó được xem
như mạch đập được giám sát chặt chẽ của nền kinh tế quốc dân. Khi các nhà kinh tế nói về tăng
trưởng của nền kinh tế, họ phản ánh tốc độ tăng trưởng bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP
thực tế từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (g) được tính:
Mặc dù tốc độ tăng trưởng thường mang giá trị dương trong dài hạn, nhưng sự tăng trưởng này
có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế GDP có thể giảm trong một số trường hợp.
Những biến động ngắn hạn của GDP được gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu biết về chu kỳ kinh
doanh là một mục tiêu chính của kinh tế vĩ mô. Tại sao các chu kỳ kinh doanh lại xuất hiện? các
lực lượng kinh tế nào lại gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản xuất, các lực lượng nào dẫn
đến khôi phục kinh tế? Liệu các chính sách của chính phủ có thể sử dụng để làm dịu hay triệt tiêu
những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay không? Đây là vấn đề lớn đã được đưa ra và ít
nhất đã được giải đáp một phần bởi kinh tế vĩ mô hiện đại.
Hình 1.1: GDP thực (theo giá cố định 1994) của kinh tế Việt nam giai đoạn 1986-2004.
1.1.2.Việc làm nhiều và thất nghiệp ít.
Mục tiêu quan trọng tiếp theo của kinh tế vĩ mô là việc làm nhiều đồng nghĩa với thất nghiệp thấp.
Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ
phần trăm so với lực lượng lao động.
Biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động theo chu kỳ kinh doanh.
Những thời kỳ sản lượng giảm thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại.
1.1.3. Lạm phát.
Biến số then chốt thứ ba mà các nhà kinh tế quan tâm đó là lạm phát. Lạm phát là tình trạng mức
giá trung bình (mức giá chung) của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định.
Các nhà kinh tế đo lạm phát bằng Tỷ lệ lạm phát (%). Tỷ lệ lạm phát được đo bằng tỷ lệ phần
trăm thay đổi của chỉ số giá cả (thường là chỉ số CPI). Chỉ số giá cả là tỷ lệ so sánh giữa số tiền
phải trả để mua một giỏ hàng hoá trong một năm hoặc một thời kỳ và số tiền phải trả để mua giỏ
hàng hoá đó vào năm gốc hoặc thời kỳ gốc.
Trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát, tiền tệ bị mất giá. Giá trị của tiền tệ giảm dần như theo
cùng một tỷ lệ với tỷ lệ lạm phát (tỷ lệ lạm phát cao thì tiền mất giá nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp thì
tiền mất giá chậm hơn). Lạm phát có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Nước nào có tỷ lệ lạm
phát cao thì đồng tiền nước đó sẽ bị giảm giá so với đồng tiền nước khác.
1.1.4. Cán cân thương mại.
Vấn đề quan trọng thứ tư mà kinh tế vĩ mô xem xét là cán cân thương mại. Tầm quan trọng của
cán cân thương mại là gì và điều gì qui định sự biến động của nó trong ngắn hạn và dài hạn?
Nhìn chung, khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so với xuất khẩu,
nước đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền nước ngoài, hoặc
giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một nước có xuất khẩu ròng, thì nước đó sẽ tích tụ tài sản
của thế giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu của chúng ta về mất cân bằng thương mại liên quan
chặt với dòng chu chuyển vốn quốc tế.
1.2. Các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính phủ có những công cụ nhất định có thể tác động đến kinh tế vĩ mô. Công cụ chính sách là
một biến số kinh tế dưới sự kiểm soát của chính phủ có thể tác động đến một hay nhiều mục tiêu
kinh tế vĩ mô. Tức là, bằng cách thay đổi chính sách tiền tệ, tài khoá,và các chính sách khác,
chính phủ có thể lái nền kinh tế đến một tình trạng tốt hơn về sản lượng, ổn định giá cả và việc
làm. Các chính sách chủ yếu:
- Chính sách tài khóa: quyết định điều chỉnh thuế và chi tiêu chính phủ nhằm đạt mức sản lượng,
việc làm và giá cả mong muốn.
- Chính sách tiền tệ: Ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ làm thay đổi mức cung tiền
và lãi suất, thông qua các công cụ như: lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở. Nhằm hướng mức sản lượng quốc gia, việc làm và giá cả đạt mức mong muốn.
- Chính sách thu nhập: các chính sách nhằm kiểm soát giá và tiền lương trong nền kinh tế.
- Chính sách ngoại thương: gồm các chính sách nhằm cân bằng cán cân thương mại để góp
phần cân bằng cán cân thanh toán. Chính sách ngoại thương sử dụng các công cụ mà chính phủ
có thể sử dụng để tác động đến quan hệ thương mại quốc tế như thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp
xuất khẩu.
II.Tổng cầu, tổng cung và cân bằng kinh tế vĩ mô
2.1.Tổng cầu.
2.1.1. Khái niệm.
Tổng cầu (AD aggregate demand) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân kinh
tế có khả năng và sẵn sàng mua trong một thời kỳ nhất định.
Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu bao gồm bốn nguồn yêu cầu về hàng hoá và dịch vụ: tiêu
dùng của hộ gia đình (C: Consumption), đầu tư của các doanh nghiệp (I: Investment), mua hàng
hoá chính phủ (G: Government expenditures), và xuất khẩu ròng (NX: Net Export) là chênh lệch
giữa xuất khẩu ( EX: export) và nhập khẩu ( IM: import).
AD = C + I + G + NX
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu.
- Mức giá trung bình của hàng hoá và dịch vụ (P)
- Thu nhập của các chủ thể kinh tế (NI).
- Chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ (Tax).
- Khối lượng tiền tệ cung ứng (Ms), lãi suất (r)…
2.1.3. Đường biểu diễn tổng cầu.
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tổng cầu sẽ thay đổi ngược chiều với giá cả trung
bình. Đường AD là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cầu và mức giá chung .
AD = F(P)
Tính chất của đường tổng cầu.
Đường tổng cầu có độ dốc âm phản ánh mức giá chung có ảnh hưởng âm đến tổng cầu. Độ dốc
âm của tổng cầu được giải thích bởi các nguyên nhân sau:
• Mức giá và tiêu dùng - hiệu ứng của cải: ảnh hưởng tức thì của sự giảm giá là làm tăng giá trị
thực tế của số tiền mà dân cư nắm giữ. Nếu như người ta giữ một khối lượng tiền nhất định, khi
mức giá chung giảm, họ sẽ có thể mua được nhiều sản phẩm hơn trước.
• Mức giá và đầu tư - Hiệu ứng lãi suất: khi giá cả giảm, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để
mua hàng hoá và dịch vụ mà họ muốn. Do đó họ sẽ giữ ít tiền hơn và cho vay nhiều hơn. Điều này
làm giảm lãi suất và có tác động khuyến khích các doanh nghiệp vay tiền để đầu tư nhiều hơn vào
máy móc, thiết bị.
• Mức giá và xuất khẩu ròng- Hiệu ứng thay thế quốc tế: trong nền kinh tế mở, sự giảm giá của
hàng trong nước làm cho hàng nội trở nên rẻ tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Hình 1.2 Đường biểu diễn tổng cầu AD
Cả ba hiệu ứng này hàm ý rằng, với mọi yếu tố khác giữ nguyên, có một mối quan hệ ngược
chiều giữa mức giá và khối lượng hàng hoá dịch vụ được yêu cầu. Nói cách khác đường tổng
cầu có độ dốc âm.
Những thay đổi của tổng cầu.
Chúng ta vừa thấy GDP thực yêu cầu nghịch biến với mức giá. Những tác động của GDP thực
yêu cầu được biểu thị bởi một chuyển động dọc theo đường tổng cầu, không tạo ra một thay đổi
nào đối với đường tổng cầu trên đồ thị và biểu tổng cầu. Nhưng trong thực tế biểu tổng cầu và
đường cầu không phải là cố định. Có nhiều yếu tố tác động làm thay đổi tổng cầu:
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tiêu dùng. Bất cứ một sự kiện nào làm thay đổi tiêu dùng tại một
mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Một trong những chính sách có ảnh
hưởng đến tiêu dùng là mức thuế. Khi chính phủ cắt giảm thuế, mọi người có xu hướng tiêu dùng
nhiều hơn, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Khi chính phủ tăng thuế mọi người
tiêu dùng ít hơn, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ đầu tư. Bất cứ sự kiện nào làm thay đổi đầu tư của các doanh
nghiệp tại mỗi mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Nếu các doanh nghiệp
hoặc các nhà đầu tư lạc quan trong tương lai họ sẽ tăng đầu tư làm cho đường tổng cầu dịch
chuyển sang phải. Nhưng khi các doanh nghiệp thấy bi quan thì đầu tư sẽ giảm lúc này tổng cầu
sẽ dịch chuyển sang trái.
- Chính sách thuế cũng có ảnh hưởng đến tổng cầu thông qua đầu tư. Nếu chính phủ giảm thuế
khi các doanh nghiệp chi tiêu đầu tư thì sẽ làm tăng lượng cầu về hàng đầu tư của các doanh
nghiệp tại mỗi mức giá. Do đó, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Việc hủy bỏ chính sách
giảm thuế đầu tư làm giảm đầu tư và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
Chính sách khác có thể ảnh hưởng đến tổng cầu là cung ứng tiền tệ. Sự gia tăng trong cung ứng
tiền tệ sẽ làm cho lãi suất giảm trong ngắn hạn. Chi phí đi vay cho đầu tư giảm đi khiến đường
tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Khi cung ứng tiền tệ giảm, lãi suất tăng lên, làm cho nhu cầu
đầu tư giảm xuống và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ chi tiêu chính phủ. Một trong những cách trực tiếp mà các nhà
hoạch định chính sách có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu là thông qua chi tiêu chính phủ.
Chính phủ cắt giảm chi tiêu thì tổng cầu sẽ dịch chuyển sang trái. Ngược lại chính phủ tăng chi
tiêu thì tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ xuất khẩu ròng. Bất cứ biến cố nào làm thay đổi xuất khẩu ròng tại
một mức giá nhất định đều làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Khi xuất khẩu ròng tăng do
bùng nổ kinh tế ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái giảm làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang
phải. Một biến cố làm giảm xuất khẩu ròng như suy thoái ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng đẩy
đường tổng cầu dịch chuyển sang trái
Hình 1.3 Sự di chuyển, dịch chuyển của tổng cầu
2.2. Tổng cung.
2.2.1. Khái niệm.
Tổng cung trong nền kinh tế là tổng khối lượng hàng hoá, dịch vụ mà các doanh nghiệp có khả
năng và sẵn sàng cung ứng ra thị trường trong một thời kỳ nhất định.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung.
- Các nguồn lực: Lao động; Tài nguyên thiên nhiên; Tư bản (máy móc, thiết bị và các công trình
kiến trúc phục vụ cho quá trình sản xuất); và Công nghệ. Các nhà kinh tế sử dụng khái niệm sản
lượng tiềm năng để phản ánh mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra khi các nguồn lực được sử
dụng đầy đủ.
- Mức giá chung.
- Chi phí sản xuất: Phụ thuộc vào giá các yếu tố đầu vào như tiền lương, giá nguyên liệu nhập
khẩu…
2.2.3. Đường tổng cung.
Đường tổng cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cung và mức giá của nền kinh
tế trong điều kiện các nguồn lực và giá cả các yếu tố đầu vào cho trước.
Hàm của đường tổng cung biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá chung và đường tổng cung.
AS = f ( P )
2.2.3.1. Đường tổng cung dài hạn (LAS).
Theo các nhà kinh tế cổ điển, giá cả các yếu tố sản xuất là linh hoạt cho nên thị trường sẽ tự điều
chỉnh để sử dụng hết các yếu tố sản xuất. Do đó, sản lượng không phụ thuộc vào tổng cầu mà
chỉ phụ thuộc vào khối lượng tư bản, lao động và công nghệ hiện có (tổng cung). Nền kinh tế luôn
cân bằng tại mức sản lượng toàn dụng các nguồn lực. Tổng cầu thay đổi chỉ làm thay đổi giá cả
chứ không ảnh hưởng tới sản lượng quốc gia.
Đường tổng cung của phái cổ điển là một đường thẳng đứng ứng với một mức sản lượng toàn
dụng các nguồn lực gọi là sản lượng tiềm năng (Yp: Potential output).
Hình 1.4 Đường tổng cung dài hạn
Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng mà quốc gia đạt được trong tình trạng nền kinh tế toàn
dụng các nguồn lực (tồn tại một mức thất nghiệp gọi là thất nghiệp tự nhiên). Đường tổng cung
thẳng đứng cho thấy sản lượng không phụ thuộc vào mức giá.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn
Bất kỳ yếu tố nào trong nền kinh tế làm thay đổi mức sản lượng tự nhiên cũng làm dịch chuyển
đường tổng cung dài hạn. Các yếu tố làm thay đổi mức sản lượng tự nhiên là:
- Lao động: Một nền kinh tế có sự gia tăng làn sóng nhập cư từ nước ngoài, do đó có nhiều lao
động hơn, lượng cung về hàng hoá và dịch vụ tăng lên. Kết quả là đường tổng cung dài hạn dịch
chuyển sang bên phải. Ngược lại, nếu nhiều công nhân rời bỏ nến kinh tế để ra nước ngoài,
đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang trái. Ngoài ra thất nghiệp tự nhiên cũng ảnh hưởng đến
tổng cung dài hạn. Nếu tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng và sản lượng giảm làm cho tổng cung dài
hạn dịch chuyển sang trái, và ngược lại.
- Tư bản: sự gia tăng khối lượng tư bản làm tăng năng suất, do đó làm tăng lượng cung về hàng
hoá và dịch vụ. Tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Ngược lại , sự suy giảm trong khối
lượng tư bản làm giảm năng suất, giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ, làm cho đường tổng
cung dài hạn dịch chuyển sang trái.
- Tài nguyên thiên nhiên: Nền sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên của nó như đất đai, khoáng sản thời tiết…việc khám phá ra một mỏ khoáng sản có thể làm
cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải. Sự thay đổi thời tiết có thể làm cho
hoạt động canh tác khó khăn hơn và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang trái.
- Tri thức công nghệ: Có lẽ lý do quan trọng nhất để hiện nay chúng ta sản xuất ra nhiều hàng
hoá và dịch vụ hơn thế hệ trước là sự tiến bộ trong tri thức công nghệ. Việc phát minh ra máy tính
đã giúp chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ với lượng lao động, tư bản và tài nguyên
thiên nhiên như cũ kết quả là điều này làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.
2.2.3.2. Đường tổng cung ngắn hạn (SAS)
Trong ngắn hạn đường tổng cung có hướng dốc lên. Nghĩa là trong vòng một hay hai năm, sự gia
tăng trong mức giá chung có xu hướng làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong nền
kinh tế và sự giảm sút mức giá có xu hướng làm giảm lượng cung về hàng hoá.
Đường tổng cung ngắn hạn là một đường đi lên, song tương đối thoải ở mức sản lượng thấp, và
rất dốc khi sản lượng vượt quá mức tiềm năng. Điều này đã đưa đến câu hỏi tại sao đường tổng
cung ngắn hạn dốc lên?
Hình 1.5 Đường tổng cung ngắn hạn
Khi mức giá vượt quá mức dự kiến, sản lượng sẽ vượt quá mức tự nhiên và khi mức giá thấp
hơn mức dự kiến, sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên của nó. Trong ngắn hạn một sự
giảm giá từ P1 xuống P2 làm tổng cung giảm từ Y1 xuống Y2. Mối quan hệ này có thể do nhận
thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc, hay giá cả cứng nhắc. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương
và giá cả điều chỉnh, do đó mối quan hệ thuận này chỉ có tính tạm thời.
Lý thuyết nhận thức sai lầm: theo lý thuyết này, sự thay đổi trong mức giá chung có thể tạm thời
làm cho các nhà cung cấp nhận thức sai lầm về tình hình diễn ra các thị trường cá biệt mà họ bán
sản phẩm của mình. Do nhận thức sai lầm của mình trong ngắn hạn, các nhà cung cấp phản ứng
lại những thay đổi trong mức giá bằng cách cắt giảm sản lượng cung hàng hoá và dịch vụ khi
thấy giá giảm hay họ sẽ tăng cung hàng hoá và dịch vụ khi thấy giá tăng, phản ứng này dẫn đến
đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn.
Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: cách lý giải thứ hai cho đường tổng cung ngắn hạn dốc lên là lý
thuyết tiền lương cứng nhắc. Lý thuyết này cho rằng đường tổng cung ngắn hạn dốc lên vì tiền
lương danh nghĩa điều chỉnh chậm chạp hay “cứng nhắc” trong ngắn hạn. Sự điều chỉnh chậm
chạp của tiền lương là do ràng buộc của các hợp đồng giữa người lao động và doanh nghiệp, do
các quy phạm xã hội hay do cảm nhận về sự công bằng. Tất cả những nguyên nhân này ảnh
hưởng đến quy định tiền lương và chỉ thay đổi chậm chạp theo thời gian.
Do tiền lương không thay đổi ngay theo sự thay đổi của giá, nên mức giá thấp hơn làm cho việc
làm và sản xuất đem lại ít lợi nhuận hơn và điều này làm cho các doanh nghiệp giảm lượng cung
về hàng hoá và dịch vụ.Trái lại, sự gia tăng mức giá làm giảm tiền lương thực tế, làm cho chi phí
thuê lao động trở nên rẻ hơn. Tiền lương thực tế thấp hơn làm cho các doanh nghiệp thuê thêm
lao động, lao động thuê thêm tạo ra nhiều sản lượng hơn.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Lý thuyết này nhấn mạnh rằng giá cả hàng hoá và dịch vụ cũng chậm
điều chỉnh đáp lại các điều kiện kinh tế thay đổi. Sự thay đổi chậm chạp trong giá cả một phần là
do chi phí để điều chỉnh giá cả, gọi là chi phí thực đơn (những chi phí này bao gồm chi phí in và
phân phối các catalô và thời gian để thay đổi các nhãn giá…) Vì lý do này giá cả và tiền lương có
thể cứng nhắc trong ngắn hạn.
Do không phải tất cả các loại giá cả đều điều chỉnh ngay lập tức khi điều kiện kinh tế thay đổi, nên
sự giảm sút bất ngờ trong mức giá có thể làm cho một số doanh nghiệp có giá bán cao hơn mức
mong muốn và điều này làm giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất.
Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức giá và sản lượng hàm ý đường tổng cung dốc lên trong khi tiền
lương danh nghĩa chưa điều chỉnh.
Sự di chuyển và dịch chuyển của đường tổng cung ngắn hạn.
Sự di chuyển dọc đường tổng cung phản ánh sự thay đổi của tổng mức cung do sự thay đổi của
mức giá chung.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung phản ánh sự thay đổi tổng mức cung do sự thay đổi của
giá cả các yếu tố đầu vào hay là sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các trường hợp sau
đây làm dịch chuyển đường tổng cung:
- Sự dịch chuyển phát sinh từ lao động: Sự gia tăng của lượng lao động hiện có (tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên giảm) làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút lượng lao động hiện có
(tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng ) làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tư bản: sự tăng khối lượng lao động hiện có hoặc vốn nhân lực làm
dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút khối lượng tư bản hiện vật hoặc vốn nhân
lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên: sự gia tăng tài nguyên thiên nhiên có làm
dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự suy giảm của tài nguyên thiên nhiên hiện có làm
dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ công nghệ: tiến bộ trong tri thức công nghệ làm cho đường tổng
cung dịch chuyển sang phải. Sự giảm sút của công nghệ (do quy định của chính phủ) làm cho
đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ mức giá dự kiến: sự giảm sút của mức giá dự kiến làm dịch chuyển
đường tổng cung ngắn hạn sang phải. Sự gia tăng của mức giá dự kiến làm dịch chuyển đường
tổng cung ngắn hạn sang trái.
2.3. Cân bằng kinh tế vĩ mô
Cân bằng kinh tế vĩ mô là trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá được xác định tại giao
điểm của các đường tổng cung và tổng cầu. Tại đó, chúng ta xác định được mức sản lượng và
giá cả cân bằng hay tổng khối lượng hàng hoá yêu cầu bằng tổng khối lượng hàng hoá được
cung ứng.
Hình 1.6 Cân bằng tổng cung, tổng cầu
- Nếu mức giá cao hơn P* thì tổng cung lớn hơn tổng cầu, thặng dư cung. Các xí nghiệp sẽ giảm
giá bán cho đến khi thị trường hấp thu hết lượng cung thặng dư.
- Nếu mức giá thấp hơn P* thì tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, thặng dư cầu. Các xí nghiệp sẽ tăng
giá bán cho đến khi thị trường cân bằng lượng cung và cầu.
Ba trường hợp cân bằng kinh tế vĩ mô:
Cân bằng khiếm dụng: GDP thực nhỏ hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh lệch suy thoái.
Cân bằng toàn dụng: GDP thực bằng GDP tiềm năng nền kinh tế đang ở trạng thái toàn dụng
nhân công. Cân bằng trên toàn dụng: GDP thực lớn hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh
lệch lạm phát.
Sự thay đổi của trạng thái cân bằng.
Cú sốc cầu: Khi đường tổng cung có độ đốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu
sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và giá cả. Điều này thường được coi là tốn kém và không
mong muốn.Vì chính phủ có thể ảnh hưởng đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô,
do đó chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn định nền kinh tế.
Các cú sốc cung: các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay
đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc bất lợi
(thời tiết xấu, OPEC tăng giá dầu thế giới…). Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi
là cú sốc cung có lợi.
Chương 2. Đo lường sản lượng và giá cả
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu các tổng lượng kinh tế vĩ mô quan trọng như tổng sản
phẩm trong nước, tổng sản phẩm quốc dân, sản phẩm quốc dân ròng, thu nhập quốc dân và thu
nhập khả dụng. Những tổng lượng này và những tổng lượng có liên quan khác được trình bày
trong chương này tạo thành xương sống của hệ thống hạch toán thu nhập quốc dân (viết tắt là
SNA) được tất cả các nước có nền kinh tế định hướng theo thị trường vận dụng.
I.Luồng thu chuyển thu nhập và chi tiêu
Luồng chu chuyển thu nhập và chi tiêu (còn gọi là chu chuyển kinh tế) là một công cụ phân tích
cho phép tìm ra các phương pháp đo lường tổng chi tiêu, tổng thu nhập và giá trị sản lượng (hoặc
GDP).
1.1. Luồng chu chuyển thu nhập và chi tiêu trong mô hình 2 khu vực Gia đình – xí nghiệp.
Sơ đồ 2.1: chu chuyển kinh tế
• Khu vực hộ gia đình:
• Cung ứng yếu tố sản xuất cho xí nghiệp (vốn đất đai nhà cửa lao động…), nhận được thu nhập
do các xí nghiệp phân phối dưới hình thức tiền lương, tiền lãi, tiền thuê và lợi nhuận.
• Sử dụng phần lớn thu nhập vào việc chi tiêu mua sắm sản phẩm và dịch vụ do xí nghiệp cung
cấp.
• Tiết kiệm phần thu nhập còn lại.
• Khu vực xí nghiệp:
• Sử dụng các yếu tố sản xuất do hộ gia đình cung cấp để tiến hành hoạt động sản xuất và trả
tiền lương, tiền lãi, tiền thuê và lợi nhuận cho hộ gia đình.
• Nhận thu nhập từ bán sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ và bán sản phẩm đầu tư cho các xí nghiệp
trong cùng ngành sản xuất.
• Vay vốn để tài trợ cho đầu tư xí nghiệp.
Sơ đồ 2.2: hạch toán thu nhập và chi tiêu
Y: Tổng thu nhập quốc dân
C: Chi tiêu tiêu dùng của hộ gia đình
I: Chi tiêu đầu tư của Xí nghiệp (Tồn kho và tiền mua sản phẩm đầu tư)
Trong mô hình này, giữa hai khu vực có sự luân chuyển các luồng hiện vật và tiền tệ:
• Luồng hiện vật chảy từ khu vực xí nghiệp đến hộ gia đình.
• Luồng tiền:
• Luồng tiền chảy từ khu vực xí nghiệp đến khu vực gia đình là các khoản thu nhập (lương, lãi,
thuê, lợi nhuận).
• Luồng tiền chảy từ khu vực hộ gia đình đến khu vực xí nghiệp là các khoản chi tiêu.
Trong một nền kinh tế, nếu là một chi tiêu để mua sản phẩm cuối cùng, nội địa thì chi tiêu của
người này chính là thu nhập của người khác; hay nói cách khác chi tiêu và thu nhập là hai mặt
của một giao dịch. Do đó, tổng thu nhập bằng tổng chi tiêu (Y = C + I). Mặt khác giá trị sản lượng
là giá trị của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng do khu vực xí nghiệp sản xuất ra, đó chính là
tổng giá bán sản phẩm và dịch vụ. Mà tổng giá bán sản phẩm và dịch vụ chính là tổng chi tiêu.
Như vậy tổng chi tiêu ngang bằng với giá trị sản lượng.
Tổng thu nhập = Tổng chi tiêu = Giá trị sản lượng
Đầu tư và tiết kiệm:
• Đầu tư (I) là phần xí nghiệp mua máy móc thiết bị mới cho sản xuất và hàng tồn kho. Trong nền
kinh tế giản đơn thì tổng sản lượng (Y) sẽ là:
Y=C+I
(I)
Tiết kiệm (S): là một phần của thu nhập nhưng không để mua hàng hoá. Tổng thu nhập (Y) của
nền kinh tế lúc này:
Y=C+S
(II)
Từ (I) và (II) Suy ra đồng nhất thức I = S.
1.2. Luồng chu chuyển thu nhập và chi tiêu mô hình 3 khu vực.
Các khu vực trong mô hình này bao gồm: Khu vực hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp, khu vực
chính phủ.
Khu vực hộ gia đình:
- Nguồn thu cũng từ việc cung cấp yếu tố sản xuất cho khu vực xí nghiệp, doanh nghiệp nhưng
lúc này các hộ gia đình có thêm nguồn thu đó là các khoản chi chuyển nhượng của chính phủ (Tr)
cho các hộ gia đình. Bên cạnh đó các hộ gia đình phải đóng thuế (Td) cho chính phủ. Do đó, thu
nhập khả dụng (Yd) của hộ gia đình lúc này là:
Yd = Y – Td +Tr
- Chi tiêu của hộ gia đình là những chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ và tiết kiệm:
Yd = C + S
Khu vực doanh nghiệp:
- Thu nhập của khu vực doanh nghiệp từ bán hàng hoá và dịch vụ cho khu vực hộ gia đình, khu
vực chính phủ.
- Chi tiêu của khu vực doanh nghiệp bao gồm các khoản: thuế gián thu, chi khấu hao, chi trả
lương công nhân viên, chi trả tiền thuê, chi trả lãi vay và lợi nhuận.
Khu vực chính phủ:
- Thu nhập của chính phủ là thuế (Tx). Thuế bao gồm thuế trực thu (Td: thuế đánh trên thu nhập
dân cư và cả thu nhập không thường xuyên), thuế gián thu (Ti: đánh trên giá trị hàng hoá của
doanh nghiệp như thuế VAT, thuế nhập khẩu…)
- Chi tiêu của chính phủ bao gồm chi mua hành hoá và dịch vụ (G: chi cho các hoạt động quốc
phòng, an ninh, giáo dục, y tế…) và chi chuyển nhượng (Tr: chi trợ cấp người già, người hưởng
chế độ chính sách, học bổng học sinh nghèo…).
- Thuế ròng (TN) chảy từ khu vực gia đình sang khu vực chính phủ là chênh lệch giữa tiền thuế và
khu vực gia đình nộp cho khu vực chính phủ và tiền chi chuyển nhượng (chi chuyển nhượng là
các khoản trợ cấp mà khu vực chính phủ cho khu vực gia đình được hưởng không đòi hỏi phải có
một lượng hàng hoá hoặc dịch vụ để trao đổi).
TN = Tx - Tr
- Chi tiêu của chính phủ để mua sản phẩm và dịch vụ (G), chảy từ khu vực chính phủ sang khu
vực xí nghiệp, là khoản tiền mà chính phủ phải trả để được sử dụng các sản phẩm và dịch vụ do
khu vực xí nghiệp sản xuất. Đây là tổng cộng các chi tiêu ngân sách của chính phủ (trung ương
và địa phương) trong một thời kỳ . Thặng dư hay thâm hụt ngân sách của chính phủ tuỳ thuộc
vào sự so sánh giữa G và TN. Nếu G > TN thì ngân sách thâm hụt, nếu G < TN thì ngân sách
thặng dư. Trong trường hợp thâm hụt, ngân sách có thể tài trợ bằng các khoản vay trên thị
trường tài chính.
Sơ đồ 2.3: hạch toán thu nhập và chi tiêu mô hình 3 khu vực
1.3. Luồng chu chuyển thu nhập và chi tiêu mô hình 4 khu vực.
Đối với một nền kinh tế mở cửa thì không thể không kể đến hành vi kinh tế của khu vực nước
ngoài. Khu vực nước ngoài mua sản phẩm và dịch vụ do các xí nghiệp trong nước sản xuất. Bán
sản phẩm và dịch vụ cho các xí nghiệp trong nước. Thông qua thị trường tài chính cho các xí
nghiệp và các hộ gia đình trong nước vay tiền.
Sơ đồ 2.4: hạch toán thu nhập và chi tiêu mô hình 4 khu vực
Xuất khẩu ròng (NX) là chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu: Nếu xuất khẩu lớn hơn nhập
khẩu có luồng tiền chảy từ khu vực nước ngoài vào khu vực xí nghiệp (Cán cân thương mại
thặng dư). Nếu xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu có luồng tiền chảy từ khu vực xí nghiệp ra nước
ngoài (Cán cân thương mại bị thâm hụt).
Tổng thu nhập luôn luôn ngang bằng với tổng chi tiêu
Xét khu vực xí nghiệp có 4 luồng tiền chảy vào khu vực này: C, I, G và NX. Đó là tổng giá trị kết
quả sản xuất của khu vực xí nghiệp và cũng là tổng chi tiêu về sản phẩm và dịch vụ cuối cùng nội
địa.
Tổng giá trị kết quả sản xuất của khu vực xí nghiệp, sau khi trích khấu hao, phải được dùng để
chi phí cho các yếu tố sản xuất đã sử dụng để chuyển thành tổng thu nhập của khu vực gia đình.
Do đó, tổng thu nhập của các yếu tố sản xuất (Y) phải ngang bằng với luồng tổng chi tiêu (C, I, G,
NX) của nền kinh tế.
Y = C + I + G + NX
Giá trị sản lượng (GDP) cũng luôn ngang bằng với tổng chi tiêu và tổng thu nhập.
Trong mô hình này, tổng chi tiêu chỉ bao gồm các chi tiêu để mua sản phẩm cuối cùng, nội địa.
Tuy nhiên, vì có chính phủ nên thành phần của tổng thu nhập, ngoài việc bao gồm cả khấu hao
giống như ở mô hình trước, còn phải cộng thêm thuế gián thu. Nếu khu vực xí nghiệp có nhận trợ
cấp hay trợ giá của chính phủ thì phải trừ phần trợ cấp đó ra khỏi thu nhập.
Khu vực hộ gia đình:
Có một luồng tiền chảy vào khu vực hộ gia đình đó là thu nhập (Y), có 3 luồng tiền chảy ra khỏi
khu vực gia đình là: tiêu dùng (C), tiết kiệm (S) và thuế ròng (TN).
Thu nhập khả dụng (YD) của khu vực hộ gia đình là chênh lệch giữa thu nhập (Y) và thuế ròng
(TN)
YD = Y - TN
Tiết kiệm (S) là chênh lệch giữa thu nhập khả dụng và chi tiêu tiêu dùng (C)
S = YD – C
hoặc S = Y – TN – C
Từ định nghĩa trên của tiết kiệm ta suy ra: Y = C + S + TN
Đẳng thức xuất khẩu ròng và đầu tư nước ngoài ròng.
Thuật ngữ đầu tư nước ngoài ròng ám chỉ lượng tài sản nước ngoài do các nhà đầu tư trong
nước mua của nước ngoài trừ đi lượng tài sản trong nước do người nước ngoài mua (NFI).
Xuất khẩu ròng phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Đầu tư
nước ngoài ròng phản ánh sự chênh lệch giữa lượng tài sản nước ngoài do cư dân trong nước
mua với lượng tài sản trong nước do người nước ngoài mua.
Nếu tính trên bình diện cả nền kinh tế thì đầu tư nước ngoài ròng luôn luôn bằng xuất khẩu ròng:
NFI = NX
Sự bằng nhau giữa đầu tư nước ngoài ròng xuất phát từ một thực tế là mọi giao dịch quốc tế đều
là sự trao đổi. Khi nước bán hàng chuyển giao hàng hoá và dịch vụ cho nước mua, nước mua từ
bỏ một tài sản nào đó để có được hàng hoá hoặc dịch vụ này. Giá trị của tài sản đó bằng giá trị
của hàng hoá và dịch vụ mà một nước bán ra (NX) phải bằng giá trị ròng của tài sản thu được
(NFI). Luồng chu chuyển của hàng hoá và dịch vụ và luồng chu chuyển vốn quốc tế chỉ là hai mặt
của cùng một vấn đề.
Để xem tại sao đồng nhất thức kế toán này lại đúng, chúng ta hãy xét một ví dụ. Chúng ta hãy giả
định rằng Boeing, một nhà sản xuất máy bay Mỹ, bán một số phi cơ cho một hãng hàng không
của Nhật. Trong giao dịch này, công ty Mỹ giao máy bay cho công ty Nhật và công ty Nhật trả
đồng yên cho công ty Mỹ. Cần chú ý rằng, hai giao dịch này xảy ra đồng thời. Nước Mỹ đã bán
cho Nhật một phần sản lượng của nó (máy bay) và điều này làm cho xuất khẩu ròng của Mỹ tăng
lên. Ngoài ra, nước Mỹ thu về một số tài sản (đồng yên) và điều này làm tăng đầu tư nước ngoài
ròng của Mỹ.
Mặc dù có nhiều khả năng Boeing không giữ đồng yên thu được từ hoạt động bán hàng này,
nhưng bất kỳ giao dịch tiếp nào cũng vẫn bảo đảm sự bằng nhau giữa xuất khẩu ròng và đầu tư
ròng. Ví dụ, Boeing bán đồng yên cho một quỹ hỗ tương để lấy đô la vì quỹ này đang cần đồng
yên để mua cổ phiếu của công ty Sony, một công ty sản xuất đồ điện tử gia dụng của Nhật. Trong
trường hợp này, xuất khẩu ròng về máy bay của Boeing đúng bằng đầu tư ròng vào cổ phiếu của
công ty Sony mà quỹ hỗ tương đã thực hiện. Do vậy, NX và NFI tăng một lượng như nhau.
Boeing cũng có thể làm theo cách khác. Nó đổi đồng yên để lấy đô la của một công ty Mỹ khác
đang muốn mua máy tính do công ty máy tính Toshiba của Nhật sản xuất. Trong trường hợp này,
nhập khẩu máy tính của Mỹ bù trừ cho xuất khẩu máy bay của Mỹ. Tác động đồng thời của việc
bán hàng do Boeing và Toshiba thực hiện không làm thay đổi xuất khẩu ròng và đầu tư ròng của
Mỹ. Nói cách khác, NX và NFI vẫn nguyên như trước khi các giao dịch xảy ra.
Sự bằng nhau giữa đầu tư nước ngoài ròng và xuất khẩu ròng xuất phát từ một thực tế là mọi
giao dịch quốc tế đều là sự trao đổi. Khi nước bán hàng chuyển giao hàng hóa dịch vụ cho nước
mua, nước mua từ bỏ một tài sản nào đó để có được hàng hóa hoặc dịch vụ này. Giá trị của tài
sản đó bằng giá trị của hàng hóa và dịch vụ bán ra. Nếu chúng ta cộng mọi thứ lại với nhau, giá
trị ròng của hàng hóa dịch vụ mà một nước bán ra (NX) phải bằng giá trị ròng của tài sản thu
được (NFI). Luồng chu chuyển của hàng hóa dịch vụ và luồng chu chuyển vốn quốc tế chỉ là hai
mặt của cùng một vấn đề.
Tiết kiệm, đầu tư và mối quan hệ giữa chúng với luồng chu chuyển quốc tế
Tổng sản phẩm trong nước (Y) của nền kinh tế bao gồm bốn thành tố: tiêu dùng (C), đầu tư (I),
chi tiêu chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX). Chúng được biểu thị:
Y = C + I + G + NX
Tiết kiệm quốc gia là phần thu nhập của quốc gia còn lại sau khi đã chi tiêu cho tiêu dùng của tư
nhân và chính phủ. Tiết kiệm quốc gia S = Y - C – G, Viết lại phương trình trên:
Y - C- G = I + NX
S = I + NX
Do xuất khẩu ròng NX bằng đầu tư nước ngoài ròng, nên phương trình trên có thể viết thành:
S = I + NFI
Tiết kiệm = Đầu tư trong nước + Đầu tư nước ngoài ròng
Phương trình này cho thấy tiết kiệm quốc gia phải bằng đầu tư trong nước cộng với đầu tư nước
ngoài ròng. Nói cách khác, khi công dân một nước tiết kiệm 1 đô la từ thu nhập cho tương lai, thì
họ có thể dùng 1 đô la đó cho việc mua tài sản trong nước hay tài sản nước ngoài.
Khi bàn về vai trò của hệ thống tài chính chúng ta đã xem xét đồng nhất thức này trong trường
hợp đặc biệt của nền kinh tế đóng. Trong nền kinh tế đóng, đầu tư nước ngoài ròng bằng không
(NFI=0) và do vậy đầu tư bằng tiết kiệm. Ngược lại, nền kinh tế mở có thể dùng tiết kiệm vào hai
việc: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Cũng như trước, hệ thống tài chính đứng giữa hai vế của đồng nhất thức này. Ví dụ, gia đình ông
Tiến quyết định tiết kiệm một phần thu nhập để lo lúc về già. Quyết định này đóng góp vào tiết
kiệm quốc gia, tức vế trái của phương trình. Nếu gia đình ông Tiến gửi tiết kiệm của họ vào một
quỹ hỗ tương và nếu quỹ này mua cổ phiếu của công ty AGIFISH, công ty đó có thể dùng tiền để
xây dựng nhà máy ở An Giang. Ngoài ra, quỹ này có thể dùng một phần tiết kiệm đó để mua cổ
phiếu của Cty Toyota và công ty này dùng vốn đó để xây dựng nhà máy ở Osaka. Những giao
dịch này được ghi ở vế phải của phương trình. Đứng trên quan điểm hạch toán của Việt nam, chi
tiêu của AGIFISH được ghi là đầu tư trong nước, việc mua cổ phiếu của Toyota của một công
dân Việt nam là đầu tư nước ngoài ròng. Như vậy, tất cả các khoản tiết kiệm của Việt nam đều
được ghi là đầu tư trong nền kinh tế Việt nam và đầu tư nước ngoài ròng của Việt nam.
1.4. Các tài khoản thu nhập và chi tiêu.
Từ sơ đồ diễn tả luồng luân chuyển thu nhập và chi tiêu chúng ta có thể thiết lập hai tài khoản thu
nhập và chi tiêu.
Tài khoản thu nhập và chi tiêu của khu vực gia đình
Thu nhập
Chi tiêu
- Thu nhập từ việc bán
hoặc cho thuê yếu tố
sản xuất (Y)
- Tiền mua sản phẩm và dịch vụ tiêu
dùng (C)
- Tiền thuế trừ tiền trợ cấp của chính
phủ (TN)
- Tiết kiệm (S)
Tổng cộng: Y
Y
Tài khoản thu nhập và chi tiêu của khu vực xí nghiệp
Thu nhập
Chi tiêu
- Tiền bán sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng
(C)
- Tiền bán sản phẩm đầu tư (I)
- Tiền bán s. phẩm và dịch vụ cho chính
phủ (G)
- Tiền chi cho các yếu
tố sản xuất (Y)
- Tiền bán s. phẩm và d. vụ cho nước
ngoài trừ tiền mua s. phẩm và d. vụ của
nước ngoài NX
Tổng cộng: Y
Y
1.5. Các luồng bơm vào và các luồng rò rỉ
Các luồng thu nhập chảy từ khu vực xí nghiệp sang khu vực gia đình và các luồng chi tiêu tiêu
dùng chảy từ khu vực gia đình sang khu vực xí nghiệp hình thành một luồng luân chuyển thu
nhập và chi tiêu gọi là chu chuyển kinh tế.
- Các luồng “bơm vào”chu chuyển kinh tế là các yếu tố như: đầu tư, mua sản phẩm và dịch vụ
của chính phủ và xuất khẩu.
- Các luồng rò rỉ ra khỏi chu chuyển kinh tế là thuế ròng, tiết kiệm và nhập khẩu.
Y = C + I + G + NX
(1)
Xuất khẩu ròng (NX) là chênh lệch giữa xuất khẩu (EX) và nhập khẩu (IM).
- Xem thêm -