Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh tế - Quản lý Quản lý nhà nước Tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các nhtmcp trên địa bàn tp...

Tài liệu Tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các nhtmcp trên địa bàn tp.hcm

.PDF
84
1163
137

Mô tả:

Luận văn cao học Tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH --------------------------- PHAN THỊ BÍCH TUYỀN TÁI CƠ CẤU THEO HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP.Hồ Chí Minh – 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH --------------------------- PHAN THỊ BÍCH TUYỀN TÁI CƠ CẤU THEO HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG TP.Hồ Chí Minh – 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu mang tính độc lập của cá nhân. Luận văn được hoàn thành sau quá trình học tập, nghiên cứu thực tiễn, kinh nghiệm bản thân và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trương Thị Hồng. Số liệu trong luận văn này được thu thập từ nguồn thực tế. Tác giả: Phan Thị Bích Tuyền MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký tự, chữ viết tắt LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1 2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu .......................................................2 3. Mục tiêu nghiên cứu ...........................................................................................2 4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu .....................................................3 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................................................3 6. Kết cấu của luận văn...........................................................................................4 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG .................................................................................. 5 1.1. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ...........................................................................5 1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ................................5 1.1.2. Mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.........................................................11 1.1.3. Nội dung tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ........................................................12 1.1.4. Dự báo khả năng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ...........................................13 1.2. Một số tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của NHTMCP .............................14 1.2.1. Yếu tố định lượng...........................................................................................15 1.2.2. Yếu tố định tính ..............................................................................................19 1.3. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của một số nước trong khu vực ......................22 1.3.1. Trung Quốc ....................................................................................................22 1.3.2. Thái Lan .........................................................................................................28 1.3.3. Malaysia .........................................................................................................31 1.4. Bài học kinh nghiệm về tái cơ cấu của một số nước trong khu vực ................34 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM ........................................................................... 41 2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM ....41 2.2. Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM .............................................................................................................43 2.2.1. Quy mô vốn ....................................................................................................43 2.2.2. Chất lượng tài sản...........................................................................................46 2.2.3. Khả năng thanh toán .......................................................................................51 2.2.4. Khả năng sinh lời ...........................................................................................53 2.2.5. Trình độ công nghệ ........................................................................................57 2.2.6. Chất lượng nguồn nhân lực ............................................................................60 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TÁI CƠ CẤU THEO HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM ........... 65 3.1 Định hướng và giải pháp chung để tái cơ cấu hệ thống NHTMCP Việt Nam .65 3.1.1. Định hướng......................................................................................................65 3.1.2. Giải pháp chung ..............................................................................................66 3.2 Một số giải pháp tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM ..............................................................................70 3.2.1. Đối với NHTMCP ..........................................................................................71 3.2.2. Đối với NHNN và các cơ quan nhà nước ......................................................73 KẾT LUẬN .................................................................................................. 76 Danh mục tài liệu tham khảo DANH MỤC CÁC KÝ TỰ, CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu Agribank ATM BIDV HĐQT NHNN (VN) NHTM(VN) NHTMCP NHTMNN NHTW TCTD TNHH TP.HCM USD VĐL Vietcombank Vietinbank VND Diễn giải Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Máy rút tiền tự động NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Hội đồng quản trị Ngân hàng Nhà nước (Việt Nam) Ngân hàng thương mại (Việt Nam) Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại Nhà nước Ngân hàng Trung ương Tổ chức tín dụng Trách nhiệm hữu hạn Thành phố Hồ Chí Minh Đồng dollar Mỹ Vốn điều lệ NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam NHTMCP Công Thương Việt Nam Đồng Việt Nam 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay đã và đang phát triển rất nhanh về số lượng, quy mô, đa dạng về loại hình và sở hữu. Tính đến nay, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại có cổ phần chi phối của Nhà nước, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 18 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, 1 Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương, 968 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 1 tổ chức tài chính vi mô. Có thể thấy rằng hệ thống tổ chức tín dụng hiện nay thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Do đó sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống các tổ chức tín dụng là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Mặc dù tăng nhanh về số lượng và tổng tài sản, hệ thống tổ chức tín dụng nước ta vẫn chưa thực sự phát triển, một bộ phận ngân hàng thương mại cổ phần là những ngân hàng quy mô nhỏ, quản trị rủi ro kém và rất dễ bị tổn thương trước những cú sốc. Tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ chốt cung cấp vốn cho sự vận hành của nền kinh tế và gắn với khu vực doanh nghiệp và các thị trường tài sản. Những đặc điểm này khiến hệ thống tài chính – ngân hàng đang đối diện với một số rủi ro lớn như: rủi ro thanh khoản; rủi ro đạo đức (hành vi thiếu trách nhiệm) đi kèm với rủi ro nợ xấu; rủi ro chéo với các thị trường tài sản… Với những rủi ro trên, hệ thống các tổ chức tín 2 dụng Việt Nam hiện nay trở nên rất nhạy cảm và dễ tổn thương trước những cú sốc vĩ mô bất lợi. Vì vậy, tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của hệ thống các tổ chức tín dụng là bước đi cần thiết. Quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã diễn ra ở nhiều nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia…sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997 – 1998. Thông qua việc giải thể một số ngân hàng yếu kém, tiến hành sáp nhập một số ngân hàng yếu hơn vào ngân hàng khoẻ mạnh và củng cố lại hoạt động của các ngân hàng còn lại trong hệ thống để đảm bảo rằng sau khi tiến hành tái cơ cấu, hệ thống ngân hàng sẽ hoạt động an toàn và hiệu quả hơn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định thực hiện đề tài: “Tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM”. 2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu luận văn là năng lực tài chính của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích năng lực tài chính của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM (14 ngân hàng), thời kỳ nghiên cứu là 3 năm (từ năm 2010-2012). 3. Mục tiêu nghiên cứu - Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Tìm hiểu kinh nghiệm về việc tái tổ chức hệ thống ngân hàng tại một số nước trong khu vực. Nêu lên một số tiêu chí để đánh giá năng lực tài chính của hệ thống NHTMCP Việt Nam hiện nay. 3 - Đánh giá những tồn tại và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp giúp cho việc tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn được hiệu quả. 4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp luận Luận văn vận dụng các vấn đề về lý luận cơ bản của việc tái cơ cấu ngân hàng, dựa vào bài học kinh nghiệm trong việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của một số nước trong khu vực, phân tích năng lực tài chính của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp liên quan đến việc nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM. 4.2 Phương pháp: Luận văn kết hợp các phương pháp mô tả thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và coi trọng phương pháp đúc kết thực tiễn bài học kinh nghiệm về tái cơ cấu ngân hàng của một vài nước trong khu vực để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Đề tài nghiên cứu góp phần hoàn thiện lý luận về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và năng lực tài chính của các NHTMCP. Qua đó, đưa ra được các giải pháp để giúp các nhà quản trị ngân hàng tham khảo, xem xét để xây dựng định hướng nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trong môi trường hoạt động mới đầy khó khăn và thách thức, giúp các cơ quan nhà nước có cái nhìn tổng thể về hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay để có những giải pháp chỉ đạo, quản lý phù hợp 4 nhằm góp phần thành công trong công cuộc tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài danh mục các ký tự, chữ viết tắt, danh mục các bảng số liệu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 76 trang được trình bày theo kết cấu chính sau: Phần mở đầu. Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Chương 2: Thực trạng năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM. Chương 3: Giải pháp tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM. Kết luận. 5 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 1.1. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng 1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết tái cơ cấu hệ thống ngân hàng 1.1.1.1. Khái niệm về tái cơ cấu ngân hàng Đối với mỗi quốc gia, việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, nhất là đối với các NHTM, không phải là hoạt động có tính chất thực hiện theo định kỳ mà chỉ tiến hành khi có những vấn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của các ngân hàng nói riêng. Có thể kể đến một số vấn đề điển hình như khủng hoảng kinh tế; nợ xấu gia tăng, tỷ lệ an toàn vốn thấp, các ngân hàng thực hiện chức năng trung gian không hiệu quả, khuôn khổ giám sát và quản lý yếu kém, niềm tin sụt giảm,… Từ cách hiểu trên, về cơ bản có thể khái quát, tái cơ cấu ngân hàng là các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống ngân hàng, mà các khiếm khuyết này có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng trên toàn hệ thống, nhằm mục đích duy trì ổn định và hiệu quả các chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng thanh toán và tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, qua đó đưa nền kinh tế phát triển theo hướng ổn định, hiệu quả và bền vững. Hay tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm một loạt các giải pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng (WB, 1998). Nói cách khác, tái 6 cơ cấu ngân hàng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động của toàn hệ thống để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng (Claudia Dziobek, Ceyla Pazarbasioglu, 1998). Đối tượng của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thường hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Xét theo nghĩa rộng, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là quá trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm: NHTW, hệ thống NHTM, hệ thống ngân hàng chính sách và ngân hàng phát triển và hệ thống các TCTD vi mô. Xét theo nghĩa hẹp, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của một trong những cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là một ngân hàng có nguy cơ đỗ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân hàng vẫn hoạt động hiệu quả. Tái cơ cấu ngân hàng bao gồm tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu hoạt động và giám sát an toàn. Trong đó tái cơ cấu tài chính hướng đến việc phục hồi khả năng thanh toán bằng cách cải thiện bảng cân đối của các ngân hàng thông qua các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ xấu hoặc nâng giá trị tài sản. Tái cơ cấu hoạt động hướng tới mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng cách chú trọng hơn đến chiến lược hoạt động, cải thiện hiệu quả năng lực quản trị và hệ thống kế toán, nâng cao năng lực thẩm định tín dụng. Như vậy, từ những vấn đề nêu trên cho thấy tái cơ cấu hệ thống TCTD đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm góp phần chủ lực đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng hay suy thoái. 1.1.1.2. Sự cần thiết tái cơ cấu các ngân hàng Việt Nam hiện nay Năm 2012, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới vô vàn khó khăn, hệ thống ngân hàng của nước ta có nhiều thách thức, tái cơ cấu đã 7 được thực hiện thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, phân nhóm,… Song vẫn còn đó các yếu tố liên quan đến sự cần thiết phải tiếp tục tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và các giải pháp tiếp theo cho vấn đề này. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ giúp giải quyết được rất nhiều vấn đề còn tồn tại của hệ thống, trong đó phải kể đến ba vấn đề nổi bật, đó là chất lượng tài sản kém, thanh khoản khó khăn và quy mô vốn tự có nhỏ. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng Việt Nam có chất lượng tài sản kém, thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Đây là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến sự phát triển và tính bền vững của hệ thống các ngân hàng Việt Nam. Theo số liệu báo cáo của NHNNVN, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở mức 3,1% trong năm 2011 đã tăng vọt lên mức 8,86% trong năm 2012 (tăng 211%). Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2012 thấp hơn nhiều so với những năm trước trong khi tỷ lệ nợ xấu tăng rất cao đã phản ánh nợ xấu chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đồng thời cho thấy chất lượng tín dụng đang theo chiều hướng xấu. Một trong những nguyên nhân làm cho nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng cao là do tỷ lệ dư nợ phi sản xuất chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ, thậm chí có ngân hàng tỷ lệ này lên tới hơn 50%. Ngân hàng Nhà nước cũng công bố, hai trong ba lĩnh vực thuộc cho vay phi sản xuất là cho vay bất động sản và chứng khoán toàn hệ thống chiếm tới 12% tổng dư nợ. Đây là hai lĩnh vực cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro vì đây là những ngành đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ suy thoái kinh tế: thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán giảm điểm kéo dài. Nếu như một phần dư nợ phi sản xuất này không được thanh toán thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng cao. Bên cạnh đó, với lãi suất cho vay cao như hiện nay, nhiều doanh nghiệp không đủ lợi nhuận để trả lãi ngân hàng, khiến nợ xấu trong hệ thống có xu hướng tăng cao. Thêm vào đó, 8 thời gian gần đây, rất nhiều vụ vỡ nợ tín dụng đen đã diễn ra nhiều địa phương với quy mô lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tỷ lệ nợ xấu. Thứ hai, những khó khăn về thanh khoản đang khiến nhiều ngân hàng điêu đứng. Những khó khăn này đã được thể hiện rất rõ ở những cuộc đua lãi suất trên cả thị trường 1 (là thị trường giữa ngân hàng với khách hàng) và thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng). Huy động ở thị trường 1 trở nên rất khó khăn, đến mức người gửi tiết kiệm có thể mặc cả lãi suất với ngân hàng.Trong giai đoạn này, có những lúc lãi suất huy động từ dân cư lên đến 20%. Chỉ đến khi NHNN thực hiện biện pháp mạnh thì việc huy động vượt trần lãi suất mới tạm dừng và lắng xuống. Sự thiếu thanh khoản trầm trọng đã buộc một số NHTM phụ thuộc cao vào thị trường 2, đến mức lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã bị đẩy lên tới 20%. Một số ngân hàng cá biệt gặp vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản đã chấp nhận trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn nhằm huy động vốn bằng mọi giá. Thứ ba, thiếu vốn tự có. Nhìn chung, quy mô vốn của các NHTM Việt Nam hiện nay còn rất mỏng. Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất trong hệ thống như Agribank, Vietcombank, Vietinbank hay BIDV cũng chỉ khoảng 800 triệu USD, thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực (như ngân hàng Bangkok của Thái Lan hơn 3 tỷ USD, ngân hàng Mandiri của Indonesia hơn 2 tỷ USD, ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ USD). Cùng với đó, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của các NHTM trong nước hiện nay vào khoảng 11%, mặc dù đã đáp ứng đủ yêu cầu của NHNNVN (tối thiểu là 9%) nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực Châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) và tỷ lệ 12,3% của các ngân hàng các nước trong khu vực. 9 Một đặc điểm đáng chú ý là hiện nay tỷ lệ đòn bẩy vốn của các ngân hàng Việt Nam vẫn ở mức cao. Vì vậy, mặc dù hệ số an toàn vốn tự có trên tài sản có rủi ro cũng như vốn tự có trên tổng tài sản có sự cải thiện, tuy nhiên theo khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số CAR ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng. Giá trị hệ số CAR phụ thuộc rất lớn vào mẫu số là tài sản rủi ro, tuy nhiên yếu tố này có thể tăng nhanh chóng trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, khiến cho hệ số CAR có thể sụt giảm, không phát huy được vai trò cảnh báo và phòng ngừa rủi ro. Do đó, tính an toàn thực chất của ngân hàng được phản ánh rõ nét hơn qua tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản. Bên cạnh ba nguyên nhân chính như đã nêu trên, một vài nguyên nhân sau đây cũng ảnh hưởng đến sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Đó là các yếu tố kinh tế vĩ mô bất ổn. So với những năm trước đây, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 chỉ đạt 5,03%, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra từ đầu năm và thấp nhất kể từ năm 1999 trở lại đây. Sau giai đoạn tăng trưởng cao trên 8% từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu giảm xuống từ năm 2008 trở lại đây. Thời kỳ tăng trưởng nóng đi kèm với lạm phát cao và việc chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2011 đã khiến cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2012 và có thể là những năm sau phải gánh chịu nhiều hệ lụy. Kết quả là hàng tồn kho trong nền kinh tế tăng mạnh, dẫn đến nhiều doanh nghiệp, là đối tượng khách hàng quan trọng của hệ thống ngân hàng, phải thu hẹp sản xuất, ngừng hoạt động, thậm chí giải thể. Bên cạnh đó, vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng kém hiệu quả. Sau nhiều năm đóng vai trò là trái tim bơm vốn cho sự phát triển của toàn bộ 10 nền kinh tế Việt Nam có truyền thống thâm dụng vốn, trong thời gian gần đây, chức năng trung gian tín dụng của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Dư nợ đối với nền kinh tế tăng trưởng chậm, thậm chí có năm tăng trưởng âm so với năm trước. Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp giảm do nhiều doanh nghiệp giải thể, tình hình tài chính doanh nghiệp suy yếu kết hợp với lãi suất vay ngân hàng tuy có giảm nhưng lãi suất thực vẫn ở mức cao hơn so với khả năng sinh lời của doanh nghiệp khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Ngoài ra nguồn vốn tín dụng bị hạn chế do chính sách phòng thủ của ngân hàng trước bối cảnh nợ quá hạn và nợ xấu gia tăng liên tục. Ngoài ra, lòng tin vào hệ thống ngân hàng đã suy giảm. Một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự tin tưởng của công chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng, đồng thời cũng giúp cho NHNN đưa ra những quyết định chính sách kịp thời chính là vấn đề minh bạch, chính xác của thông tin. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, hệ thống thông tin về tiền tệ và ngân hàng còn nhiều yếu kém. Đó là việc “xào nấu” thông tin, làm đẹp báo cáo tài chính để che đậy nợ xấu, các khoản lỗ, che giấu tỷ trọng tín dụng vào các lĩnh vực nhiều rủi ro; đi đêm lãi suất với khách hàng;… Kết quả là sự suy giảm lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, thể hiện ở việc người dân có thói quen nắm giữ vàng hay ngoại tệ thay cho việc gửi tiết kiệm bằng VND. Mặc dù trong thời gian gần đây vốn dân cư chảy vào hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng nhưng chủ yếu là do sự hạn chế trong hiệu quả của các kênh đầu tư khác. Ngoài ra, những vấn đề tiêu cực xuất phát từ những giao dịch thiếu minh bạch liên quan đến sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng đã tác động không nhỏ làm giảm sút lòng tin vào hệ thống ngân hàng. Nhiều ngân hàng trong một thời gian dài đã được sử dụng như là “sân sau” của nhiều doanh nghiệp, thực hiện việc cho vay vào những dự án đầu tư dài 11 hạn, rủi ro cao nhưng kém hiệu quả. Cùng với việc thiếu minh bạch trong các thông tin tài chính, cơ cấu sở hữu chồng chéo và không rõ ràng đã tạo bất ổn và thiếu lòng tin cho phía đối tác của ngân hàng cho dù họ là người đi vay hay gửi tiền. 1.1.2. Mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam là tiến hành cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống ngân hàng nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các ngân hàng để phát triển được các ngân hàng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình, có khả năng cạnh tranh mạnh hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính – ngân hàng của nền kinh tế; từng bước nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng nhằm tạo tiền đề để Việt Nam có thể phát triền được hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình, có khả năng cạnh tranh lớn hơn;... tiến tới hình thành được một vài ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực. Mục tiêu cụ thể trước mắt của tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn hiện nay là tập trung vào một số vấn đề sau: - Đạt được vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II (8%); - Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với vốn huy động đạt mức bình quân toàn hệ thống không quá 85%. 12 - Củng cố phát triển hoạt động kinh doanh chính và loại bỏ các lĩnh vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả; chuyển dịch mô hình kinh doanh theo hướng giảm bớt phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu từ các dịch vụ phi tín dụng. - Tăng tính minh bạch hóa thông qua áp dụng cơ chế mới về công bố thông tin của các NHTM; phát triển hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel. 1.1.3. Nội dung tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Thứ nhất, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và từng tổ chức ngân hàng là một quá trình thường xuyên, liên tục nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém và chủ động đối phó với những thách thức để các ngân hàng không ngừng phát triển một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Thứ hai, củng cố, phát triển hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Xây dựng một hệ thống ngân hàng bao gồm các ngân hàng lớn, hoạt động lành mạnh đóng vai trò làm trụ cột trong hệ thống, có khả năng cạnh tranh trong khu vực, đồng thời có những ngân hàng vừa và nhỏ, TCTD phi ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp trong xã hội. Nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là đảm bảo các ngân hàng thương mại nhà nước thực sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các TCTD, đồng thời có đủ năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước. Thứ ba, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và các 13 quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống, một số ngân hàng có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật. Thứ tư, thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các ngân hàng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp. Hình thức và biện pháp cơ cấu lại ngân hàng được áp dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng. Thứ năm, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng hạn chế tối đa tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn đề của hệ thống ngân hàng. 1.1.4. Dự báo khả năng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Về thuận lợi, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được đặt ra trong chương trình tổng thể tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp để thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Mục đích cơ cấu lại các ngân hàng là vì lợi ích quốc gia, dân tộc chứ không vì lợi ích nhóm cục bộ. Do đó, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhận được sự quyết tâm và đồng thuận cao về mặt chính trị - xã hội. Các ngân hàng ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải tái cơ cấu để hoạt động an toàn và hiệu quả hơn. Trong vài năm tới, Việt Nam sẽ không bị quá thôi thúc bởi mục tiêu tăng trưởng kinh tế để tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, do đó áp lực tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm bớt là phù hợp với đặc điểm của hệ thống ngân hàng thường có tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại trong thời kỳ tái cơ cấu. 14 Về khó khăn, nền kinh tế đang chịu áp lực lạm phát cao và còn tồn tại những yếu tố có thể gây bất ổn vĩ mô. Nguồn lực của Chính phủ hạn chế do thâm hụt ngân sách lớn, nợ công đang ở mức cao. Các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp, tài chính, ngân hàng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, đặc biệt là vấn đề về phá sản, quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tài chính. Hơn nữa, kinh tế, tài chính thế giới diễn biến không thuận lợi, cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu có nguy cơ trở thành cuộc khủng hoảng tài chính tác động bất lợi đến hệ thống ngân hàng trong nước. Ngoài ra, tâm lý người dân không ổn định dễ phản ứng thái quá nếu không được định hướng đúng đắn và tuyên truyền đầy đủ về các chủ trương, chính sách về tái cơ cấu ngân hàng. 1.2. Một số tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của NHTMCP Năng lực tài chính của một NHTM phải được hiểu khác với năng lực tài chính của một doanh nghiệp. Bởi vì, năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Còn năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, năng lực tài chính của một NHTM được đánh giá dựa trên hai yếu tố, đó là yếu tố định lượng và yếu tố định tính. 15 + Yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có của một NHTM, bao gồm các chỉ tiêu sau: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời. + Yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính của một NHTM, được thể hiện qua trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực. 1.2.1. Yếu tố định lượng 1.2.1.1. Quy mô vốn Quy mô vốn của một NHTM được thể hiện qua vốn tự có. Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động, cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới của NHTM. Vốn tự có có chức năng bảo vệ NHTM, giúp NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ người gửi tiền khi gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nâng cao uy tín của NHTM với khách hàng và các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định, vốn là yếu tố quan trọng đối với NHTM, vì vốn tự có của NHTM đã nói nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của NHTM trên thị trường trong nước. Đồng thời, vốn tự có đó cũng là cơ sở để NHTM mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Theo Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam thì vốn tự có của NHTM được cấu thành từ nhiều nguồn như vốn điều lệ, các quỹ của ngân hàng (quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ,…) và lợi nhuận giữ lại, nhưng trong đó vốn điều lệ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn của ngân hàng. 16 Vốn điều lệ là một cấu thành rất quan trọng trong nguồn vốn tự có của ngân hàng, là một trong những điều kiện cần thiết để phát triển quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng theo quy định. Quy mô vốn điều lệ của ngân hàng cũng là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của một ngân hàng. Các ngân hàng muốn phát triển quy mô tài sản thì phải dựa trên nền tảng của sự phát triển vốn điều lệ và ngược lại, phát triển vốn điều lệ sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển quy mô tài sản, góp phần gia tăng lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn. Điều này cho thấy sự tăng trưởng vốn điều lệ của ngân hàng đóng một vai trò đặt biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và chính vì ý nghĩa đó mà chỉ tiêu vốn điều lệ luôn được sự quan tâm đặc biệt của nhà quản trị ngân hàng trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Các cơ quan chức năng cũng có những cơ chế, chính sách giám sát năng lực tài chính của các ngân hàng trong đó có sự giám sát tăng vốn điều lệ để đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, giảm thiểu rủi ro hệ thống, rủi ro dây chuyền đối với cả hệ thống ngân hàng. 1.2.1.2. Chất lượng tài sản Tài sản của một NHTM thể hiện ở bên tài sản có trên Bảng cân đối kế toán của NHTM đó. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Tài sản có bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài sản có) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản có). Tài sản sinh lời gồm các khoản cấp tín dụng và các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá, chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết… Chất lượng tài sản của NHTM là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một NHTM. Hầu hết rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có. Các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng 17 tài sản có của một ngân hàng là: dư nợ tín dụng/vốn huy động, dư nợ tín dụng/tài sản có và nợ xấu/dư nợ tín dụng. Trong đó, nợ xấu là nguyên nhân làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với các ngân hàng mà còn cả đối với khu vực doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong các khoản nợ xấu, các ngân hàng không có điều kiện mở rộng tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hơn. Ngoài ra, nợ xấu còn làm tăng chi phí hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, tính thanh khoản và tính an toàn của các ngân hàng. 1.2.1.3. Khả năng thanh toán Khả năng thanh toán hay còn gọi là thanh khoản của một ngân hàng là khả năng của ngân hàng đó đáp ứng tất cả những nhu cầu thanh toán tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi của khách hàng, cho vay, thanh toán và giao dịch vốn. Cùng với rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản được xem là một trong những rủi ro lớn nhất của một ngân hàng. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không đủ tiền để cấp tín dụng, để thanh toán tiền gửi cho khách hàng. Có thể thấy, thanh khoản của một ngân hàng bị ảnh hưởng bởi thời hạn rút tiền của người gửi và thời hạn thu hồi tiền từ các món mà ngân hàng đã cấp tín dụng. Trong thực tế, rất hiếm khi nào hai khoảng thời gian này lại trùng khớp với nhau. Đôi lúc thời gian của tiền gửi lớn hơn kỳ hạn ngân hàng cấp tín dụng cũng chưa hẳn là đảm bảo tuyệt đối của thanh khoản bởi vì người gửi tiền có quyền chủ động thay đổi cam kết của họ nếu muốn. Do vậy, sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là một áp lực về rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng. Để đảm bảo khả năng chi trả tại mọi thời điểm, ngân hàng phải giám sát hàng ngày ngân quỹ/dự trữ thanh khoản của mình. Dự trữ thanh khoản bao gồm cả dự trữ bằng tiền (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các 18 TCTD khác) và dự trữ thứ cấp (giấy tờ có giá đủ điều kiện để tái cấp vốn, hạn mức tín dụng được cấp bởi các tổ chức tài chính khác,…). Mức độ dự trữ ngân quỹ/dự trữ thanh toán cần thiết của mỗi ngân hàng là khác nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín của ngân hàng trên thị trường, điều hành chính sách tiền tệ của NHNN; chất lượng tín dụng,… 1.2.1.4. Khả năng sinh lời Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh và kết quả của quá trình cạnh tranh. Ngoài ra, khả năng sinh lời còn gia tăng sức mạnh tài chính nhằm tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Các chỉ tiêu quan trọng để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng được sử dụng hiện nay gồm: Lợi nhuận sau thuế, tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên,… Giống như tất cả các chỉ số tài chính khác, mỗi chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời được sử dụng trong từng trường hợp khác nhau và phản ánh những ý nghĩa không khác nhau đáng kể. ROA là thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý. Nó chỉ ra khả năng của HĐQT ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của Ngân hàng thành thu nhập ròng. ROA thể hiện mối quan hệ giữa khả năng sinh lời của tài sản và tổng tài sản. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cao và cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên, rủi ro và lợi nhuận là hai phạm trù không song hành với nhau, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Vì vậy, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt. Ngược lại, ROE là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn tự có, là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của Ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào Ngân hàng là cao hay thấp, có đủ hấp dẫn các nhà đầu tư hay không. Các biện pháp được các nhà 19 quản trị ngân hàng sử dụng để tăng ROE đó là kiểm soát chi tiêu, đầu tư, quản lý rủi ro có hiệu quả… Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên là các thước đo tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời. Chúng chỉ ra năng lực của HĐQT và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu là thu từ các khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi phí trả lãi cho tiền gửi, những khoản vay trên thị trường tiền tệ, tiền lương nhân viên và phúc lợi,...). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng,...). Một biện pháp đo lường hiệu quả chỉ tiêu thu nhập truyền thống khác mà các nhà quản lý sử dụng điều hành ngân hàng là chênh lệch lãi suất bình quân (hay chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra. Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả đối vối hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thồi nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất bình quân. 1.2.2. Yếu tố định tính 1.2.2.1. Trình độ công nghệ Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam đang diễn ra ngày càng gay gắt. Các NHTM trong nước có nguy cơ mất vị thế ngay trên sân nhà 20 trước các đối thủ là NHTM nước ngoài giàu kinh nghiệm và tiềm lực tài chính. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh bằng lãi suất, giá cả không còn được xem là chiêu thức tối ưu trong việc duy trì và thu hút khách hàng. Muốn cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài, bên cạnh lợi thế am hiểu khách hàng, ngân hàng trong nước phải đa dạng và nâng vao chất lượng dịch vụ nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu cho khách hàng. Bên cạnh đó, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả, xây dựng cơ chế đảm bảo hoạt động an toàn, kiểm soát rủi ro cũng là những yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh bền vững cho ngân hàng trong nước. Cốt lõi của tất cả các yếu tố làm nên năng lực cạnh tranh đó là một nhân tố cực kỳ quan trọng là công nghệ. Công nghệ là yếu tố then chốt trong cạnh tranh và tăng cường đầu tư cho công nghệ nhằm phát triển những dịch vụ ngân hàng mới, hiệu quả hơn và tiết kiệm chi phí vận hành. Chất lượng công nghệ được đánh giá thông qua sự hiện đại của máy móc thiết bị (yếu tố kỹ thuật) và năng lực vận dụng, điều hành công nghệ của nguồn nhân lực (yếu tố con người). Ngoài ra, chỉ tiêu công nghệ còn được đánh giá qua khả năng ứng dụng công nghệ so sánh với trình độ công nghệ của ngành và chi phí mở rộng ứng dụng. Do đó đầu tư cho công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao trình độ công nghệ là một hoạt động chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các hoạt động đầu tư của mỗi ngân hàng. Có thể hiểu công nghệ ngân hàng là tập hợp các giải pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện được sử dụng trong việc thiết kế và triển khai các sản phẩm ngân hàng, giúp quản trị ngân hàng đáp ứng mục tiêu hiệu quả kinh doanh. Theo đó, công nghệ ngân hàng gồm các thành phần sau: thành phần thông tin (hệ thống chương trình phần mềm tích hợp và phân tích dữ liệu để xử lý các nghiệp vụ ngân hàng); thành phần máy móc, thiết bị; thành phần con người với kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc, khả năng sáng tạo; thành phần tổ chức (sự sắp xếp, 21 phối hợp giữa máy móc, trang thiết bị và con người trong việc triển khai các nghiệp vụ ngân hàng, thể hiện qua quy trình làm việc, cơ cấu tổ chức). Đầu tư nâng cao trình độ công nghệ là bỏ ra các chi phí để tác động đến những nhân tố trên, đảm bảo công nghệ ngân hàng đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Chính vì vậy thời gian quan, các NHTM trong nước ngày càng ý thức hơn vai trò của công nghệ và đã tiến hành những hoạt động đầu tư tích cực nhằm nâng cao trình độ công nghệ. 1.2.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quyết định tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững cho ngân hàng. Con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của một ngân hàng, quyết định tất cả mọi thành bại trong phát triển kinh doanh ngân hàng. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao, cạnh tranh thì không thể thắng lợi và phát triển kinh doanh. Nguồn nhân lực sẽ quyết định sức mạnh, hiệu quả, năng lực cạnh tranh và khả năng phát triển bền vững của ngân hàng. Khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn lực nội bộ, khả năng cải tiến hoạt động cũng như khả năng đêm lại niềm tin cho khách hàng phụ thuộc lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Việc sở hữu nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ tạo ra tính khác biệt cho ngân hàng. Nguồn nhân lực thường được tiếp cận dưới hai góc độ: năng lực quản lý, lãnh đạo của đội ngũ cán bộ và chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh. Năng lực quản lý, lãnh đạo của đội ngũ cán bộ thể hiện thông qua sự chính xác, kịp thời, nhạy bén của các chiến lược, chính sách cũng như các quyết định của các cấp lãnh đạo trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Là những người giữ vai trò đầu tàu trong sự phát triển của một 22 ngân hàng, đội ngũ cán bộ trong ngân hàng giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp được đánh giá thông qua trình độ nghiệp vụ, hiệu quả của các chính sách nhân sự như chính sách tuyển dụng, chính sách đào tạo, chính sách thu hút và đãi ngộ, đặc biệt là đối với nhân viên giỏi. 1.3. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của một số nước trong khu vực 1.3.1. Trung Quốc Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu Á đã gây ra hậu quả nặng nề cho thị trường tài chính các nước trong khu vực, trong đó có Trung Quốc. Để xây dựng lại thị trường tài chính lành mạnh và ổn định hơn, từ năm 1997, Trung Quốc đã thực hiện cải tổ hệ thống ngân hàng một cách mạnh mẽ. Nhiệm vụ quan trọng của chương trình cải cách tài chính năm 1997 tại Trung Quốc là tái cơ cấu các định chế tài chính đang gặp khó khăn thanh khoản, bị thua lỗ và mất khả năng thanh toán, nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính và tìm ra các biện pháp cho phép các định chế tài chính yếu kém nhất rút ra khỏi thị trường. Do vậy, công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không chỉ hướng đến các NHTM mà bao gồm cả các định chế tài chính phi ngân hàng như các công ty ủy thác và đầu tư, các hợp tác xã tín dụng nông thôn/thành thị. Trung Quốc đã thực hiện 05 biện pháp trong công cuộc cải tổ này, bao gồm: tăng vốn; chuyển đổi nợ thành vốn góp; sáp nhập, xử lý các khoản nợ khó đòi; đóng cửa, cho phá sản một số định chế tài chính mất khả năng thanh toán. - Thực hiện tăng vốn: Tháng 3/1998, một đợt phát hành Trái phiếu Kho bạc đặc biệt trị giá 270 tỷ Nhân dân tệ đã được thực hiện. Mục đích của đợt phát hành này nhằm tăng vốn cho 04 NHTMNN và tăng tỷ lệ vốn tối thiểu 23 của các ngân hàng này lên 8%. Các Trái phiếu Kho bạc này đã được 04 NHTMNN mua bằng nguồn tiền rút ra từ việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 13% xuống còn 8%. Tuy nhiên, các NHTMCP và các hợp tác xã tín dụng nông thôn không được hưởng nguồn tài trợ từ Chính phủ. Việc tăng vốn của họ chủ yếu đến từ các cổ đông hoặc lợi nhuận tích lũy, nên nguồn vốn của các tổ chức này khó có thể tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt, đối với một số công ty ủy thác và đầu tư, vốn của họ không được tăng trong thời gian dài trong khi tích tụ thêm các khoản lỗ và nợ xấu. Ngoài 04 NHTMNN, phần lớn các định chế tài chính nằm dưới sự quản lý của chính quyền địa phương hoặc các công ty nhà nước, cổ đông của họ không mặn mà với việc góp vốn trừ phi phải chịu sức ép mạnh mẽ. - Chuyển đổi các khoản nợ thành vốn góp: Đây chỉ là giải pháp cuối cùng trong việc tái cấu trúc ngân hàng, vì nó làm phương hại đến quyền lợi của chủ nợ và kết quả cuối cùng không được như trông đợi. Một trường hợp điển hình là Công ty Đầu tư và Ủy thác Everbright. Công ty này có các khoản vay nợ lớn tại một công ty dầu mỏ nhà nước và hai NHTMNN, nhưng không thể trả được nợ khi đến hạn. Để giúp công ty tránh bị phá sản, Ngân hàng Trung ương (NHTW) quyết định chuyển đổi nợ của các định chế này (tương đương 5 tỷ Nhân dân tệ) thành vốn góp. Tuy nhiên, công ty vẫn không có lãi trong 03 năm liên tiếp sau đó và các chủ nợ đã bị thua lỗ nhiều do hậu quả của việc chuyển đổi nợ này. - Thực hiện sáp nhập: Từ 1995 đến 1998, hơn 2.000 hợp tác xã tín dụng thành thị được sáp nhập vào 88 NHTM cấp thành phố theo các nguyên tắc: đánh giá tài sản và vốn, xóa các khoản nợ xấu, ước tính khoản vốn đóng góp ròng và khuyến khích sự tham gia của các cổ đông mới. Tuy nhiên, giải pháp này vẫn chưa có trường hợp nào thành công. Do hoạt động yếu kém của các 24 hợp tác xã tín dụng thành thị trước đó, 88 NHTM mới đã có khoản nợ xấu lớn và bị thua lỗ nặng nề và một số rơi vào tình trạng khủng hoảng thanh toán. Để giảm thiểu rủi ro, Chính phủ đã thực hiện kế hoạch cắt giảm số lượng NHTM cấp thành phố từ 239 xuống còn 60 thông qua biện pháp sáp nhập. Một trường hợp khác là việc thành lập Ngân hàng Phát triển Hải Nam (tháng 8/1995) từ việc sáp nhập 05 công ty đầu tư và ủy thác đóng trên địa bàn tỉnh Hải Nam với sự tham gia của các cổ đông mới. Chất lượng tài sản rất thấp của 05 công ty đầu tư và ủy thác đã dẫn đến tình trạng hoạt động yếu kém của ngân hàng. Tháng 12/1997, Ngân hàng Phát triển Hải Nam tiếp nhận thêm quỹ tín dụng thành thị tại địa phương đang gặp khó khăn về thanh khoản, khiến cho tình trạng của ngân hàng càng trở nên điêu đứng hơn. Mặc dù NHTW hỗ trợ thanh khoản trên 3 tỷ Nhân dân tệ, khách hàng vẫn tiếp tục rút tiền. Hậu quả là vào tháng 1/1998, NHTW buộc phải đóng cửa Ngân hàng này. - Đóng cửa, giải thể và cho phá sản: Trong hai năm 1997 và 1998, 01 NHTM mất khả năng thanh toán và 03 công ty đầu tư và ủy thác đã bị đóng cửa tại Trung Quốc. Các khoản nợ của bốn định chế này lên đến khoảng 120 tỷ Nhân dân tệ. Tại Trung Quốc, việc đóng cửa một định chế tài chính có tính chất khác biệt với phá sản và phải tuân thủ các quy trình sau đây: Thứ nhất, NHTW công bố việc đóng cửa một định chế tài chính và chỉ định một NHTM xử lý các khoản nợ tồn đọng của định chế này. Thứ hai, NHTM đó hoặc một công ty kiểm toán độc lập thanh lý tài sản của định chế bị đóng cửa, đồng thời thực hiện việc đăng ký và xác nhận các khoản nợ của định chế đó. 25 Thứ ba, quyết định các nguyên tắc thanh toán nợ. Nói chung, gốc và lãi hợp pháp của các chủ nợ nước ngoài và người gửi tiền cá nhân phải được ưu tiên chi trả đầu tiên. Số lượng tiền gửi của các pháp nhân trong nước được thanh toán bao nhiêu tùy thuộc vào tài sản ròng sau khi thanh lý, thông thường thì không có đủ để chi trả thậm chí cho gốc của các khoản tiền gửi. Thứ tư, nếu một định chế bị thua lỗ đặc biệt nặng nề, thì định chế này có thể nộp đơn lên tòa án xin được phá sản. Khi quy trình phá sản bắt đầu thực hiện thì quy trình đóng cửa và thanh lý sẽ chấm dứt ngay. Tháng 10/1998, Công ty đầu tư và ủy thác quốc tế Quảng Đông (GITIC) bị thua lỗ nặng nề và không có khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn, NHTW đã công bố cho đóng cửa định chế tài chính này. Tuy nhiên, quy trình thanh lý do một công ty kiểm toán quốc tế có uy tín thực hiện đã phát hiện thấy rằng GITIC đã mất khả năng thanh toán nghiêm trọng nên tháng 1/1999, GITIC đã nộp đơn xin cho phá sản. Đây là vụ phá sản đầu tiên của một định chế tài chính ở Trung Quốc. - Xử lý nợ xấu của các NHTMNN: Tại Trung Quốc khi đó, tỷ lệ nợ xấu của các NHTMNN là rất lớn, chiếm tỷ lệ 6 -7% trên tổng dư nợ. Theo quy chế do Bộ Tài chính đề ra lúc đó thì chỉ 1% dư nợ của năm trước liền kề phải được trích ra làm dự phòng cho việc xóa đi các khoản nợ xấu của năm hiện hành. Kết quả là các khoản trích lập dự phòng rủi ro là rất nhỏ. Công ty quản lý tài sản đầu tiên chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu cho các NHTMNN đã được thành lập vào tháng 4/1999 và tiếp sau đó là thêm 03 công ty nữa đã ra đời. Họ chịu trách nhiệm tách bạch các khoản nợ xấu ra khỏi các NHTMNN và sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để xử lý các khoản nợ xấu này. 26 Khi các rủi ro tài chính dần dần lộ diện tại Trung Quốc, các cơ quan thẩm quyền hoàn toàn nhận thức được tính cấp bách của vấn đề này. Tuy vậy, do môi trường xã hội cùng với hành lang pháp lý hiện hành có nhiều hạn chế, công cuộc tái cơ cấu các định chế tài chính ở Trung Quốc đã vấp phải một số vấn đề khó khăn như sau: + Khó khăn trong việc bảo lãnh để chi trả các khoản tiền gửi cá nhân (vì khi đó chưa có tổ chức bảo hiểm tiền gửi): Tài sản hiện hữu ròng của một số định chế tài chính phải đóng cửa không đủ để chi trả tiền gốc cho các khoản tiền gửi tiết kiệm cá nhân. Trong trường hợp đó thì các cổ đông, chính quyền địa phương, chính quyền trung ương hoặc NHTW phải cung ứng tiền để bù đắp cho việc chi trả. + Thiếu cơ sở hành lang pháp lý: Vì chưa có luật cụ thể cho việc đóng cửa và cho phá sản các định chế tài chính, nên gặp rất nhiều khó khăn cho các định chế đó phá sản. Việc cho GITIC phá sản phải thực hiện dựa trên luật phá sản chung cho các doanh nghiệp. + Các khoản lỗ không được giải quyết triệt để: Mặc dù công ty quản lý tài sản ra đời để xử lý nợ xấu cho các NHTMNN, nhưng vấn đề ai là người xử lý các khoản lỗ cuối cùng vẫn không được giải quyết. Trong một số hoàn cảnh cụ thể, NHTW cần phải sử dụng quỹ công để xử lý vấn đề này, nhưng khi đó ngân sách trung ương không thể bố trí nguồn vốn cho việc xử lý đó. Vì vậy, một số khoản lỗ được NHTW xử lý theo phương thức như các khoản nợ của NHTW. + Các NHTM lớn không sẵn lòng tham gia bảo hiểm tiền gửi: Tại Trung Quốc, bốn ngân hàng lớn nhất chiếm 63% thị trường nợ và tiền gửi. Do vậy, nếu cơ quan thẩm quyền yêu cầu 04 ngân hàng lớn nhất tham gia tổ chức bảo hiểm tiền gửi thì họ phải thực hiện phần đóng góp rất lớn. Trong khi đó, 27 cuộc khủng hoảng tài chính 1997 tại Trung Quốc chủ yếu cứu vãn các định chế tài chính nhỏ, chính vì vậy các ngân hàng lớn không sẵn lòng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, nếu 04 ngân hàng đó không tham gia tổ chức bảo hiểm tiền gửi, thì không công bằng đối với các định chế tài chính khác và hơn nữa là các khoản đóng góp cho cơ quan bảo hiểm tiền gửi sẽ rất nhỏ, không đủ chi trả người gửi. + Các nguyên tắc kế toán tài chính hiện hành không thể đáp ứng nhu cầu phát triển ngành tài chính và cũng không thể hiện các nguyên tắc kế toán an toàn, chẳng hạn như việc tính toán kỳ hạn các khoản phải thu lãi và nguyên tắc trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu. Đặc biệt trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng chưa có quy chuẩn cho việc đánh giá và tính toán tài sản ròng. + Tình trạng không có đủ và thiếu độ tin cậy của hồ sơ lưu trữ kinh doanh của các định chế tài chính ở Trung Quốc và mức độ thiếu minh bạch thông tin đã gây khó khăn cho công việc sáp nhập, tái cơ cấu hoặc đóng cửa các định chế tài chính. + Sự can thiệp quá sâu của các cấp chính quyền địa phương: Một số định chế tài chính cần phải tái cơ cấu do chính quyền địa phương quản lý toàn bộ hoặc một phần lớn; do vậy, các chính quyền địa phương thường chỉ định ban giám đốc các định chế tài chính đó hoặc can thiệp quá nhiều vào hoạt động kinh doanh của các định chế này. Mặc dù các chính quyền địa phương chỉ chịu trách nhiệm hạn chế trong việc cung cấp nguồn lực cho việc sáp nhập, tái cơ cấu, đóng cửa hoặc cho phá sản các định chế tài chính, nhưng họ thường can thiệp vào tất cả mọi công việc trong quy trình tái cơ cấu để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Ngoài ra, việc tái cơ cấu các định chế tài chính 28 không thể thực hiện một cách công minh, bởi vì các ban ngành luật pháp thường phải tuân thủ chỉ thị của các cấp chính quyền địa phương. + Rào cản cho việc chuyển nhượng, phát mại hoặc chứng khoán hóa các tài sản có giá trị: Khi nợ xấu của các ngân hàng được xử lý và các ngân hàng đóng cửa hay phá sản, thì có nhiều rào cản cho việc chuyển nhượng, phát mại hoặc chứng khoán hóa các tài sản có giá trị. Trước hết là do không có một thị trường tín dụng thứ cấp tại Trung Quốc, thứ hai là hầu hết các khoản tín dụng không có thế chấp rõ ràng và thứ ba là có hàng loạt khó khăn về mặt pháp lý và những khó khăn khác trong việc đấu giá các tài sản thế chấp. Vì vậy, giá cả thị trường tài sản ròng của các định chế tài chính khó có thể thực hiện được và tỷ lệ giữa giá trị thực và giá trị sổ sách của tài sản là rất thấp. 1.3.2. Thái Lan Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến hệ thống NHTM của Thái Lan chao đảo nghiêm trọng, một trong những nguyên nhân chính là do Thái Lan đã quá vội vã trong việc tự do hóa tài khoản vốn và áp dụng cơ chế cố định tỷ giá khi mà nền kinh tế chưa thực sự ổn định. Bên cạnh đó, khu vực tài chính ngân hàng bộc lộ rất nhiều yếu kém, như: chất lượng tín dụng rất thấp, nợ xấu tăng cao chiếm 7,2% tổng dư nợ vào cuối năm 1995 và tăng lên 11,6% vào tháng 5/1997, khiến các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng, thanh khoản khó khăn; cuối tháng 6/1997, tất cả các ngân hàng tại Thái Lan đều có hệ số an toàn vốn (CAR) thấp hơn 8,5%, bong bóng bất động sản vỡ, giá trị tài sản đảm bảo suy giảm nghiêm trọng; các ngân hàng chưa trích dự phòng rủi ro đầy đủ cho danh mục tín dụng của mình do chưa có quy định nào về trích lập dự phòng rủi ro; chưa có các giới hạn cần thiết về mức độ tập trung tín dụng, do đó tín dụng tập trung rất nhiều vào một số lĩnh vực 29 nhiều rủi ro; khuôn khổ pháp lý về đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống còn tương đối yếu và rời rạc.... Tất cả làm nên áp lực lớn bắt buộc Thái Lan phải tái cơ cấu khắc nghiệt để vượt qua khủng hoảng. Nhằm chống đỡ với sự yếu kém của hệ thống ngân hàng, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một số biện pháp cải cách, trong đó, bao gồm việc thành lập Quỹ Phát triển các định chế tài chính (FIDF) – một pháp nhân độc lập với NHTW với nhiệm vụ tái cấu trúc, phát triển và cung cấp hỗ trợ tài chính (hỗ trợ thanh khoản) cho các định chế tài chính. Vào tháng 10/1997, chính quyền Thái Lan đã công bố chiến lược đối phó với khủng hoảng trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó bao gồm các giải pháp và chiến lược sau: Thứ nhất, tất cả các ngân hàng phải điều chỉnh vốn chủ sở hữu để ghi nhận đầy đủ các khoản lỗ thực tế đã xảy ra nhằm đáp ứng những quy định chặt chẽ hơn về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro do NHTW mới ban hành. Không ngân hàng nào được phép trả cổ tức cho năm 1997, 1998. Bên cạnh đó, các ngân hàng được khuyến khích tìm kiếm đối tác nước ngoài nếu không tìm được đủ nguồn vốn trong nước. Chính phủ cũng đã nới rộng giới hạn sở hữu nước ngoài cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng lên mức rất cao (75% so với 30% hiện tại của Việt Nam) trong thời hạn 10 năm, với cam kết của cổ đông nước ngoài trong thời gian đó phải giảm tỷ lệ sở hữu xuống thông qua việc bán lại cho cổ đông trong nước hoặc chỉ phát hành thêm cho cổ đông trong nước. Đặc biệt, với các ngân hàng không thể tăng vốn, Chính phủ Thái Lan yêu cầu các ngân hàng phải hạch toán đầy đủ dự phòng cho các khoản nợ xấu vào chi phí, qua đó làm giảm vốn chủ sở hữu. Sau đó Chính phủ có thể nắm quyền kiểm soát ngân hàng, tái cấp vốn và sau đó tư nhân hóa ngân hàng thông qua bán lại cho các nhà đầu tư trong nước và 30 nước ngoài. Việc giảm vốn sở hữu của các ngân hàng giúp Chính phủ Thái Lan giảm được chi phí cấp vốn để nắm quyền sở hữu tại các ngân hàng này. Thứ hai, chiến lược của Thái Lan là đóng cửa một số định chế tài chính không còn khả năng tiếp tục hoạt động. Thái Lan đã tổ chức bán đấu giá tài sản của 58 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính bị đóng cửa, thu được gần 200 tỷ Bath. Song song đó, chiến lược sáp nhập, hợp nhất các định chế tài chính cũng được tiến hành và kết quả là Bank Thai ra đời do sự hợp nhất của 13 công ty tài chính và Unionbank; ngân hàng First Bangkok City hợp nhất với Krung Thaibank và được tái cấp vốn 200 tỷ Bath. Còn lại Bangkok Bank được bán lại hoàn toàn cho công ty quản lý tài sản. Thứ ba, đối với việc xử lý các khoản nợ xấu, chiến lược của Thái Lan là phân loại các khoản nợ không hoạt động (chiếm khoảng 47,7% tổng số các khoản cho vay) và tách chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản của các NHTM. Thứ tư, bên cạnh đó Thái Lan cũng đưa ra một khung pháp lý thuận lợi cho công cuộc khoanh nợ như Luật phá sản được thông qua, thành lập tòa án chuyên giải quyết các vụ phá sản. Các giải pháp từng bước của NHTW, các cơ quan tài chính liên quan và sự thực thi nghiêm túc, quyết liệt các chính sách của các NHTM đã tạo nên hiệu quả rõ rệt trong quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng và giúp Thái Lan thực sự phục hồi sau khủng hoảng. Ngoài 58 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính bị đóng cửa, 13 công ty khác và 5 ngân hàng được sáp nhập, các ngân hàng còn lại đều đã tăng đủ số vốn quy định sau 12 tháng, tuy nhiên, quá trình tăng vốn vẫn tiếp tục sau đó để đạt được tiêu chuẩn về phân loại nợ và trích lập dự phòng theo tiêu chuẩn quốc tế vào năm 2000. Các ngân hàng quốc doanh sau đó được cổ phần hóa với sự hỗ trợ của các ngân hàng đầu tư của nước ngoài. Những tiêu chuẩn, chuẩn mực nội địa của hệ thống tài chính - 31 ngân hàng Thái Lan đều tiến gần hơn với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Sự minh bạch hóa thông tin hệ thống tài chính – ngân hàng được cải thiện, khả năng giám sát và cảnh báo sớm của các cơ quan chức năng cũng mang lại nhiều hiệu quả, làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển khu vực tài chính – ngân hàng trong dài hạn. 1.3.3. Malaysia Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến Malaysia đã phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng tiền tệ và các vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng do nền kinh tế trải qua suy thoái trầm trọng. Bên cạnh đó, chính sách cho vay chỉ định của Chính phủ cũng như sự thiếu cạnh tranh và thiếu các quy định giám sát thận trọng và chặt chẽ đối với hệ thống ngân hàng Malaysia đã khiến tỷ lệ nợ xấu tăng lên nhanh chóng. Tín dụng ngân hàng mở rộng quá mức, tập trung chủ yếu vào cho vay bất động sản, chứng khoán và một số vấn đề khác đã đặt hệ thống tài chính Malaysia vào vị trí rủi ro. Để đối phó với khủng hoảng, NHTW Malaysia đã đặt ra các chính sách như: cải thiện phân bổ tín dụng, tăng cường các quy định thận trọng, tái xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với mục tiêu cuối cùng là tăng tính cạnh tranh của các ngân hàng, từ đó thiết lập một trật tự mang tính thị trường hơn là mệnh lệnh hành chính. Bên cạnh đó, Malaysia thực hiện các chính sách như: thu hẹp loại hình hoạt động ngân hàng đầu tư nhằm loại bỏ sự chồng chéo trong hoạt động và củng cố lợi thế cạnh tranh bằng cách sáp nhập các tổ chức có hoạt động đầu tư, chứng khoán vào thành loại hình ngân hàng đầu tư; công bố các chỉ số chuẩn mực để thúc đẩy các định chế tài chính nội địa tập trung phát triển lành mạnh và giải quyết các yếu kém; thúc đẩy sự tham gia của các đối tác chiến lược có năng lực vào đội ngũ cổ đông nhằm chuyển giao các kỹ năng và kinh nghiệm chuyên môn, tiếp cận với công nghệ và sáng kiến 32 thúc đẩy sự đổi mới sản phẩm dịch vụ, thúc đẩy sự ra đời và đưa vào ứng dụng các chuẩn mực và thông lệ quản trị rủi ro, cải thiện hiệu quả hoạt động của HĐQT và ban điều hành, tăng cường kỷ luật thị trường, mở rộng cơ hội kinh doanh mới. Có thể nói, Malaysia là một trong những nước trong khu vực có công cuộc cải tổ các NHTM mạnh mẽ. Nếu nói về mức độ thành công có thể so sánh ngang bằng với Trung Quốc. Tuy nhiên cách thức và quá trình thực hiện không hoàn toàn giống nhau. Malaysia đã chứng minh được việc xử lý các khoản nợ tồn đọng có hiệu quả bằng việc thành lập công ty quản lý tài sản Pengurusan Danaharta Nasional Berhad (gọi tắt là Danaharta) làm nhiệm vụ mua, bán, quản lý và xử lý nợ với số vốn cấp ban đầu là 10 tỷ Ringgit. Nhiệm vụ của Danaharta là quản lý những khoản tài sản có vấn đề từ các ngân hàng. Quyền lực của công ty Danaharta là thu hồi bắt buộc những khoản nợ có vấn đề ở các ngân hàng thông qua việc kiểm soát. Tài sản là những khoản cho vay này được phép chuyển từ ngân hàng sang Danaharta mà không cần được sự đồng ý của người vay. Danaharta có quyền chỉ định người vào kiểm soát và quản lý hoạt động của công ty đang nợ các khoản không thanh toán được này trong một thời gian có hạn định cho đến khi có được phương án giải quyết. Ngoài ra, Công ty Danamodal Nasional Berhad (gọi tắt là Danamodal) cũng được thành lập sau đó dưới dạng một công ty TNHH với nhiệm vụ tập trung vào việc tái cấp vốn cho các ngân hàng bằng cách bơm vốn cho các tổ chức này. Hoạt động của Danamodal được tập trung vào những phạm vi như: khuyến khích khu vực tư nhân tham gia giải quyết các vấn đề trong khung chiến lược phát triển của Chính phủ; hỗ trợ cho công ty Danaharta và các cơ quan khác của Chính phủ thực hiện chiến lược phát triển khôi phục và phát 33 triển kinh tế; hoạt động dựa trên nguyên tắc và định hướng thị trường. Các biện pháp mà Danamodal áp dụng chủ yếu là khuyến khích việc sáp nhập và hợp nhất các mục tiêu xây dựng hệ thống tài chính nước này đáp ứng được nhu cầu phục hồi và phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Bên cạnh đó, Malaysia cũng thực hiện chiến lược sáp nhập, hợp nhất các định chế tài chính. Quá trình sáp nhập giữa các ngân hàng bắt đầu từ năm 2000. Tại thời điểm đó, hệ thống ngân hàng bao gồm 31 NHTM, trong đó 14 ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, 19 công ty tài chính, 12 ngân hàng đầu tư và 7 trung tâm chiết khấu. Đến năm 2009, hệ thống ngân hàng nội địa chỉ còn 9 tập đoàn NHTM lớn, với năng lực tài chính hùng mạnh và phạm vi hoạt động toàn cầu; không còn công ty tài chính do được sáp nhập vào các tập đoàn ngân hàng; 11 ngân hàng Hồi giáo và 15 ngân hàng đầu tư; không còn trung tâm chiết khấu do được sáp nhập vào các ngân hàng đầu tư; 25 công ty bảo hiểm, cùng với 5 ngân hàng nước ngoài được cấp phép, giữ vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa và có tầm hoạt động trên thị trường khu vực và thế giới. Những nổ lực tái cơ cấu đã giúp hệ thống ngân hàng nói riêng và khu vực tài chính nói chung của Malaysia có một nền tảng vững mạnh hơn. Quá trình tái cơ cấu đã tập trung vào giải quyết 4 vấn đề chủ yếu, đó là: xử lý nợ xấu; tăng cường các quy định thận trọng và ra đời các chuẩn mực và thông lệ quản trị rủi ro; cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thông qua nâng cao chất lượng của HĐQT và ban điều hành; củng cố lợi thế cạnh tranh thông qua sáp nhập các tổ chức tài chính, thúc đẩy các tổ chức tài chính nội địa tập trung phát triển lành mạnh và giải quyết các yếu kém; đồng thời thúc đẩy sự tham gia của các đối tác chiến lược. Bên cạnh đó, việc thực hiện kế hoạch tổng thể cũng tạo nên những hiệu quả cải cách hệ thống ngân hàng trong dài hạn. Những cải cách này cùng với xu thế phát triển kinh tế - tài chính của khu 34 vực và toàn cẩu đã làm thay đổi môi trường kinh doanh, tạo ra một môi trường linh hoạt hơn, cạnh tranh hơn, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho các ngân hàng trong nước. 1.4. Bài học kinh nghiệm về tái cơ cấu của một số nước trong khu vực Đối phó với khủng hoảng và từng bước tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là một việc làm không dễ, song không thể không thực hiện. Với những đối sách và bước đi hợp lý, các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia,… đã vượt qua được khủng hoảng và đạt được sự phát triển. Mỗi nước có một cách đối phó với khủng hoảng và lộ trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng khác nhau, nhưng nhìn chung thì có một số đặc điểm chung như sau: Thứ nhất, ổn định hệ thống tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng đối với khả năng quản lý kinh tế, ổn định vĩ mô của Chính phủ được coi là biện pháp đầu tiên, cần thiết khi dấu hiệu khủng hoảng đã hiện diện. Thứ hai, áp dụng khẩn cấp các biện pháp ngăn chặn sự tháo chạy khỏi hệ thống ngân hàng, duy trì hệ thống thanh toán, hạn chế sự hỗ trợ thanh khoản từ NHTW, hạn chế tối thiểu sự lệch lạc dòng chảy tín dụng, duy trì kiểm soát tiền tệ và ngăn chặn dòng vốn rút ra nước ngoài. Những biện pháp mạnh như đóng cửa ngân hàng, thường chỉ được áp dụng trong trường hợp phải có những chính sách đặc biệt liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và sự đảm bảo vô điều kiện quyền lợi của người gửi tiền. Thứ ba, hỗ trợ thanh khoản của NHTW lúc đầu là hết sức cần thiết nhưng sau đó phải giảm dần kèm theo với việc đóng cửa một số tổ chức tài chính yếu kém khi điều kiện đã chín muồi. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ trong giai đoạn khủng hoảng cần tập trung xử lý những vấn đề cấp thiết như 35 tỷ giá, lãi suất ngắn hạn, dữ trữ ngoại tệ hơn là tập trung vào xử lý những vấn đề tổng thể vốn đã bị mất cân đối nghiêm trọng. Thứ tư, sau khi đã ổn định được tình hình, cần vạch ra một chương trình tái cơ cấu bài bản, thận trọng mà việc đầu tiên cần làm là thiết lập một hành lang pháp lý phù hợp làm cơ sở cho việc loại bỏ khỏi hệ thống những tổ chức tài chính yếu kém, củng cố tiềm lực cho các tổ chức tài chính thiết yếu đối với nền kinh tế, xử lý các khoản nợ xấu, tăng cường thể chế giám sát và minh bạch hóa các hoạt động của hệ thống tài chính. Kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng phải được coi là một chương trình trung hạn. Vì thế cần có một lộ trình thận trọng phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước, không nên rập khuôn, nóng vội, duy ý chí. Điều quan trọng của quá trình tái cơ cấu phải thiết lập được một bộ tiêu chí rõ ràng để có thể phân loại được các tổ chức tài chính – ngân hàng cần phải tái cơ cấu, những ngân hàng, tổ chức tài chính cần được củng cổ, tổ chức nào cần phải loại bỏ. Đây là việc làm khó nhưng lại rất quan trọng, bởi nếu làm không khéo sẽ bị theo những ý đồ chính trị cá nhân hoặc bị tác động bởi lợi ích nhóm khiến cho quá trình tái cơ cấu ít có cơ hội thành công. Thứ năm, trong quá trình tái cơ cấu, việc định giá tài sản của ngân hàng là việc làm tối cần thiết, song lại vô cùng khó. Vì vậy, cần có những quy định cụ thể về các phương pháp và tiêu chí định giá phù hợp và tham chiếu kết quả của nhiều tổ chức định giá chuyên nghiệp khác nhau. Việc thiết lập các tiêu chí đồng bộ, đầy đủ và công khai minh bạch đóng vai trò quan trọng nhất đối với quá trình tái cơ cấu. Thứ sáu, đối với các tổ chức tài chính – ngân hàng vẫn có thể tồn tại, thì việc định giá tài sản, xác định thiệt hại của các khoản nợ xấu và việc tái cơ cấu là cần thiết và cũng phải được thực thi, giám sát một cách chặt chẽ. Nếu 36 số ngân hàng này không đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thì bắt buộc phải tái cơ cấu vốn và nâng cao tỷ lệ an toàn vốn, đồng thời phải được giám sát chặt chẽ của các cơ quan công quyền. Thứ bảy, trong một số trường hợp, phương pháp “bắc cầu” được áp dụng rất hiệu quả: Chính phủ đứng ra mua lại, quốc hữu hóa một số ngân hàng hoặc thành lập một công ty quản lý mua bán nợ trung gian, sau đó, sẽ thoái vốn hóa những ngân hàng này hoặc bán lại cho một ngân hàng, tổ chức tài chính khác. Trong trường hợp đó, mọi khoản chênh lệch lỗ phát sinh trước hết phải được gánh chịu bởi các cổ đông của ngân hàng bị tái cơ cấu cho đến khi vốn chủ sở hữu bị triệt tiêu hoàn toàn. Thứ tám, chi phí cho quá trình tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng là vô cùng lớn. Những thiệt hại ban đầu do NHTW gánh dưới hình thức hỗ trợ cho các ngân hàng mất thanh khoản. Sau này, được bù đắp bởi nguồn phát hành trái phiếu Chính phủ. Thứ chín, vai trò của Nhà nước và quyết tâm chính trị cao là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình tái cơ cấu thành công. Trong thời gian xảy ra khủng hoảng và quá trình tái cơ cấu, một số nước đã có những biến động chính trị (bầu cử lại bộ máy Chính phủ), song quyết tâm và chiến lược tái cơ cấu vẫn được ủng hộ mạnh mẽ. Nhờ thế, quá trình tái cơ cấu cơ bản đã rất thành công ở các nước này. Thứ mười, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không thể tách rời với tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp, bởi chính những yếu kém của hệ thống doanh nghiệp là tác nhân chủ yếu đem đến những khoản nợ xấu, nợ quá hạn và tạo ra căng thẳng về thanh khoản cũng như hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hàng. Mặc dù vậy, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được đặt hàng ưu tiên cao hơn, bởi chính hệ thống ngân hàng sẽ thiết lập những bộ tiêu chí 37 chặt chẽ, thận trọng hơn trong việc thẩm định các dự án và các khoản vay, làm cơ sở cho việc lành mạnh hóa hệ thống tài chính doanh nghiệp. Sau khi tái cơ cấu, những tiêu chuẩn, chuẩn mực nội địa của hệ thống tài chính – ngân hàng của các nước đều tiến gần hơn tới những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Sự minh bạch hóa thông tin hệ thống tài chính – ngân hàng được cải thiện, khả năng giám sát và cảnh báo sớm của các cơ quan chức năng cũng hiệu quả hơn. Đặc biệt, kỹ năng phân tích và dự báo từ những bài học trong quá khứ và các trường hợp điển hình trên thế giới được vận dụng sát với thực tiễn và hoàn cảnh điều kiện của mỗi nước cũng là những nhân tố đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống tài chính – ngân hàng của các nước trong suốt giai đoạn từ khi xảy ra khủng hoảng đến nay. Đối với Việt Nam, việc tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng không phải bây giờ mới bắt đầu, mà thực chất đã từng được tiến hành thành công vào những năm 1998 – 1999 với 20 ngân hàng chính thức bị đóng cửa hoặc bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt (trong đó 02 ngân hàng tự nguyện giải thể, 08 ngân hàng giải thể bắt buộc dưới sự giám sát của NHNN, 06 ngân hàng thực hiện sáp nhập vào ngân hàng khác). NHNN cũng đã từng tiêu tốn vài ngàn tỷ đồng cho những vụ tái cơ cấu này. Bối cảnh hiện thời ở Việt Nam chưa trầm trọng đến mức có thể coi là khủng hoảng, bởi thực chất những dấu hiệu dẫn tới khủng hoảng đã bắt đầu được ngăn chặn cách đây vài năm. Sự kiên quyết của người đứng đầu NHNN nhiệm kỳ trước đã không cho phép thành lập thêm một NHTMCP nào nữa cũng có thể coi là một bước đi phòng ngừa dũng cảm trong bối cảnh trị trường đang ăn nên làm ra ở thời kỳ đó. Tiếp đó, hàng loạt các quy định khống chế tỷ lệ cho vay cầm cố chứng khoán, cho vay bất động sản, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nóng, tỷ lệ cho vay tính trên số dư huy động vốn từ thị trường 2,… đã góp phần đáng kể vào việc ngăn chặn đổ vỡ tín dụng mà nguy cơ có thể nhìn thấy trước được. Đây là 38 những biện pháp rất tích cực để bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua và đó là sự cụ thể hóa của một chiến lược có tầm nhìn dài hạn. Tuy nhiên, một số biện pháp đã không được thực thi triệt để và có những thời điểm còn tỏ ra khá nửa vời (do sức ép của dư luận, do tác động của lợi ích nhóm hoặc thiếu sự đồng thuận) nên kết quả chỉ có thể hạn chế tác động tiêu cực mà thôi. Đến nay, những dấu hiệu bất ổn đã ngày càng rõ nét: các ngân hàng đua nhau mở chi nhánh, phòng giao dịch, thành lập các công ty con để đầu tư vào bất động sản, chứng khoán và nhiều lĩnh vực rủi ro khác, thanh khoản của nhiều ngân hàng bị đe dọa (NHNN phải hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp), nợ xấu tăng cao và có nguy cơ tiếp tục tăng cao hơn nữa do tình hình thị trường ngày càng xấu đi; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số ngân hàng không đạt chuẩn (trong đó có cả những ngân hàng lớn); tiêu chí phân loại nợ chưa sát với chuẩn mực quốc tế; thông tin chưa đạt được sự minh bạch (chưa có cơ chế bắt buộc các ngân hàng cổ phần chưa niêm yết phải công bố thông tin được kiểm toán); đạo đức nghề nghiệp xuống cấp nghiêm trọng, nhiều vụ vỡ nợ tín dụng đen xảy ra đều có ít nhiều dính đến hệ thống ngân hàng… Vì vậy, đây là thời điểm không thể chậm hơn nữa để tái cơ cấu toàn bộ hệ thống tài chính – ngân hàng. Lộ trình và phương án tái cơ cấu đã được các cấp nghiên cứu kỹ và đưa ra nhiều kịch bản để đối phó. Để tiến trình tái cơ cấu được thành công, chúng ta cần lưu ý thêm một số điểm sau: Một là, không nên nghiêm trọng thái quá công việc tái cơ cấu ở nước ta hiện nay, mà phải đặt ra một lộ trình hợp lý với thời gian thích hợp kèm theo việc thông tin đầy đủ cho người dân và doanh nghiệp để mọi người cùng hiểu rằng, đây là việc làm bình thường cần thiết của Nhà nước và mọi quyền lợi của người gửi tiền phải được đảm bảo vô điều kiện. Thiệt hại trước hết phải được chính các cổ đông của ngân hàng tái cơ cấu gánh chịu. Ngoài ra, bản 39 thân NHNN phải tăng cường thể chế giám sát và minh bạch hóa các hoạt động của hệ thống tài tính để đảm bảo môi trường thông tin được công khai, minh bạch. Hai là, coi trọng nguyên tắc tự nguyện trong việc giải thể, sáp nhập trên cơ sở giá thị trường giữa các ngân hàng với nhau. Đây là giải pháp tối ưu. Trường hợp cấp bách, Nhà nước có thể thực hiện phương pháp bắc cầu hoặc mua lại nhưng cũng phải tuân thủ phương pháp định giá thị trường, quyết không để xảy ra hiện tượng “đi đêm” để Nhà nước phải trả giá đắt cho những thương vụ mua bán, sáp nhập được dàn xếp có chủ ý từ những nhóm lợi ích đằng sau các ngân hàng yếu kém. Ba là, việc tái cơ cấu không phải chỉ diễn ra ở các ngân hàng có vấn đề. Cần phải có một cuộc lành mạnh hóa tổng thể hệ thống tài chính – ngân hàng. Vì vậy, việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ cần đi liền với việc tái cơ cấu hệ thống các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nhằm đạt được sự đồng bộ về thể chế chính sách và khuôn khổ pháp lý. Mặt khác, ngay cả những ngân hàng lớn, ngân hàng “không có vấn đề” cũng cần chủ động tự tái cơ cấu các hoạt động và chiến lược kinh doanh của mình nhằm hạn chế những bất cập hoặc khắc phục nguy cơ rủi ro có thể xảy ra trong điều kiện kinh tế được dự báo là tiếp tục khó khăn và thậm chí khó khăn hơn nữa trong những năm tiếp theo. 40 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề cơ bản về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bao gồm: Khái niệm, sự cần thiết, mục tiêu và nội dung tái cơ cấu hệ thống ngân hàng; dự báo về những khó khăn và thuận lợi trong việc thực hiện tái cơ cấu; các tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của các NHTMCP; cũng như nêu lên một số kinh nghiệm tái cơ cấu của một vài nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.. Những cơ sở lý luận, dự báo và kinh nghiệm trên về tái cơ cấu sẽ là nền tảng cho việc phân tích thực trạng năng lực tài chính và đề xuất giải pháp hoàn thiện trong các chương tiếp theo. 41 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM 2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM Mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động của các NHTMCP trên địa bàn trong những năm gần đây vẫn có sự tăng trưởng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng chậm hơn nhiều so với những năm trước, không còn hiện tượng tăng trưởng nóng như trước đây, tính thanh khoản đã được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn và tín dụng đã giảm đáng kể. Nếu như ở năm 2010, tốc độ tăng trưởng vốn huy động của các NHTMCP là 43%, thì năm 2011 và 2012 chỉ còn 10%/năm; cũng tương tự đối với tăng trưởng tín dụng ở năm 2010 là 38% so với năm 2009, nhưng hai năm trở lại đây tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 12%/năm, một mức giảm đáng kể. Hầu hết các NHTMCP đều không đạt được kế hoạch kinh doanh đã đề ra. Nguyên nhân tốc độ vốn huy động không còn tăng trưởng nóng như trước đây là do việc khống chế trần lãi suất huy động ngắn hạn của NHNN và liên tục giảm trần lãi suất trong thời gian qua đã làm cho kênh huy động vốn của ngân hàng không còn hấp dẫn như trước đây. Đối với tín dụng, do bị ảnh hưởng nặng nề của sự suy thoái của nền kinh tế, kết quả hoạt động trì trệ của các doanh nghiệp, sự kém hiệu quả của các dự án lớn đã làm cho ứ đọng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, các ngân hàng không thể giải ngân cho vay những món mới, nhưng lại không thu hồi được từ những món nợ cũ. Điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh khoản của các NHTMCP trong thời gian qua. 42 Đối lập với việc tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tín dụng giảm, thì tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP lại tăng cao, đạt mức đỉnh điểm ở năm 2012 là 6,1%, trong khi ở năm 2010 là 1,5% và năm 2011 là 2,2%. Với tỷ lệ nợ xấu tăng cao như thế đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của các NHTMCP. Nợ xấu lớn, tăng nhanh và vượt ngưỡng an toàn là nguyên nhân gây nên những nghịch lý và khó khăn cho hoạt động của các NHTMCP. Có thể nói, trong thời gian qua các NHTMCP cũng đã cố gắng để giải quyết nợ xấu, nhưng chưa thực sự quyết liệt, chưa được hiệu quả và chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ nhiều phía hữu quan. Việc NHNN ban hành Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 về phân loại nợ đối với nợ được được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, Ngân hàng Nhà nước góp phần giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp trong tiếp cận với ngân hàng, nhưng không làm giảm nợ xấu thực tế. Việc mua bán nợ tập trung vẫn chưa thực hiện được. Với các chỉ tiêu về huy động và tín dụng giảm đáng kể, trong khi nợ xấu tăng cao, buộc các NHTMCP phải tăng khoản trích lập dự phòng rủi ro, cùng với các yếu tố khác đã làm cho lợi nhuận sau thuế của các NHTMCP giảm mạnh. Mặc dù có giảm so với những năm trước nhưng lợi nhuận sau thuế của các NHTMCP năm 2011 cũng tăng 22,3% so với năm 2010, trong khi trong năm 2012 tốc độ tăng trưởng lợi nhuận so với năm trước là âm 46%, với 93% NHTMCP có mức tăng trưởng âm. Đây là bức tranh ảm đạm và báo động một sự phát triển không được lạc quan trong thời gian tới của các NHTMCP nếu như các ngân hàng này không có chiến lược kinh doanh thích hợp. 43 2.2. Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM 2.2.1. Quy mô vốn Theo khoản 10 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng thì vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp và các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của NHNN. Trong thực tế khi nói đến quy mô vốn của ngân hàng thông thường là đề cập đến quy mô vốn tự có và quy mô vốn điều lệ của ngân hàng. Sự tăng trưởng vốn điều lệ, vốn tự có của ngân hàng luôn được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan quản lý nhà nước, của nhà quản trị ngân hàng. Trong những năm qua, nhìn chung quy mô vốn của các NHTMCP trên địa bàn có sự tăng trưởng đáng kể. Tổng vốn tự có của các NHTMCP trên địa bàn đến cuối năm 2012 đã tăng 68% so với năm 2009, trong đó vốn điều lệ tăng 58% so với năm 2009, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm vào khoảng 19%. Tuy nhiên tốc độ tăng qua các năm không đồng đều, vốn tự có và vốn điều lệ tăng mạnh vào những năm 2008 - 2011 và tăng nhẹ trong năm 2012. Nguyên nhân là do các NHTMCP phải gấp rút tăng vốn để đủ mức vốn theo quy định của Chính phủ tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 và Nghị định 10/2011/NĐ-CP ngày 26/01/2011. Đến thời điểm hiện tại thì tất cả các NHTMCP đã đáp ứng đủ mức vốn tối thiểu theo quy định của NHNN. Tốc độ tăng trưởng quy mô vốn của các NHTMCP là cao trong những năm qua, nhưng không đồng đều và không tương xứng với trình độ quản trị và nguồn nhân lực của ngân hàng. Trong đó, cá biệt có một số ngân hàng có tốc độ tăng vốn điều lệ rất nhanh chỉ trong vài tháng. Điều này cho thấy, phần lớn các NHTMCP còn coi nhẹ việc hoạch định lộ trình tăng vốn phù hợp với 44 quy mô phát triển mà chủ yếu chỉ tập trung tăng vốn vào thời điểm quy định của pháp luật. Biểu 2.1: Vốn điều lệ của các NHTMCP Đơn vị: Tỷ đồng,% Năm 2009 VĐL Stt NH 01 02 Á Châu Sài Gòn Thương Tín Xuất Nhập Khẩu Đông Á Sài Gòn Nam Á Nam Việt Sài Gòn Công Thương Bản Việt Phát Triển TP.HCM Việt Á An Bình Phương Đông Phương Nam 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 VĐL Tăng, VĐL Tăng, VĐL Tăng, giảm so giảm so giảm so với năm với năm với năm trước trước trước 7.814 9.377 20 9.377 9.377 6.700 9.179 37 10.74 - 10.740 0 8.800 10.56 20 12.35 - 12.355 0 5 3.400 4.500 32 4.500 5.000 25 3.635 4.185 15 4.185 - 10.584 53 1.252 2.000 60 3.000 50 3.000 1.000 1.820 82 3.010 65 3.010 1.500 2.460 64 2.960 20 3.080 4 1.000 1.550 2.000 2.000 100 29 3.000 3.000 50 50 3.000 5.000 67 1.515 3.482 2.000 2.568 2.937 3.830 2.635 3.049 94 10 32 19 3.098 4.200 3.000 3.213 5 10 14 5 3.098 4.200 3.234 4.000 8 24 Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTMCP Qua bảng số liệu trên ta thấy, mặc dù vốn điều lệ của các NHTMCP trong thời gian qua có sự tăng trưởng, tuy nhiên quy mô vốn còn rất thấp. Đến cuối năm 2012, trên địa bàn TP.HCM chỉ có 03 NHTMCP có vốn điều lệ trên 10.000 tỷ đồng, 03 NHTMCP có vốn điều lệ từ 5.000 tỷ đồng đến dưới 10.000 tỷ đồng, trong khi đó có đến 08 NHTMCP có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng, thậm chí chỉ đạt mức vốn tối thiểu theo quy định của NHNN. Nếu so sánh với khối NHTMNN, thì mức vốn của các NHTMCP trên địa bàn thấp hơn rất nhiều, trừ NH Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long với mức 45 vốn điều lệ chỉ có 3.055 tỷ đồng, còn các NHTMNN còn lại đều có mức vốn điều lệ từ 23.000 tỷ - 32.000 tỷ đồng. Trong khi nếu so sánh với các NHTMCP trên cả nước thì mức vốn điều của các NHTMCP trên địa bàn có mức vốn tương đương nhau, thậm chí các ngân hàng có mức vốn điều lệ trên 10.000 tỷ đồng hầu hết đều tập trung ở TP.HCM (trên cả nước, ngoại trừ NHTMCP Quân Đội có mức vốn điều lệ là 10.625 tỷ đồng, còn lại hầu hết đều có mức vốn dưới 9.000 tỷ đồng). Quy mô vốn nhỏ là một cản trở rất lớn cho sự phát triển của các NHTMCP trong quá trình cạnh tranh mở rộng hoạt động, mở rộng thị phần của ngân hàng Việt Nam so với ngân hàng nước ngoài trong xu hướng hội nhập. Do đó, áp lực tăng vốn điều lệ của các NHTMCP là sức ép rất lớn. Bên cạnh việc có mức vốn điều lệ chưa được cao, thậm chí đến cuối năm 2010, trên địa bàn TP.HCM có đến 07 NHTMCP chưa đạt được mức vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng theo quy định của Chính phủ tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP (Nam Á, Sài Gòn Công Thương, Việt Á, Bản Việt, Nam Việt, Phát Triển TP.HCM và Phương Đông). Thậm chí đến thời điểm cuối năm 2011 vẫn còn NHTMCP Sài Gòn Công Thương chưa đạt được mức vốn tối thiểu theo như gia hạn của Chính phủ tại Nghị định 10/2011/NĐ-CP. NHNNVN đã có nhiều văn bản chỉ đạo ngân hàng này đưa ra các giải pháp xử lý pháp nhân khi chưa thể đạt được được mức vốn theo quy định. Nhưng đến thời điểm hiện tại ngân hàng này đã tăng đủ mức vốn theo quy định. Các ngân hàng chưa tăng đủ vốn theo quy định đối với từng giai đoạn chủ yếu là các ngân hàng có quy mô nhỏ, gặp khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch tăng vốn. Một vài nguyên nhân dẫn đến việc một số NHTMCP gặp khó khăn trong việc tăng vốn: 46 - Do các ngân hàng chưa được hoạch định ở tầm chiến lược lâu dài và bền vững nên khi vạch ra kế hoạch chưa đi kèm với kế hoạch sử dụng cụ thể, vì vậy thường phải điều chỉnh kế hoạch và không đạt kế hoạch tăng vốn. - Một vài ngân hàng vạch ra kế hoạch tăng vốn bằng cách bán cho cổ đông chiến lược nhưng vì chưa chuẩn bị từ trước nên vẫn chưa tìm được cổ đông chiến lược. - Thị trường chứng khoán đang trầm lắng và cổ phiếu ngân hàng không còn hấp dẫn (các ngân hàng chi trả cổ tức cho cổ đông rất thấp). Trong khi nhu cầu tăng vốn đang lớn thì không ít ngân hàng lại đối mặt với tình trạng các cổ đông xin thoái lui hoặc không mặn mà với cổ phiếu mới. 2.2.2. Chất lượng tài sản Tài sản có của ngân hàng bao gồm các tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, trong đó tài sản sinh lời luôn chiếm phần chủ yếu. Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng, đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi ro. Những tài sản này bao gồm các khoản cấp tín dụng, các khoản đầu tư vào chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết... trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản cho vay. Nói đến chất lượng tài sản trước tiên là nói đến chất lượng tài sản có sinh lời, mà trước hết được phản ánh ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Nếu một ngân hàng có chất lượng hoạt động tín dụng cao, thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn, bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng quay vốn tín dụng nhanh, thì ngân hàng đó được đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu quả. Một ngân hàng có mức độ tín dụng xấu, tỷ lệ nợ xấu cao sẽ gây ra những tổn thất về tài sản, giảm khả năng sinh lời, trong 47 khi mức dự phòng trích lập không đủ sẽ dẫn đến giảm sút vốn tự có và cuối cùng sẽ mất khả năng thanh toán. Bảng 2.2: tình hình nợ xấu của hệ thống và của các trên địa bàn (%) Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Toàn ngành 2,04 2,86 8,8 NHTMCP 1,66 2,3 6,9 NHTMCP có hội sở trên địa bàn 1,5 2,2 6,1 Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN và báo cáo tài chính của các NHTMCP Tính đến cuối năm 2012, nợ xấu của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn là 6,1% so với mức nợ xấu toàn ngành là 8,8%, với mức tăng gấp 2,77 lần so với năm 2011. Tuy nhiên con số này mới chỉ được tính toán dựa trên cơ sở phân loại tín dụng và chuẩn mực kế toán của Việt Nam, trong khi chuẩn mực này ít khắt khe hơn so với chuẩn mực kế toán quốc tế. Hơn nữa, con số báo cáo của các ngân hàng có thể chưa phản ánh hết được chất lượng tín dụng của hệ thống hiện nay do việc phân loại nợ chưa đúng quy định tại các ngân hàng cũng như các thủ thuật khác nhằm làm đẹp bảng cân đối. Điều này cũng có nghĩa là hệ thống NHTMVN tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP trên địa bàn trong năm 2012 tăng cao nguyên nhân là do môi trường kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng vẫn tiếp tục khó khăn, đặc biệt là tồn kho ở mức độ lớn. Việc xử lý nợ xấu hiện nay thì vướng mắc tập trung lại là giải quyết tài sản đảm bảo mà nguyên nhân chủ yếu là sự chây ỳ của người vay, tài sản khó phát mại, bất động sản bán hầu như không có người mua, thiếu sự phối hợp của cơ quan thi hành án,… Thực tế hiện nay, mặc dù Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch đảm bảo và Nghị định số 48 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 163/2006/NĐ-CP, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản đảm bảo, đặc biệt là trong tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và người vay, nhưng thực tế việc bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ rất khó khăn. Năm 2013 là năm thực hiện những nội dung của giai đoạn 2 Đề án về lành mạnh hóa tài chính với việc tập trung xử lý nợ xấu. NHNN đã đưa ra một loạt các quy định về vấn đề này như tạo điều kiện cho các NHTM tái cơ cấu lại nợ, như giãn nợ, giảm lãi suất, đẩy mạnh thủ tục pháp lý để xử lý nợ… NHNN cũng trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội cho phép miễn giảm một số loại thuế, phí đối với các ngân hàng được xử lý mua, bán, sáp nhập. Đặc biệt, Chính phủ cũng đã cho phép NHNN thành lập công ty quản lý tài sản của các TCTD (VAMC) tập trung để xử lý trên quy mô lớn nợ xấu – vật cản chủ yếu đối với việc bình thường hóa quan hệ tín dụng, tạo ra dòng chảy hợp lý về vốn của nền kinh tế. Ngoài ra, những nội dung của chương trình tái cơ cấu trong giai đoạn 3 cũng đã được NHNN chuẩn bị bằng việc ban hành một số văn bản như Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 thay thế Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, các quyết định về chỉ tiêu an toàn hệ thống, về công khai minh bạch tài chính, về chuẩn mực kế toán và báo cáo tài chính,… Như vậy có thể nói năm 2013 sẽ là năm trọng tâm của chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng còn thể hiện ở tỷ lệ dư nợ tín dụng so với vốn huy động. 49 Biểu 2.3: Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động của các NHTMCP Đơn vị: % Năm Năm 2010 2011 01 Á Châu 60,5 53,2 02 Sài Gòn Thương Tín 74,5 84,9 03 Xuất Nhập Khẩu 78,9 102,3 04 Đông Á 90,5 107,4 05 Sài Gòn 75,3 112,3 06 Nam Á 74,3 67,4 07 Nam Việt 94,4 85,6 08 Sài Gòn Công Thương 105,6 122 09 Bản Việt 93,8 45,1 10 Phát Triển TP.HCM 55,7 51,4 11 Việt Á 98,7 98,7 12 An Bình 76,6 77,8 13 Phương Đông 107,4 104,6 14 Phương Nam 82,5 77,8 Hệ thống NHTMCP có hội sở trên địa bàn 75,7 77,6 Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTMCP Stt NH Năm 2012 70,1 81,7 90,9 91,6 96,6 62,4 75,4 98,2 61,4 55,8 77,7 55,9 111,9 69,8 79,5 Theo quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của NHNN về việc quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD thì các ngân hàng chỉ được sử dụng tối đa 80% vốn huy động để cấp tín dụng. Nếu tỷ lệ này quá cao thì ngân hàng có thể gặp rủi ro thanh khoản, còn nếu tỷ lệ này quá thấp thì có thể ngân hàng chưa tận dụng hết nguồn vốn, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Qua bảng số liệu trên ta thấy, nếu tính chung hệ thống NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn thì tỷ lệ cấp tín dụng/vốn duy động từ năm 2010 – 2012 đều đảm bảo không vượt quá 80%, nhưng ở mức tương đối cao (năm 2012 là 79,5%). nhưng tính riêng lẻ từng ngân hàng thì có đến khoảng 50% số lượng NHTMCP có tỷ lệ dư nợ/vốn huy động trên 80%. Nguyên nhân một phần là do khách hàng vay gặp nhiều khó khăn, nợ xấu tăng cao và tăng trưởng nguồn 50 vốn huy động trong những năm gần đây không theo kịp với tăng trưởng tín dụng. Điều này cho thấy chất lượng tài sản của các ngân hàng này chưa cao, việc cấp tín dụng quá cao so với nguồn vốn huy động có thể dẫn đến tình trạng ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản khi khách hàng vay không thanh toán được nợ cho ngân hàng (thể hiện qua việc tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong thời gian qua), trong khi ngân hàng phải chi trả đầy đủ tiền gửi của khách hàng. Hậu quả của việc dư nợ tín dụng chiếm tỷ lệ cao so với vốn huy động là việc trong thời gian qua rất nhiều các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản, phải vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất có thời điểm rất cao và phải nhờ sự hỗ trợ thanh khoản của NHNN. Trong thời gian qua nhờ sự hỗ trợ và chỉ đạo chặt chẽ của NHNN mà các NHTMCP đã giảm dần tỷ lệ cấp tín dụng so với vốn huy động và nhờ đó đã dần ổn định được khả năng thanh khoản của mình, góp phần vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng còn thể hiện ở các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản bằng ngoại tệ, vàng bạc, đá quý. Chất lượng những tài sản này thường thể hiện ở cơ cấu và trạng thái ngoại hối, chất lượng và trạng thái của danh mục đầu tư. Những khoản mục này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh lời và tính thanh khoản của một ngân hàng. Do đó, để đánh giá chất lượng tài sản và mức độ hoạt động của ngân hàng một cách đầy đủ và chính xác, một mặt phải xem xét toàn diện cơ cấu, tính chất tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ, mặt khác phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ cấu tài sản có và tài sản nợ. Mối tương quan này giúp đánh giá tính tối ưu trong cơ cấu tài sản, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những biến động của thị trường, khả năng đứng vững trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng. 51 2.2.3. Khả năng thanh toán Hệ thống NHTMCP chưa thể hiện được năng lực quản trị thanh khoản của mình, thể hiện qua việc trong thời gian qua các ngân hàng thiếu hụt nghiêm trọng về vốn, buộc các ngân hàng phải đẩy lãi suất lên cao để thu hút vốn, gây nên các cú sốc về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Yếu kém rõ nhất trong quản trị thanh khoản được thể hiện ở một số NHTMCP nhỏ đã dùng vốn huy động ngắn hạn, thậm chí cả vốn vay liên ngân hàng để cho vay trung dài hạn, cho vay bất động sản. Hậu quả là khi thiếu vốn, các ngân hàng này chỉ còn cách đẩy lãi suất huy động lên cao, thật cao để tranh giành nguồn vốn. Và thế là cuộc đua về lãi suất huy động mà không một NHTM nào mong muốn song buộc phải theo. Vì không nâng lãi suất lên theo thì chính ngân hàng mình cũng sẽ bị rút ruột. Tính bất ổn trên thị trường tiền tệ còn thể hiện ở việc lãi suất gần như cào bằng ở tất cả các kỳ hạn tiền gửi và NHTM gần như chỉ huy động được tiền gửi với các kỳ hạn từ 3 tháng trở xuống, phổ biến là kỳ hạn 1 tháng. Đây thực sự làm các NHTM đã rất khó khăn về thanh khoản, buộc NHNN phải can thiệp để bảo vệ hệ thống. Để xảy ra tình trạng thiếu hụt thanh khoản ở đây là do các ngân hàng cho vay vượt thời gian so với thời hạn huy động, ví dụ thời gian huy động là 01 năm, cho vay lại 10 năm, do đó khi phải trả tiền cho khách hàng gửi tiền thì chưa kịp thu hồi vốn ở khách hàng vay. Dĩ nhiên, trong thực tế có khi chưa thu về kịp thì đã có người khác gửi vào, vì thế ngân hàng vẫn có thể đảm bảo khả năng thanh toán trong điều kiện thị trường ổn định và không có biến động gì bất thường và sẵn sàng được hỗ trợ kịp thời từ các tổ chức quản lý với thiếu hụt tạm thời. Chính vì vậy, NHNN đã cho phép các NHTM sử dụng một phần vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Bên cạnh đó, một số NHTMCP đã sử dụng hết nguồn vốn huy động ở thị trường 1, khi đó nguồn vốn huy động ở thị trường 2 chính là nguồn thanh khoản nhưng lại sử dụng để đầu tư tài chính, 52 một lĩnh vực nhiều rủi ro, đã làm cho thanh khoản của ngân hàng gặp nhiều vấn đề. Hiện tại tính thanh khoản của các NHTMCP trên địa bàn được xem là ổn định, một phần vì NHNN điều chỉnh linh hoạt lượng tiền ra/vào lưu thông qua thị trường mở, một phần vì các ngân hàng có nhiều vốn huy động đang trong tình trạng “ứ vốn” do khả năng hấp thụ vốn thấp của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, nói chung, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam không bền vững. Trong khi vốn huy động ngắn hạn, các ngân hàng cho vay trung và dài hạn vượt xa mức 30% trên tổng số nguồn vốn ngắn hạn mà NHNN quy định. Tình trạng lấy ngắn nuôi dài đã đẩy nhiều ngân hàng vào tình thế mất cân bằng về thanh khoản và buộc các ngân hàng huy động lãi suất rất cao ngay cả phải vượt cả lãi suất trần theo quy định của NHNN. Tuy nhiên, việc NHNN điều chỉnh giảm liên tục trần lãi suất huy động ngắn hạn trong thời gian qua đã làm tăng sự khó khăn cho các ngân hàng nhỏ và yếu kém, lãi suất không đủ hấp dẫn người gửi tiền, dẫn đến tình trạng nhiều ngân hàng phải sử dụng những chương trình khuyến mãi đặc biệt để thu hút tiền gửi từ dân chúng và làm tăng chi phí huy động vốn. Mặc dù các ngân hàng có thể vay vốn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng, nhưng những ngân hàng nhỏ và yếu kém khó có thể vay trên thị trường liên ngân hàng nếu không có tài sản đảm bảo. Hầu hết các NHTMCP không chú trọng nắm giữ đủ một khối lượng những giấy tờ có giá như Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu NHNN,… do vậy rất bị động khi có biến động hơi bất thường về cung/cầu thanh khoản trong hoạt động, khi không thể vay nhanh chóng nguồn tín dụng tái cấp vốn từ NHNN. 53 Bên cạnh đó, một số NHTMCP không định lượng tốt hoặc không thể định lượng được mức độ dự trữ ngân quỹ/dự trữ thanh khoản cần thiết của mình; cơ cấu dư nợ tín dụng trên tài sản có hoặc trên tổng nguồn vốn huy động tiền gửi ở ngưỡng cao. 2.2.4. Khả năng sinh lời Theo báo cáo tài chính hợp nhất được kiểm toán của các NHTMCP thì trong năm 2012, 14 NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn đều hoạt động kinh doanh có lãi với mức tổng lợi nhuận sau thuế đạt 6.448 tỷ đồng. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sự biến động nền kinh tế nên mức lợi nhuận sau thuế năm 2012 giảm rất mạnh so với những năm trước, với mức giảm 5.497 tỷ đồng so với năm 2011 và 3.321 tỷ đồng so với năm 2010. Nếu như ở năm 2011, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là 22,3%, thì năm 2012 tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là âm 46% so với năm 2011, đây là mức giảm đáng kể đối với hệ thống ngân hàng cổ phần. Trong năm 2012, dẫn đầu lợi nhuận trong hệ thống NHTMCP có hội sở trên địa bàn là NHTMCP Xuất Nhập Khẩu với mức lợi nhuận là 2.139 tỷ đồng, thấp nhất là NHTMCP Nam Việt chỉ với mức 2 tỷ đồng, với mức giảm gần 99% so với năm 2011. Biểu 2.4: Lợi nhuận sau thuế của các NHTMCP Đơn vị: tỷ đồng Stt 01 02 03 04 05 06 07 08 NH Á Châu Sài Gòn Thương Tín Xuất Nhập Khẩu Đông Á Sài Gòn Nam Á Nam Việt Sài Gòn Công Thương Năm 2010 2.335 1.799 1.815 659 274 139 159 795 Năm 2011 3.208 2.033 3.039 947 220 241 166 304 Năm 2012 784 987 2.139 577 64 181 2 297 54 09 Bản Việt 57 270 10 Phát Triển TP.HCM 269 426 11 Việt Á 266 248 12 An Bình 477 314 13 Phương Đông 306 303 14 Phương Nam 419 226 Tổng 9.769 11.945 Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP 204 326 164 373 230 120 6.448 Trong khi hầu hết các NHTMCP đều có mức tăng trưởng lợi nhuận năm 2012 âm so với năm trước, thì chỉ có duy nhất NHTMCP An Bình là có mức tăng trưởng dương (18,8%), tuy tăng trưởng không cao nhưng vẫn là điểm sáng trong bức tranh lợi nhuận của ngành. Biểu đồ 2.1: Mức tăng trưởng lợi nhuận của các NHTMCP 3,500 3,000 2,500 2,000 1,500 Năm 2010 Năm 2011 1,000 Năm 2012 500 0 Một trong những nguyên nhân làm cho lợi nhuận của các ngân hảng giảm là do ảnh hưởng của việc kinh doanh thu lỗ trong lĩnh vực kinh doanh 55 vàng và ngoại hối, đầu tư chứng khoán, dự phòng rủi ro tín dụng cao. Với kết quả trên, hầu hết các ngân hàng đều không đạt được kế hoạch lợi nhuận đã đề ra và đây cũng là tình trạnh chung của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Điều đáng mừng là mặc dù có mức tăng trưởng lợi nhuận âm nhưng nhìn chung kết quả kinh doanh của các NHTMCP trong năm 2012 không bị thua lỗ. Với những con số lợi nhuận sau thuế mà các NHTMCP đã đạt được trong năm 2012, nếu so với lượng vốn và tài sản thì hiệu suất lợi nhuận các ngân hàng dường như chưa xứng tầm với quy mô. Xét về chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), đây là thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý. Nó chỉ ra khả năng của HĐQT ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của Ngân hàng thành thu nhập ròng. Năm 2010, tỷ lệ ROA trung bình của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn là 1,2%, năm 2011 là 1%, năm 2012 chỉ còn 0,7%, tỷ lệ này là khá thấp. Dẫn đầu về tính hiệu quả của quản lý là NHTMCP Sài Gòn Công Thương với mức ROA năm 2012 là 1,8%, trong khi NHTMCP Nam Việt có hiệu quả kém nhất chỉ đạt 0,009%, một con số quá thấp và thấp nhất trong 3 năm qua. Điều đáng ngạc nhiên là hai ngân hàng lớn nhất hệ thống lại có hệ số ROA năm 2012 quá thấp, đó là NHTMCP Á Châu và Sài Gòn Thương Tín lần lượt là 0,4 và 0,6%. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cao và cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên, rủi ro và lợi nhuận là hai phạm trù không song hành với nhau, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Vì vậy, ROA quá cao cũng không phải là tín hiệu tốt. 56 Biểu 2.5: Tỷ lệ ROA của các NHTMCP Đơn vị: % 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 NH Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Á Châu 1 1 0,4 Sài Gòn Thương Tín 1,2 1,4 0,6 Xuất Nhập Khẩu 1,3 1,4 1,1 Đông Á 1,2 1,4 0,8 Sài Gòn 0,4 0,2 0,04 Nam Á 1 1,2 1,1 Nam Việt 0,8 0,6 0,009 Sài Gòn Công Thương 4,6 1,8 1,8 Bản Việt 0,7 1,6 0,9 Phát Triển TP.HCM 0,8 0,9 0,6 Việt Á 1 1 0,6 An Bình 1,2 0,7 0,8 Phương Đông 1,4 1,2 0,8 Phương Nam 0,7 0,3 0,2 Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Xét về chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), đây là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn tự có, là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nhìn chung, hiện nay tỷ lệ ROE của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn tương đối thấp và giảm mạnh so với những năm trước. Nếu như ở năm 2010, ROE trung bình đạt khoảng 12,3% và năm 2011 là 11,4%, thì đến năm 2012 chỉ còn 6,2%. Biểu 2.6: Tỷ lệ ROE của các NHTMCP Đơn vị: % Stt 01 02 03 04 05 06 NH Á Châu Sài Gòn Thương Tín Xuất Nhập Khẩu Đông Á Sài Gòn Nam Á Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 21,3 27,9 6 16,6 16 7,3 15,6 22,2 15,2 12,7 16,7 9,1 5,3 3,8 0,5 6,6 7,7 5,7 57 07 08 09 10 11 12 13 14 Nam Việt 8 5,1 Sài Gòn Công Thương 27,6 8,9 Bản Việt 2,8 8,8 Phát Triển TP.HCM 12,4 13,2 Việt Á 8,3 7,3 An Bình 11,5 6,7 Phương Đông 10,9 9,2 Phương Nam 12,3 5,9 Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP 0,06 8,9 6,5 6,2 4,7 7,8 6,2 2,4 Trừ NHTMCP Sài Gòn Công Thương và An Bình, còn lại hầu hết các NHTMCP đều có mức giảm đáng kể giữa ROE năm 2012 so với năm 2011 và 2010. Dẫn đầu về tính hiệu quả sử dụng vốn là NHTMCP Xuất Nhập Khẩu với mức ROE năm 2012 là 15,2%, trong khi NHTMCP Nam Việt tiếp tục có hiệu quả kém nhất chỉ đạt 0,06%. Việc lợi nhuận sau thuế, ROA và ROE của các NHTMCP sụt giảm đáng kể cũng dễ hiểu trong bối cảnh hoạt động ngân hàng gặp khó khăn, việc giảm sút này do nhiều nguyên nhân như tín dụng tăng trưởng yếu và lãi suất liên tục giảm; hiệu quả hoạt động yếu; tỷ lệ nợ xấu tăng khiến tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng tăng cao... Bên cạnh đó, nhiều NHTMCP mở rộng quá mức mạng lưới với hy vọng tốc độ tăng tài sản sẽ nhanh như những năm trước. Song, do hạn chế tăng trưởng tín dụng và cạnh tranh huy động vốn gay gắt đã làm giảm hiệu quả hoạt động của một số chi nhánh ngân hàng, ngoài việc làm lợi nhuận các NHTMCP giảm, còn dẫn đến khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng yếu đi rất nhiều. 2.2.5. Trình độ công nghệ Trong thời gian qua, các NHTMCP Việt Nam nói chung, trên địa bàn TP.HCM nói riêng, ngày càng ý thức hơn vai trò của công nghệ đối với sự phát triển của ngân hàng và đã tiến hành những hoạt động đầu tư tích cực 58 nhằm nâng cao trình độ công nghệ. Hàng năm, có những ngân hàng lớn bỏ ra từ 20 – 30 triệu USD cho các giải pháp công nghệ. Nhưng nhìn chung, vốn đầu tư cho công nghệ so với tổng vốn đầu tư của các ngân hàng (gồm đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, góp vốn liên doanh liên kết, đầu tư khác) chiếm tỷ trọng thấp, thường xuyên ở mức dưới 5%. Đối với đầu tư cho giải pháp phần mềm, nhìn chung các NHTMCP đẩy mạnh về chiều sâu theo các hướng: tập trung hóa các hệ thống xử lý tác nghiệp; phát triển các chương trình ứng dụng cung cấp các sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại như e-banking, internet banking, SMS banking, kết nối trực tuyến với các công ty đối tác, cung cấp dịch vụ thanh toán cho các giao dịch thương mại điện tử;… Bên cạnh đó, các giải pháp và hệ thống hỗ trợ quản trị ngân hàng như quản trị nhân lực, quản trị tài chính, xây dựng trung tâm dự phòng cũng được đầu tư thích đáng. Các hoạt động đầu tư về cơ bản đã mang lại cho các ngân hàng những thành tựu đáng kể về công nghệ, nhiều ngân hàng cải thiện rõ rệt năng lực cạnh tranh. Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, các ngân hàng đã phát triển nhanh chóng và đa dạng các sản phẩm dịch vụ tiện ích nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Một loạt các sản phẩm hiện đại phục vụ cả bán buôn và bán lẻ ra đời như: thẻ, tài khoản và các tiện ích thanh toán, chuyển tiền ra nước ngoài, ATM, SMS banking, Mobile banking, Internet banking,… Về hoạt động tổ chức, đa phần các ngân hàng đã có sự chuyển biến, tập trung áp dụng phương thức quản trị ngân hàng hiện đại. Các mảng nghiệp vụ ngân hàng thường được sắp xếp theo đối tượng khách hàng, đối tượng quản lý tạo thuận lợi cho khách hàng trong giao dịch cũng như thuận lợi trong công tác quản trị, kiểm soát rủi ro, giảm sự chồng chéo, phức tạp trong kinh doanh cũng như quản lý. Đa phần tại các ngân hàng, bộ phận công nghệ thông tin 59 được bố trí thông suốt và thống nhất từ hội sở chính đến từng chi nhánh. Tại các ngân hàng lớn, mọi giao dịch thanh toán tại các chi nhánh dần được xử lý theo hướng tập trung tại hội sở chính (thanh toán thể, tài trợ thương mại, kinh doanh ngoại tệ, chuyển tiền liên ngân hàng,…). Mặc dù vậy, hoạt động đầu tư này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh mang tính quốc tế: - Đầu tư cho công nghệ còn chưa đáp ứng tiên chuẩn của khu vực. Thông thường hàng năm các ngân hàng trong khu vực sử dụng 10% quỹ chi phí hoạt động để đầu tư cho công nghệ thông tin, khoản 5% lợi nhuận để đầu tư cho hạ tầng công nghệ ngân hàng. Trong khi tỷ lệ này ở Việt Nam rất thấp. - Chưa đầu tư đồng bộ giữa công nghệ phần mềm, phần cứng và nguồn chất xám nên khai thác sử dụng tính năng công nghệ còn hạn chế. Mặc dù công nghệ cao, có khả năng hỗ trợ rất nhiều cho nghiệp vụ và công tác quản lý nhưng quy trình, chuẩn mực nghiệp vụ chưa được ban hành đầy đủ, thống nhất, nhân lực chưa được đào tạo để tiếp thu và làm chủ công nghệ dẫn đến tình trạng công nghệ mặc dù hiện đại nhưng lại kém hiệu quả. - Một số công nghệ đầu tư gây lãng phí: vốn đầu tư bỏ ra rất lớn nhưng lợi ích thu về không tương xứng. Đó cũng là hệ quả của việc đầu tư thiếu đồng bộ giữa công nghệ phần mềm với thiết bị phần cứng. Điển hình như dịch vụ tại các ATM, hằng năm chi phí mua sắm ATM rất lớn (mỗi ATM nhập khẩu có giá khoảng 25.000 – 30.000 USD) nhưng các phần mềm ứng dụng trên máy thiếu đa dạng nên ATM chủ yếu sử dụng cho dịch vụ rút tiền, làm giảm chất lượng máy mà ngân hàng không thu được nhiều phí dịch vụ. - Đầu tư công nghệ còn manh mún, chưa đầu tư một cách thống nhất, bài bản dựa trên một tầm nhìn dài hạn và bao quát. Cho đến nay, nhiều ngân hàng vẫn ứng dụng chung giữa những công nghệ cũ, rất lạc hậu với những 60 công nghệ mới. Thậm chí trong cùng một nghiệp vụ, nhân viên ngân hàng phải thao tác xử lý nghiệp vụ trên nhiều chương trình khác nhau, có những chương trình rất cũ, không xử lý tự động các dữ liệu gây khó khăn, giảm hiệu quả công việc. Nhìn nhận một cách công bằng, có những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của các ngân hàng. Đó là trình độ phát triển khoa học công nghệ trong nước còn ở mức thấp. Ngân hàng là một lĩnh vực ứng dụng công nghệ hiện đại nhưng lại phụ thuộc rất nhiều vào các đối tác cung cấp công nghệ và hạ tầng công nghệ cung của xã hội. Khi hạ tầng công nghệ chung còn yếu kém thì công nghệ ngân hàng cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của các NHTMCP trong nước còn khiêm tốn. Mặt khác, sự chênh lệch và không tương thích về công nghệ giữa các ngân hàng cũng gây ra khó khăn trong việc lựa chọng công nghệ đầu tư. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân xuất phát từ ý thức chủ quan như thiếu chiến lược bao quát và dài hạn; quản lý hoạt động đầu tư còn chưa sát sao; đội ngũ nhân viên công nghệ thông tin chưa đủ mạnh và chưa được dành những chế độ ưu đãi xứng đáng; vì vậy việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ là một phần không tách rời của đầu tư nâng cao trình độ công nghệ nhưng các ngân hàng ở Việt Nam còn chưa làm tốt điều này. 2.2.6. Chất lượng nguồn nhân lực Một ngân hàng muốn phát triển thì ngoài vốn, khoa học công nghệ,… thì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng, có tính chất quyết định sự tăng trưởng và phát triển của ngân hàng đó. Nguồn nhân lực ở đây bao gồm toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn nhân lực được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác. 61 Trong những năm gần đây, ngành ngân hàng đã có sự phát triển mạnh mẽ về chiều rộng, thể hiện qua việc các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP đua nhau mở hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch rộng khắp cả nước, đua nhau phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ mới để cạnh tranh, do đó kéo theo số lượng nhân viên ngân hàng tăng đột biến để đáp ứng nhu cầu phát triển. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối năm 2012 tổng số nguồn nhân lực trong ngành ngân hàng là khoảng 180.000 người (trong khi năm 2000 chỉ là 67.558 người); trong đó làm việc trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước hơn 6.000 người, số còn lại làm việc trong các NHTM và các TCTD khác. Về chất lượng nguồn nhân lực, theo thực tế hiện nay, đánh giá một cách tổng thể khi so sánh với các ngành nghề khác thì nguồn nhân lực ngành ngân hàng nhìn chung rất năng động, có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp khá tốt, có tư duy sáng tạo trong công việc. Có được nguồn nhân lực như thế chính là do các ngân hàng luôn coi trọng công tác tuyển dụng, lựa chọn những ứng viên có năng lực cao và coi trọng công tác đào tạo lại sau khi tuyển dụng thông qua các khóa đào tạo ngắn hoặc dài hạn để có được những con người nắm vững nghiệp vụ chuyên môn và có khả năng sáng tạo, đây chính là chìa khóa trong quá trình cạnh tranh với các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài. Đó là cũng lý do vì sao thực tế hiện nay đang có hiện tượng chảy máu chất xám trong ngành ngân hàng, theo hướng chảy từ ngân hàng nhỏ sang ngân hàng lớn, từ ngân hàng quốc doanh sang ngân hàng cổ phần. Các NHTMCP, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, luôn có chiến lược lôi kéo những người có kinh nghiệm, có năng lực làm việc thông qua việc trả lương cao, đề bạt chức vụ cao, cùng với những chính sách đãi ngộ hấp dẫn. Bên cạnh đó, các NHTMCP còn có chính sách phát hành cổ 62 phiếu phát triển nguồn nhân lực, bán cổ phiếu với giá chỉ bằng 1/2 - 1/3 so với giá cổ phiếu trên thị trường, thậm chí bán bằng mệnh giá. Điều này giúp các ngân hàng không phải mất thời gian, chi phí để đào tạo lại, mà còn có thể tận dụng được những kinh nghiệm, những mối quan hệ của những người này để phát triển và tăng năng lực cạnh tranh cho ngân hàng mình. Do đó đây là một lực hấp dẫn rất lớn nguồn nhân lực, kể cả người đang làm việc cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, các NHTMNN cũng chạy sang các NHTMCP. Chính vì đều này mà cũng xảy ra hiện tượng chất lượng nhân lực không đồng đều ở các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ lại thiếu nhân lực có chất lượng cao và có kinh nghiệm làm việc. Hầu hết các NHTMCP quy mô trung bình trở xuống thiếu đội ngũ quản trị điều hành, lãnh đạo cấp chi nhánh, phòng giao dịch. Họ phải mất nhiều chi phí để tuyển dụng và đạo tạo lại nhân viên mới, đều này làm giảm sức cạnh tranh của họ đối với các ngân hàng lớn mạnh hơn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực trạng hiện nay là do sự phát triển quá nóng của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua, các NHTMCP chỉ tập trung để tìm được nguồn nhân lực có chất lượng, có năng lực, nhưng lại chưa coi trọng việc đào tạo, giáo dục đạo đức nghề nghiệp nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng. Mặt khác đa số cán bộ quản lý cấp trung và cấp cao ở từng NHTM chủ yếu được đề bạt qua hoạt động chuyên môn, họ rất thiếu kiến thức về quản lý và điều hành một chi nhánh, một hệ thống theo hướng hiện đại, vì thế đôi khi chỉ là sơ suất trong quản lý nhân sự… đã gây nên những rủi ro trong hoạt động không nhỏ cho ngân hàng. Bên cạnh một lực lượng đội ngũ nhân lực có năng lực, có kỹ năng nghề nghiệp thì đội ngũ nhân lực của ngành ngân hàng cũng đang tồn tại một số hạn chế như: giỏi về lý thuyết nhưng thiếu hụt nghiêm trọng về kỹ năng làm 63 việc thực tế; không nắm rõ tầm quan trọng của khách hàng, không hiểu rõ rủi ro luôn đi kèm với lợi nhuận; thiếu tự tin trong giao tiếp, dẫn đến thiếu khả năng trình bày một cách thuyết phục; thiếu khả năng kiểm soát cảm xúc, đặc biệt khi đặt vào tình huống giải quyết với khách hàng khó tính hoặc mâu thuẫn về lợi ích; thiếu khả năng tư duy sáng tạo, dẫn đến gặp khó khăn khi đặt vào tình huống cần sự chủ động đưa ra giải pháp; trình độ tiếng Anh chưa đạt yêu cầu nếu phải giao tiếp với khách hàng nước ngoài thì gặp khó khăn. Nguyên nhân của những hạn chế này là do chất lượng đào tạo tại các trường đại học đang có khoảng cách xa đối với như cầu sử dụng, sinh viên ra trường không đáp ứng được kỹ năng làm việc do thiếu điều kiện thực hành, thiếu kiến thức thực tiễn. Vì thế trong thời gian tới, sự phát triển của hệ thống ngân hàng với sự hỗ trợ bởi sự phát triển tương xứng của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo nên sự phát triển ổn định và bền vững cho ngành ngân hàng. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, ngân hàng đang trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, thì việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải đặc biệt coi trọng trong chiến lược phát triển quốc gia cũng như chiến lược phát triển của ngành tài chính - ngân hàng. 64 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Chương 2 của luận văn trình bày về tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTMCP trên địa bàn; đồng thời phân tích, đánh giá về thực trạng năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM. Từ những phân tích, đánh giá về thực trạng năng lực tài chính của các NHTMCP trên địa bàn, là cơ sở để đưa ra những đề xuất bám sát vào thực trạng của các NHTMCP trong chương 3 của luận văn. 65 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TÁI CƠ CẤU THEO HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NHTMCP TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM 3.1 Định hướng và giải pháp chung để tái cơ cấu hệ thống NHTMCP Việt Nam 3.1.1. Định hướng Chấn chỉnh, sắp xếp lại các NHTMCP để đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả, đúng pháp luật và cùng với các NHTM Nhà nước giữ cho hệ thống các TCTD ổn định và phát triển vững chắc. Các NHTMCP phải cạnh tranh lành mạnh và hoạt động một cách công khai, minh bạch, đồng thời đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực về quản trị và an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện cho các NHTMCP lành mạnh phát triển và kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém. Kiểm soát quy mô, tốc độ tăng trưởng và phạm vi hoạt động kinh doanh của NHTMCP phù hợp với điều kiện tài chính và năng lực quản trị. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động và quản trị, đặc biệt là chất lượng tài sản, công nợ, vốn tự có và mức độ an toàn của NHTMCP, các NHTMCP sẽ được phân loại thành 3 nhóm (NHTMCP lành mạnh, NHTMCP thiếu thanh khoản tạm thời và NHTMCP yếu kém) để có biện pháp xử lý thích hợp. Từng NHTMCP cần có phương án tái cơ cấu phù hợp với mức độ rủi ro, yếu kém và điều kiện cụ thể của NHTMCP. 66 3.1.2. Giải pháp chung 3.1.2.1. Giải pháp tái cơ cấu NHTMCP lành mạnh Từng NHTMCP xây dựng và triển khai phương án tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh theo các giải pháp sau để phát triển nhanh về quy mô, hoạt động, tài chính và có trình độ quản trị, công nghệ tiên tiến: Thứ nhất, cơ cấu lại tài chính thông qua việc xử lý nợ xấu và tăng quy mô, chất lượng vốn tự có của NHTMCP. Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tài sản của NHTMCP, việc xử lý nợ xấu là vô cùng quan trọng và được thực hiện thông qua các biện pháp sau đây: Trước tiên là tiến hành đánh giá lại chất lượng tài sản, khả năng thu hồi và giá trị của nợ xấu thông qua việc rà soát đánh giá lại toàn bộ tình hình sản xuất - kinh doanh của khách hàng, định giá lại tài sản đảm bảo, đánh giả khả năng thu hồi nợ vay, trên cơ sở đó để có những giải pháp thu hồi, xử lý nợ thích hợp như bán nợ xấu cho các công ty mua bán nợ; Xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro của NHTMCP hay xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ; Chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay. Việc tăng quy mô và chất lượng vốn tự có của NHTMCP nhằm đảm bảo mức vốn tự có không thấp hơn mức vốn pháp định và đáp ứng đầy đủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Việc tăng vốn điều lệ được thực hiện thông qua các biện pháp như phát hành cổ phiếu bổ sung, tăng vốn góp từ các cổ đông và các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài; Chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của NHTMCP được cơ cấu lại. 67 Thứ hai, tiến hành cơ cấu lại hoạt động của NHTMCP. Cùng với việc làm sạch và cơ cấu lại bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh, NHTMCP phải triển khai các giải pháp củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động. Một là, tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính và loại bỏ các lĩnh vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả. Hai là, từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTMCP theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Hiện nay nguồn thu chủ yếu của các NHTMCP là thu từ dịch vụ tín dụng do các ngân hàng chưa phát triển mạnh được sản phẩm dịch vụ để thu hút sự quan tâm của khách hàng. Ba là, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, trong đó tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại (dịch vụ thanh toán, ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản, quản lý rủi ro cho khách hàng,…); Phát triển nhanh dịch vụ thanh toán một cách an toàn, hiệu quả, đặc biệt là các sản phẩm, dịch vụ thẻ thanh toán trên cơ sở đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ, hệ thống thanh toán và tăng các tiện ích thẻ thanh toán. Bốn là, nâng cao tính ổn định và bền vững khả năng chi trả của các NHTMCP; tăng mức độ ổn định nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn huy động có kỳ hạn dài, cải thiện sự cân đối, hợp lý về kỳ hạn và đồng tiền giữa nguồn vốn và sử dụng vốn; từng bước giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng so với huy động vốn. Thứ ba, cơ cấu lại hệ thống quản trị của các NHTMCP, thực hiện củng cố và đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp hơn với các thông lệ chuẩn mực quốc tế, tăng tính minh bạch hóa hoạt động ngân hàng thông qua việc áp dụng cơ chế mới về công bố thông tin của các NHTMCP. Nâng cao 68 các điều kiện, tiêu chuẩn về năng lực quản trị, kinh nghiệm công tác và trình độ chuyên môn đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các NHTMCP. Bên cạnh đó, phát triển các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel, trong đó tập trung vào các hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường (giá cả, lãi suất, tỷ giá) và rủi ro tác nghiệp; phát triển các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và quản lý, giám sát rủi ro tín dụng của các NHTMCP. Thực hiện cơ cấu, sắp xếp lại các bộ phận chức năng kinh doanh, quản trị, điều hành; sắp xếp, bố trí hợp lý cán bộ và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh ngân hàng có trình độ cao, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp tốt. Từng bước hiện đại hóa hệ thống công nghệ; phát triển hệ thống thông tin quản lý nội bộ, hạ tầng công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán nội bộ của các NHTMCP; nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi phù hợp với quy mô, mức độ phức tạp hoạt động và yêu cầu quản trị, điều hành của NHTMCP. 3.1.2.2. Giải pháp tái cơ cấu NHTMCP thiếu thanh khoản tạm thời Trước mắt NHNN cần thực hiện tái cấp vốn đối với các NHTMCP thiếu hụt thanh khoản tạm thời để đảm bảo khả năng chi trả của các NHTMCP và có thể trở lại hoạt động bình thường. Song song đó, các NHTMCP phải thực hiện chấn chỉnh củng cố tài chính, hoạt động và quản trị theo các giải pháp đã nêu đối với các NHTMCP lành mạnh để đảm bảo an toàn và hiệu quả kinh doanh, trong đó bao gồm xử lý nợ xấu, cải thiện và phục hồi khả năng chi trả, giảm hệ số nợ và hệ số sử dụng vốn. Các NHTMCP phải hạn chế tăng trưởng tín dụng, tích cực huy động vốn để trả nợ NHNN và tăng khả năng chi trả. 69 Trong giai đoạn này, các NHTMCP phải hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động, mà tập trung vào việc làm thế nào để phục hồi lại khả năng thanh khoản của mình. Ngoài ra, các NHTMCP trong trường hợp này cũng nên nghĩ đến phương án tìm một TCTD lành mạnh để thực hiện hợp nhất, sáp nhập hoặc hợp nhất, sáp nhập với các NHTMCP thuộc nhóm này để tăng năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh. 3.1.2.3. Giải pháp tái cơ cấu NHTMCP yếu kém Đây là nhóm ngân hàng cần phải thực hiện cấp bách nhiều giải pháp để tái cơ cấu nhằm tránh nguy cơ đỗ vỡ hệ thống. Trước mắt là phải tập trung hỗ trợ thanh khoản để đảm bảo khả năng chi trả cho NHTMCP yếu kém thông qua việc NHNN tái cấp vốn và NHTMCP yếu kém phải chịu sự giám sát đặc biệt một cách chặt chẽ, toàn diện của NHNN về quản trị, điều hành, tài chính và hoạt động hoặc có thể đặt NHTMCP này vào diện kiểm soát đặc biệt khi cần thiết. Trong trường hợp này, NHTMCP phải hạn chế chia cổ tức, lợi nhuận; giảm dư nợ tín dụng và hạn chế mở rộng quy mô hoạt động; và NHNN phải kiểm soát chặt chẽ việc chuyển nhượng cổ phần, góp vốn và tài sản của NHTMCP để tránh tình trạng tháo chạy của các cổ đông lớn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của ngân hàng và gây tâm lý bất ổn cho các cổ đông, nhà đầu tư khác. Ngoài ra, các NHTMCP yếu kém có thể bán lại các tài sản và khoản nợ có chất lượng tốt cho các TCTD lành mạnh khác để thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn. Để thực hiện được điều này đỏi hỏi phải có sự hỗ trợ của NHNN và sự tham gia tích cực của các TCTD lành mạnh khác. 70 Giải pháp hợp nhất, sáp nhập hay mua lại đối với các NHTMCP yếu kém cũng là giải pháp cần thiết để lành mạnh hóa tình hình tài chính. Đối với nhóm ngân hàng này, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại có thể trên cơ sở tự nguyện, nhưng nếu cần thiết NHNN cũng nên bắt buộc các ngân hàng này thực hiện. Việc sáp nhập, hợp nhất hay mua lại được thực hiện theo những hướng sau: Một là, NHTMCP yếu kém phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần; cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối của NHTMCP yếu kém phải chuyển nhượng cổ phần. Hai là, NHNN trực tiếp mua lại vốn điều lệ hoặc cổ phần của NHTMCP yếu kém để chấn chỉnh, củng cố, lành mạnh hóa một bước NHTMCP, sau đó sáp nhập, hợp nhất với TCTD khác hoặc bán lại cho các nhà đầu tư đủ điều kiện. Ba là, xem xét, cho phép TCTD nước ngoài mua lại, sáp nhập NHTMCP yếu kém của Việt Nam và tăng giới hạn sở hữu cổ phần của TCTD nước ngoài tại các NHTMCP yếu kém được cơ cấu lại. 3.2 Một số giải pháp tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài của các NHTMCP trên địa bàn TP.HCM Trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam và thực trạng của các NHTMCP, yếu tố then chốt quyết định thành công của kế hoạch tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM là sự lựa chọn khôn ngoan các giải pháp triển khai, huy động được sự tham gia của khu vực tư nhân, duy trì được lòng tin của nhân dân và tất nhiên phải đảm bảo vai trò chủ đạo, kiểm soát của Chính phủ và NHNNVN trong toàn bộ tiến trình tái cơ cấu. Với những khó khăn và thực tế nêu trên thì việc đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ khúc mắc của các 71 NHTMCP là vô cùng cần thiết. Tuy rằng, các giải pháp đưa ra không có nghĩa là giải pháp đó sẽ ngay lập tức được thực hiện, nhưng việc nghiên cứu giải quyết những bất cập hiện đang được quan tâm rất nhiều. Tác giả xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau: 3.2.1. Đối với NHTMCP 3.2.1.1. Về quy mô vốn - Các NHTMCP cần xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm với sử dụng vốn hợp lý để đảm bảo sự phát triển vốn bền vững và giảm bị áp lực về cổ tức đối với các cổ đông do tăng vốn một cách ồ ạt nhưng chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể, hiệu quả. - Cân nhắc, lựa chọn cổ đông chiến lược trong và ngoài nước để bán cổ phiếu phát hành trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi góp phần tận dụng, học hỏi kinh nghiệm quản lý công nghệ,… để nâng cao uy tín và thương hiệu ngân hàng. - Bên cạnh phát hành cổ phiếu, kế hoạch tăng vốn cũng nên quan tâm đến vấn đề phát hành trái phiếu chuyển đổi theo từng lộ trình, vừa tạo cho ngân hàng có nguồn vốn ổn định lâu dài để mở rộng quy mô kinh doanh vừa giảm áp lực chi trả cổ tức cho cổ đông. 3.2.1.2. Về nâng cao chất lượng tài sản - Xây dựng lộ trình xử lý nợ xấu cho phù hợp. Các NHTMCP phải chủ động tự xử lý nợ xấu thông qua việc nâng cao chất lượng quản trị điều hành, kiểm toán nội bộ, phát triển hệ thống quản trị rủi ro và các chiến lược phát triển kinh doanh, thủ tục cấp tín dụng theo hướng lành mạnh, thận trọng; Tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, đôn đốc, thu hồi nợ, xử lý tài sản đảm bảo. 72 - Về lâu dài, trên con đường hội nhập và phát triển các NHTMCP cần có nhiều đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Việc nghiên cứu và ứng dụng những kinh nghiệm và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là một trong những con đường hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu này. Các nguyên tắc của Basel về quản lý nợ xấu có thể được xem là một trong những cơ sở nền tảng khi xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTMCP để đảm bảo tính hiệu quả, an toàn và phát triển bền vững. 3.2.1.3. Về khả năng thanh khoản - Cơ cấu lại danh mục cấp tín dụng cho phù hợp như giảm tỷ lệ dư nợ/tổng vốn huy động, giảm cho vay vào các lĩnh vực nhiều rủi ro,... - Cơ cấu lại danh mục tài sản có theo hướng giảm đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm, nhiều rủi ro và tăng đầu tư vào các GTCG đủ điều kiện để giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. 3.2.1.4. Giải pháp về công nghệ - Cần phải xây dựng một chiến lược đầu tư công nghệ tổng thể có tầm nhìn dài hạn song song với chiến lược kinh doanh. - Tích cực huy động vốn từ nhiều nguồn để đầu tư cho công nghệ. - Thúc đẩy hoạt động hợp tác, liên kết để tranh thủ sự hỗ trợ về công nghệ của các tổ chức khác. - Xây dựng chính sách thu hút và đãi ngộ đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin để thu hút và tạo điều kiện để lực lượng này gắn bó lâu dài với ngân hàng. 73 3.2.1.5. Giải pháp về nguồn nhân lực - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ kinh doanh ngân hàng chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu của phát triển. - Chủ động tham gia đào tạo nguồn nhân lực theo đơn đặt hàng với các trường đại học. 3.2.2. Đối với NHNN và các cơ quan nhà nước 3.2.2.1. Đối với NHNN - Đẩy mạnh hoạt động của Công ty mua quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) để giúp tăng tính chuyên nghiệp trong khả năng xử lý nợ mà còn giúp tận thu giá trị của các khoản nợ xấu, bù đắp phần nào chi phí bỏ ra trong tiến trình tái cơ cấu các khoản nợ và bán lại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp khác. - Cải thiện lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng và đảm bảo tính minh bạch của các hoạt động ngân hàng. - Cải thiện hành lang pháp lý và xây dựng tiêu chuẩn ngân hàng hiện đại. NHNN cần đẩy mạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt là các quy định liên quan đến đảm bảo an toàn vốn. - Triển khai và giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động và quá trình tái cơ cấu của từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống, không để xảy xáo trộn hay đỗ vỡ ngoài tầm kiểm soát, tạo mọi điều kiện thuận lợi để quá trình tái cơ cấu của các ngân hàng được triển khai an toàn, hiệu quả. - Xây dựng chiến lược dài hạn về nguồn nhân lực của ngành để tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành ngân hàng. 74 3.2.2.2. Đối với các cơ quan khác - Các cơ quan nhà nước sớm xây dựng hệ thống văn bản pháp lý để Bảo hiểm tiền gửi có đủ năng lực tài chính và kỹ thuật để xử lý các ngân hàng đỗ vỡ, đồng thời với việc tạo dựng cơ sở pháp lý cho phép các ngân hàng phá sản. - Ban hành cơ chế chính sách xử lý nợ xấu trong ngắn hạn, không để vấn đề lợi ích nhóm chi phối, không biến nợ ngân hàng thành nợ của Chính phủ để cuối cùng Nhà nước phải chịu. 75 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Chương 3 của luận văn trình bày những vấn đề về định hướng và giải pháp chung của Nhà nước để thực hiện lộ trình tái cơ cấu đối với các NHTMCP. Ngoài ra, chương 3 cũng đưa ra một số đề xuất đối với các NHTMCP, NHNN và các cơ quan nhà nước khác nhằm tạo điều kiện cho các NHTMCP thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao năng lực tài chính trong thời gian tới. 76 KẾT LUẬN Có thể nói rằng tái cơ cấu hệ thống NHTM là sự thay đổi toàn bộ hay một phần về chất và lượng của quy mô tổ chức, tài chính, nguồn nhân lực để phát triển tăng thêm hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh của từng NHTM hay cả hệ thống NHTM. Tái cơ cấu các NHTM giống như các cỗ máy hoạt động không đảm bảo công suất trong một thời gian dài và đến lúc cần bắt tay vào cuộc đại tu để có thể trở thành cỗ máy lớn, đồng bộ, phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững hơn. Do việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là một trong những chương trình trọng yếu của quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mọi sai lầm trong quá trình này có thể sẽ làm cản bước hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch tái cơ cấu các lĩnh vực khác. Vì thế, cần có một lộ trình thận trọng phù hợp với điều kiện cụ thể, không nên dập khuôn, duy ý chí. Điều quan trọng của quá trình tái cơ cấu là phải thiết lập được một bộ tiêu chí rõ ràng để có thể phân loại được các tổ chức nào cần phải tái cơ cấu, các tổ chức nào cần được củng cố và các tổ chức nào cần phải loại bỏ. Đây là việc làm khó nhưng lại tối quan trọng bởi nếu làm không khéo sẽ khiến cho quá trình tái cơ cấu ít cơ hội thành công hoặc mất nhiều chi phí. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Lý Hoàng Ánh (2013), Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cấp cao ngành ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng số 08. 2. Báo cáo thường niên và Báo cáo tài chính của các NHTMCP năm 20102012. 3. Th.S Nguyễn Thị Gấm (2012), Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Kinh nghiệm một số nước châu Á, Tạp chí Ngân hàng số 05. 4. TS Lê Đình Hạc, Th.S Hoàng Thị Thanh Hằng (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phát triển bền vững NHTMVN, NXB Hồng Đức, TP.HCM. 5. Thanh Hương (2011), Quản lý tốt rủi ro thanh khoản - Một yếu tố cần thiết để tạo mặt bằng lãi suất hợp lý, Tạp chí Ngân hàng số 05. 6. TS Nguyễn Thị Loan, Th.S Trương Thị Phương Thảo (2012), Nâng cao năng lực tài chính của các NHTM - Kinh nghiệm thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phát triển bền vững NHTMVN, NXB Hồng Đức, TP.HCM. 7. PGS.TS Lê Thị Tuấn Nghĩa, Th.S Phạm Mạnh Hùng (2013), Tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 128+129. 8. Th.S Nguyễn Hữu Nghĩa (2012), Quyết tâm tái cấu trúc thành công nghệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015, Tạp chí Ngân hàng số 01+02. 9. Th.S Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Áp dụng những nguyên tắc của Basel trong quản lý nợ xấu ngân hàng thương mại Việt Nam,Tạp chí Ngân hàng số 10. 10. Th.S Đỗ Thị Tố Quyên (2011), Đầu tư nâng cao trình độ công nghệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam,Tạp chí Ngân hàng số 22. 78 11. Th.S Vũ Phúc Thái (2011), Một số giải pháp quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Ngân hàng số 10. 12. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 về việc phê Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015. 13. TS Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Quý (2012), Thực trạng và giải pháp quản trị ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phát triển bền vững NHTMVN,NXB Hồng Đức, TP.HCM. 14. Th.S Mã Văn Tuệ (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - Một phần cốt lõi để tái cấu trúc nền kinh kế, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phát triển bền vững NHTMVN, NXB Hồng Đức, TP.HCM.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan