Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tái cơ cấu ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam...

Tài liệu Tái cơ cấu ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

.DOC
84
12
74

Mô tả:

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ››› ĐINH CÔNG NHẬN TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2013 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ››› ĐINH CÔNG NHẬN BỘ QUỐC PHÒNG HỌC NGÂN VIỆN CHÍNH TRỊ CẤU HÀNG ››› TÁI CƠ ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ LÊ THỊ TUYẾT Mã số: 60 31 01 02 T¸C ®éng cña ®« thÞ hãa Người dẫntÕ khoa học: PGS, TShµ NGUYỄN TRỌNG XUÂN ®Õnhướng kinh n«ng th«n néi hiÖn nay Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60 31 01 02 HÀ NỘI - 2013 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN Chữ Viết đầy đủ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - VBARD Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng thương Chữ Viết Tắt ACB Agribank BIDV mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam) Ngân Hàng Thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam - EIB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội Ngân hàng nhà nước Ngân hàng thương mại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín - STB Thương mại cổ phần Công ty cho thuê máy bay Ngân hàng phát triển Việt Nam Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - VCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - CTG Eximbank MB NHNN NHTM SacomBank TMCP VALC VDB Vietcombank Vietinbank Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và 8 1.1. 1.2. Chương 2 Phát triển Việt Nam Thực trạng tái cơ cấu BIDV thời gian qua QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TÁI CƠ CẤU 8 29 NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Quan điểm chỉ đạo thúc đẩy tái cơ cấu BIDV 2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 48 48 51 88 90 93 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài: Những thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi quan trọng, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Tuy nhiên từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp. Kinh tế khó khăn, tổng cầu giảm mạnh, doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng hóa, do đó nhu cầu vay và khả năng trả nợ vay ngân hàng của các doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm sút. Vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế không tăng. Trong khó khăn của nền kinh tế, những tồn tại, hạn chế nội tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam được tích tụ trong nhiều năm qua chưa được giải quyết triệt để đã bộc lộ ngày càng nhiều. Trước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (Khóa XI) đã ra Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 nêu rõ: “Trong 5 năm tới, cần tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước”. Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, BIDV nói riêng ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu tác động đa chiều từ những biến động của thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt sau thời điểm 01/01/2011, khi Việt Nam chính thức mở cửa toàn diện hoạt động ngân hàng theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam làm gia tăng cạnh tranh cũng như áp lực đối với các ngân hàng trong nước, trong đó có BIDV. Điều đó đặt ra cho BIDV phải đổi mới hoạt động theo hướng hiện đại và chuẩn mực hơn. Với định hướng trở thành 1 trong 2 ngân hàng ngang tầm khu vực đến 2015, BIDV cần phải tập trung tái cấu trúc để nâng cao năng lực cạnh tranh, tính minh bạch. Thời gian qua, BIDV đã tích cực cơ cấu lại và bước đầu đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, cũng còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình cơ cấu lại của BIDV. Làm thế nào để cơ cấu lại BIDV có hiệu quả là một câu hỏi lớn cần phải được trả lời có cơ sở khoa học. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là BIDV giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt và có tính quyết định đến sự phát triển bền vững của toàn hệ thống ngân hàng và cho bản thân BIDV, nên đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và cho đăng tải các công trình trên các báo, tạp chí, các trang Websete. Tiêu biểu là: Hà My với bài “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước - giải bài toán chất lượng hiệu quả”, đăng trên Báo Sài Gòn giải phóng ngày 25 tháng 10 năm 2011; Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước để xứng đáng với kỳ vọng “quả đấm thép”, đăng trên Báo Đại đoàn kết, ngày 14/10/2011, của Thúy Hằng; “Tái cơ cấu mạnh mẽ doanh nghiệp Nhà nước” của Đỗ Phú Thọ, đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 9/9/2012; “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Không thể trì hoãn”, của Linh Đan, đăng trên Báo điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, ngày 24/7/2012... “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Chấm dứt đầu tư ngoài ngành”, của Việt Nguyễn đăng trên Báo Gia đình ngày 23/7/2012. Các bài viết trên đây đều khẳng định tái cơ cấu nền kinh tế nước ta, mà trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống tài chính (trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thương mại) là một vấn đề tất yếu, mang tính cấp bách. Đặc biệt các bài viết đã tập trung phân tích tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và đều khẳng định: hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước không tưng xứng với đầu tư của nhà nước; để doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì tất yếu phải tái cơ. Một số tác giả đã đề xuất nguyên tắc, giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại một số nước Đông nam Á, Tài liệu hội thảo tái cơ cấu các NHTM Nhà nước, NHNN Việt Nam Hà nội 2005 của Bùi Thị Thuỷ, Phan Thị Diệu Hương; Phạm Chí Quang (2000), Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngân hàng`, số 6. Hai bài viết này của các tác giả mặc dù chưa đề cập đến khái niệm, nội hàm của tái cơ cấu ngân hàng, song đã phân tích khá sâu sắc bối cảnh cạnh tranh hiện nay của các ngân hàng thương mại trên thế giới và đặc biệt là ở Đông Nam Á; từ đó chỉ ra những kinh nghiệm quý mà các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể nghiên cứu học tập trong quá trình tái cơ cấu. Lê Xuân Nghĩa, Một số vấn đề về chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Tài liệu hội thảo khoa học về Vai trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam, tháng 1/2006 – Hà nội. Công trình đã đề cập đến vai trò của ngân hàng thương mại; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp chiến lược phát triển ngân hàng thương mại đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. PGS.TS Nguyễn Thị Mùi - Trường Đào tạo & PTNNL VietinBank đã có bài viết “Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, đăng trên trang tin nội bộ VietinBank. Bài viết đã hệ thống hóa ngân hàng thương mại Việt Nam, phân tích những ưu điểm, hạn chế, bất cập hiện nay của hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó khẳng định tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là một tất yếu, mang tính cấp bách. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập sâu đến hệ thống giải pháp để tái cơ cấu ngân hàng thương mại. Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ của Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển Ngân hàng đăng trên http://ecna.gov.vn; Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam của Tiến sỹ Vũ Đình Ánh, đăng trên http://www.ameco.com.vn/; Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Việt Nam của của Tiến sỹ Vũ Văn Thực, đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập; Lê Xuân Nghĩa, Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngân hàng thương mại nhà nước theo đề án, Tạp chí Tài chính số tháng 8/2004. Các bài viết của các tác giả trên đã phân tích sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và đề xuất các giải pháp để tái cơ cấu. Tuy nhiên, trong mỗi bài viết các tác giả chưa đề cập một cách hệ thống các vấn đề lý luận, thực tiễn của tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam mà mới bàn đến các khía cạnh khác nhau của tái cơ cấu ngân hàng thương mại. Vũ Duy Tín, Một số vấn đề về xây dựng mô hình quản trị rủi ro hiệu quả tại các NHTM Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 18/2006. Trong bài viết này tác giả đã phân tích khá sâu sắc biện pháp kỹ thuật trong xây dựng mô hình quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại. Lê Xuân Nghĩa (2004), Những vướng mắc và một số giải pháp thực hiện thành công cổ phần hoá NHTM Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề Cổ phần hoá. Tác giả đã phân tích những bất cập vướng mắc trong tái cơ cấu ngân hàng thương mại; từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp khá đồng bộ để tái cơ cấu ngân hàng thương mại trong thời gian tới. Định hướng chiến lược của BIDV trong giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020 trên trang BIDV Internet 27/12/201. Bài viết đã đề cập đến thực trạng BIDV, mục tiêu và giải pháp định hướng chiến lược phát triển BIDV đến năm 2020. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào bàn đến tái cơ cấu BIDV một cách hệ thống hoàn chỉnh với cơ sở lý luận, thực tiễn, và hệ thống giải pháp khả thi để thúc đẩy tái cơ cấu BIDV. Vì vậy đề tài lựa chọn không trùng lặp với các công trình đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của tái cơ cấu BIDV; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận của tái cơ cấu BIDV - Phân tích thực trạng của tái cơ cấu BIDV thời gian qua. - Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV trong thời gian tới. 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tái cơ cấu ngân hàng - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Từ tháng 5/2012 là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam), thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu lại hệ thống tài chính ngân hàng. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng hóa hoa học; cùng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của đề tài - Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc tái cơ cấu BIDV hiện nay. - Luận văn góp phần giúp các nhà quản lý BIDV tham khảo các giải pháp để thúc đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV có hiệu quả. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy, học tập môn kinh tế chính trị trong các học viện, trường đại học ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 1.1. Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1.1.1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam * Ngân hàng Hệ thống ngân hàng trên thế giới đã ra đời từ những năm đầu thế kỷ XV và có sự phát triển lâu dài, từ ngân hàng sơ khai đến ngân hàng hiện đại như ngày nay. Cùng với sự phát triển đó có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về Ngân hàng. Nghiên cứu tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra: Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản tiền tệ trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp tách ra và vận động độc lập. Lợi tức cho vay là cái giá mà nhà tư bản hoạt động (tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp) phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được tạm thời sử dụng khoản tư bản tiền tệ của người đó. Nguồn gốc duy nhất của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuât. Trong chủ nghĩa tư bản, tính dụng chính là hình thức vận động của tư bản cho vay. Có hai hình thức tín dụng là tính dụng thương nghiệp và tính dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa những người có tiền và cho những người sản xuất kinh doanh vay tiền qua ngân hàng làm môi giới. Ngân hàng là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người cho vay và người đi vay. Theo WordBank: “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm). Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động tín dụng, người ta chia ngân hàng ra thành: Ngân hàng thương mại chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn hạn và trung dài hạn; Các ngân hàng đầu tư hoạt động buôn bán chứng khoán và bảo lãnh phát hành; Các Ngân hàng nhà ở cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà ở và nhiều loại khác nữa. Tại một số nước còn có các ngân hàng tổng hợp kết hợp hoạt động ngân hàng thương mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và đôi khi thực hiện cả dịch vụ bảo hiểm”. [12 - tr24] Theo Peter S.Rose: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán. Và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. [27 - tr 30] Theo luật pháp nước Mỹ: “bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng”. [27 - tr31] - Theo luật 6 - 41 của Pháp “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên, nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì được coi là Ngân hàng”. [28 - tr 38] Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dưới sự tác động của môi trường cạnh tranh và hợp tác đã tạo nên sự xâm nhập lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại với các định chế tài chính phi ngân hàng, với các công ty hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn. Từ đó làm cho việc rút ra một định nghĩa chính xác về ngân hàng thương mại không phải là điều dễ dàng. - Theo quy định tại Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X thông qua, thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác”. [9 – tr12] “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. [9 – tr12,13] Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về ngân hàng, có thể rút ra: - Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính làm cầu nối giữa những người tiết kiệm và đầu tư. - Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt - đó là tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Vì vậy có thể nói các ngân hàng thương mại là những doanh nghiệp đặc biệt. Thể hiện ở số vốn điều lệ, dịch vụ thực hiện và những ràng buộc về hạn mức kinh doanh. - Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp cung cấp các danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. * Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam) Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày 23/4/2012, theo Giấy phép số 84/GP-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cùng ngày, Thống đốc NHNN có văn bản số 2454/NHNN - TTGSNH xác nhâ ̣n BIDV đã đăng ký bản Điều lê ̣ tổ chức và hoạt đô ̣ng của BIDV (đính kèm văn bản số 252/TTr-HĐQT ngày 15/3/2012 của BIDV) với NHNN. Theo đó Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam được thành lâ ̣p trên cơ sở cổ phần hóa và chuyển đổi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam 100̉ vốn Nhà nước chính thức từ tháng 5/2012. (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chính thức thành lập ngày 26 tháng 4 năm 1957 theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo thời gian, Ngân hàng có các tên gọi khác nhau: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26 tháng 4 năm 1957; Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 24 tháng 6 năm 1981; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14 tháng 11 năm 1990; Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 01 tháng 5 năm 2012). Tên đầy đủ của ngân hàng này bằng Tiếng Viê ̣t là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam; tên đầy đủ bằng tiếng Anh là: Joint Stock Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam; tên giao dịch là: BIDV. BIDV được thành lâ ̣p dưới hình thức công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng theo quy định của Pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam. BIDV có vốn điều lê ̣ là 28.251.382 triệu đồng và có thời hạn hoạt đô ̣ng là 99 năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lâ ̣p và hoạt đô ̣ng. BIDV thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước (Tập đoàn). BIDV là NHTM hoạt động đầy đủ các chức năng của một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng, bao gồm: nhâ ̣n tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiê ̣m và các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu; cấp tín dụng; mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung ứng các phương tiê ̣n thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán; vay vốn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luâ ̣t Ngân hàng Nhà nước Viê ̣t nam; vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luâ ̣t; mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tài khoản thanh toán tại tổ chức tín dụng khác và mở tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luâ ̣t về ngoại hối; tổ chức và tham gia các hê ̣ thống thanh toán; góp vốn, mua cổ phần; tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tê ̣; kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh; ủy thác, nhâ ̣n ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt đô ̣ng ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của NHNN; các hoạt đô ̣ng kinh doanh khác của NHTM. Các nô ̣i dung hoạt đô ̣ng này của BIDV được quy định cụ thể, chi tiết trong giấy phép thành lâ ̣p và hoạt đô ̣ng. Cơ cấu tổ chức bộ máy của BIDV : “Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam có trụ sở chính tại Tháp BIDV, số 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngân hàng đã phát triển mạng lưới truyền thống và hiện đại rộng khắp, phủ kín 63 tỉnh thành phố trên cả nước, tổng số mạng lưới của BIDV đến 31/12/2012 với 118 chi nhánh và trên 528 điểm mạng lưới, 1.295 Cây rút tiền tự động/Máy chấp nhận thanh toán thẻ, với 18.000 cán bộ nhân viên, là một trong 3 ngân hàng thương mại Nhà nước có mạng lưới rộng nhất Việt Nam. Ngoài ra BIDV còn có 5 công ty con: Công ty cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên 100̉ vốn BIDV (BLC) ; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quản lý Nợ và khai thác tài sản BIDV (BAMC) 100̉ vốn BIDV; Công ty cổ phần chứng khoán BIDV (BSC) vốn 88,12̉ của BIDV; Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm BIDV (BIC) vốn 82,30̉ của BIDV; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quốc tế BIDV vốn 100̉ BIDV). BIDV tham gia góp vốn liên doanh: Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (BRB, vốn 51̉); Ngân hàng Lào – Việt (LVB, vốn 50̉); Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Capuchia (BIDC, vốn 50̉); Ngân hàng liên doanh Việt nam – Malaysia (VID – Public Bank, vốn 50̉); Công ty liên doanh quản lý đầu tư (BVIM, vốn 50̉); Công ty liên doanh tháp BIDV (BTC, vốn 55̉) Tiến tới Ngân hàng Việt Nam – Myanma); tham gia góp vốn Công ty cổ phần đường cao tôc (BEDC, vốn 25̉); Công ty cho thuê Máy bay (VALC, vốn 20̉)”. [1] * Khái niệm, nội dung tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam) Cơ cấu ngân hàng, là mối tương quan tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành theo các tiêu chí khác nhau của một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có những đặc thù riêng sẽ có những cơ cấu riêng phù hợp với ngân hàng mình. Tuy nhiên, không phải mọi mối tương quan tỷ lệ đều nói lên cơ cấu (dù cơ cấu là tỷ lệ). Chỉ có những tỷ lệ quan trọng, quyết định đến sự an toàn và sinh lợi của ngân hàng mới tạo nên cơ cấu. Nhìn chung, cơ cấu của ngân hàng thương mại bao gồm: cơ cấu tài chính; cơ cấu hoạt động; cơ cấu tổ chức; cơ cấu nhân lực. Khi nghiên cứu cơ cấu của các ngân hàng thương mại, chúng ta thường chú trọng đến thực tế cơ cấu hiện tại của các ngân hàng có phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hay không. Cơ cấu chỉ một trạng thái thông qua các tỷ lệ, do đó nó có thể ổn định trong một khoảng thời gian nhất định, cũng có thể có sự thay đổi nếu các ngân hàng cần thay đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể. Quá trình thay đổi đó cũng chính là quá trình tái cơ cấu. Theo tác giả thì: Tái cơ cấu ngân hàng là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ cơ cấu tài chính, cơ cấu hoạt động, cơ cấu tổ chức và quản lý, cơ cấu nguồn nhân lực để đạt được hiệu quả trong kinh doanh, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh bền vững, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Trong đó những tỷ lệ quan trọng về vốn, tài sản, năng lực quản lý nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn, nâng cao sức cạnh tranh và sinh lợi cho ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. BIDV là một ngân hàng TMCP Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo hiến pháp, pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, BIDV cũng phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh. Tái cơ cấu doanh nghiệp là công việc diễn ra thường xuyên, đặc biệt vào những thời điểm có sự thay đổi lớn của môi trường kinh doanh như khủng hoảng kinh tế, tài chính, tình trạng cạnh tranh gia tăng, chính sách thay đổi hoặc có sự xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh mới cần được triệt để khai thác... Đây là một quá trình tạo ra sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: Tái cơ cấu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam là việc tổ chức sắp xếp lại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho phù hợp với điều kiện tình hình mới, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò chủ đạo của BIDV trên thị trường; các nội dung phải tái cơ cấu là cơ cấu lại tài chính, cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại tổ chức, cơ cấu lại nhân lực. Chủ thể tiến hành tái cơ cấu BIDV: là Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên của BIDV. Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, Pháp luật Nhà nước, hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước và thực tế của BIDV, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên tiến hành tái cơ cấu đơn vị mình trong phạm vi chức trách được phân công. Tái cơ cấu là việc làm trọng đại, liên quan đến mọi lực lượng trong BIDV nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng, do đó muốn tái cơ cấu có hiệu quả phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy đảng các cấp, sự đồng tình ủng hộ của toàn thể cán bộ, nhân viên trong BIDV. Đối tượng của tái cơ cấu BIDV: là tất cả các đơn vị thành viên của BIDV. Mục tiêu của tái cơ cấu BIDV: là củng cố nâng cao năng lực hoạt động đảm bảo hiệu quả, an toàn và bền vững, tạo lập nền tảng vững chắc cho BIDV hoạt động nhằm nâng cao vai trò dẫn dắt, vị trí chủ đạo của BIDV trên thị trường, có năng lực quản trị tiên tiến, có phạm vi hoạt động và quy mô hàng đầu Việt Nam, kinh doanh an toàn, hiệu quả. Phấn đấu đến 2015 trở thành một trong hai ngân hàng đạt quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng khác trong khu vực về quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh, có thương hiệu uy tín, phát huy vai trò là đối tác kinh tế lớn và tin cậy trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Cụ thể (theo Đề án Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020): - Tăng trưởng bình quân qui mô tổng tài sản ở mức tối thiểu 20̉. Giai đoạn 2013-2015 tổng tài sản tăng bình quân 20̉, huy động vốn tăng bình quân 25̉. - Năng lực tài chính, năng lực vốn: đảm bảo đạt tăng trưởng lợi nhuận bình quân ở mức 34̉ giai đoạn 2013-2015 và hệ số an toàn vốn (CAR) đạt trên 10̉ theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) và trên 8̉ theo chuẩn mực báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS). - Nâng cao chất lượng và hiệu quả: Tỷ lệ nợ xấu kiểm soát ≤ 2,4̉ hết 2013 và ≤ 2̉ đến 2015; Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA), Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) đạt tối thiểu theo thông lệ và trung bình ngành, đảm bảo cạnh tranh trên thị trường. - Tăng cường năng suất lao động và đảm bảo nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên. Đáp ứng đầy đủ lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư, đảm bảo cổ tức cho cổ đông ở mức cạnh tranh so với thị trường, tối thiểu bằng mức lãi suất tiết kiệm 12 tháng. Trở thành 1 trong những ngân hàng được xếp hạng tín nhiệm tốt nhất tại Việt Nam bởi các tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế; đảm bảo năng lực nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ đạt trần quốc gia. Nội dung tái cơ cấu BIDV: được tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu sau: Một là, cơ cấu lại tài chính của BIDV Nội dung trọng tâm của cơ cấu lại tài chính của BIDV là xử lý nợ xấu và tăng vốn. Việc xử lý nợ xấu lành mạnh hoá tài chính của BIDV trong chương trình cơ cấu lại BIDV là vô cùng quan trọng. Bởi vì: nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ của hệ thống BIDV; nợ xấu tạo ra gánh nặng chi phí cho BIDV, suy giảm khả năng huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế, làm giảm lòng tin của dân chúng và uy tín quốc tế đối với hệ thống của BIDV; nợ xấu làm cản trở quá trình hội nhập, làm giảm khả năng cạnh tranh của BIDV. Song song với việc giải quyết nợ tồn đọng lành mạnh hóa tài chính của BIDV là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Năng lực tài chính của BIDV thể hiện trước hết ở quy mô vốn tự có của BIDV. Quy mô vốn tự có như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh doanh. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn với những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay luôn tiềm ẩn những rủi ro bất ngờ. Vốn tự có còn ảnh hưởng đến mức đầu tư và công nghệ ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công nghệ. Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) thì một NHTM Nhà nước phải có số vốn điều lệ lớn hơn 300 triệu Đồng đô la Mỹ (USD) thì mới được coi là ngân hàng loại trung bình. Do đó khi tiến hành cơ cấu lại tài chính BIDV đòi hỏi phải có những biện pháp nhằm tăng vốn để có thể tăng khả năng tài chính cho ngân hàng. Giúp BIDV có thể tự tin và chủ động trong những biện pháp cũng như hoạt động của ngân hàng mình. Mặt khác cần phải thực hiện các hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực theo tiêu chuẩn Hiệp ước về vốn (BaselI) và Quy định chủ yếu về 3 nguyên tắc cơ bản về quản lý rủi ro (Basel II). Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8̉. Hai là, cơ cấu lại hoạt động của BIDV Cơ cấu lại hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Đồng thời tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát các hoạt động ngân hàng với mục tiêu tăng cường chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo quyền tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết định kinh doanh. Cơ cấu lại hoạt động của BIDV bao gồm các nội dung chính: - Cơ cấu lại quản lý tín dụng , nhằm mục đích hướng tới khách hàng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng với chất lượng cao. Đồng thời đảm bảo quản lý tín dụng một cách an toàn dựa trên các quy định và nguyên tắc về hoạt động tín dụng theo chuẩn mực ngân hàng quốc tế. - Cơ cấu lại công tác quản lý vốn, nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược kinh doanh, đồng thời giảm chi phí huy động vốn, giảm thiểu rủi ro, tăng năng lực tài chính. Thông thường để đạt được hiệu quả trong công tác quản lý vốn BIDV phải thành lập ban quản lý tài sản nợ - tài sản có trực thuộc ban điều hành của ngân hàng. - Quản lý rủi ro, là một trong những vấn đề quan trọng trong quản trị của BIDV. Xây dựng các thiết chế quản lý rủi ro nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động của ngân hàng: rủi ro tín dụng; rủi ro thanh khoản; rủi ro lãi suất; rủi ro hoạt động; rủi ro tỷ giá. Về mặt lý thuyết, quản lý rủi ro là một quá trình quan trọng được dựa trên cơ sở kết hợp lý thuyết xác suất và lý thuyết rủi ro. Nó phụ thuộc vào chính sách của Ngân hàng Nhà nước, chính sách của BIDV. Hoạt động quản lý rủi ro ngân hàng có thể được xem như một chu kỳ bao gồm 4 giai đoạn: xác định rủi ro; định lượng rủi ro; quản lý rủi ro; kiểm soát rủi ro - Hoàn thiện hệ thống kế toán, kiểm toán, tiến hành áp dụng hệ thống kế toán quốc tế hoặc phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đánh giá đúng thực trạng tài chính của BIDV, đồng thời xây dựng các thiết chế an toàn cho hoạt động của BIDV phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Ba là, cơ cấu lại tổ chức và quản lý của BIDV Cơ cấu tổ chức và quản lý của BIDV hiện còn nhiều bất cập, hoạt động chưa thực sự có hiệu quả. Bởi vậy khi cơ cấu lại BIDV, nội dung được đề cập đến như một tất yếu đó là cơ cấu lại mô hình tổ chức và quản lý ngân hàng. Các nội dung cơ bản khi tiến hành cơ cấu lại tổ chức và quản lý BIDV là: - Tổ chức bộ máy và cơ cấu điều hành: Nguyên tắc cơ bản là sự phân tách giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và cân bằng về nguồn lực. - Công cụ và chính sách quản lý: + Cần phải có những công cụ và chính sách quản lý hiện đại và có hiệu quả (đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng). + Hệ thống thông tin báo cáo phải khoa học, tránh sự chồng chéo nhằm cung cấp kịp thời cho các nhà lãnh đạo của BIDV những biến động của lãi suất, tỉ giá cũng như những biến động thị trường. + Hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ phải có sự phân biệt rõ ràng. Kiểm soát nội bộ là một công cụ của Ban Giám đốc nhằm đảm bảo việc tuân thủ những chính sách và thủ tục, ngăn chặn các hành động lạm dụng và vi phạm quy chế cũng như tăng cường công tác quản lý rủi ro và điều hành trong toàn hệ thống. Kiểm toán nội bộ là đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính do bộ phận kế toán lập để cung cấp cho Ban Giám đốc theo định kỳ hoặc tiến hành những cuộc kiểm tra cụ thể theo yêu cầu của Ban Giám đốc. - Bộ phận phân tích thị trường: chiến lược kinh doanh càng cụ thể, rõ ràng thì càng dễ dàng được nhận thức và cụ thể hoá bằng những chính sách và giải pháp kinh doanh hiệu quả. Vì vậy cần có một bộ phận phân tích thị trường và lập kế hoạch kinh doanh riêng rẽ. - Mạng lưới chi nhánh và mô hình tổ chức: Tổ chức theo mô hình hiện đại, hướng theo khối khách hàng và sản phẩm. Mô hình này cho phép BIDV có thể theo sát với nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng nhận ra động thái của đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra giải pháp đối phó kịp thời khi gặp rủi ro. Bốn là, tái cơ cấu nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ - Tái cơ cấu nguồn nhân lực: Để BIDV có đủ năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế, bên cạnh những yếu tố như năng lực tài chính mạnh, mô hình tổ chức hiện đại, thì cơ cấu nhân lực phải đảm bảo hợp lý và hiệu quả. Có thể nói trình độ của nhân viên ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với BIDV. Yếu tố con người góp phần đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của BIDV trong một thị trường và môi trường công nghệ liên tục phát triển thay đổi. Trong điều kiện hiện nay buộc nhà quản lý ngân hàng phải chú ý hơn tới hoạt động Marketing và những phản ứng từ phía cổ đông. Những hoạt động mới này đòi hỏi ngân hàng phải có một đội ngũ nhân viên quản lý có thể đầu tư thời gian và có năng lực trong việc khảo sát nhu cầu, phát triển các dịch vụ mới thay đổi các dịch vụ cũ cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Hiện nay do sức ép của hội nhập và toàn cầu hoá, hoạt động của BIDV có tính nhạy cảm cao do kinh doanh tiền tệ, tiêu chí của một ngân hàng là kinh doanh đa năng, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ hiện đại, ứng dụng được các thành tựu của công nghệ thông tin... Do vậy, trong cơ cấu nhân lực của BIDV là phải tạo dựng được đội ngũ cán bộ quản lý tinh thông nghiệp vụ, quản lý giỏi và thực sự năng động. Trong xu hướng hiện đại của nền kinh tế, BIDV cần phải xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn. Đây là điểm mấu chốt mà trong cơ cấu nhân lực BIDV phải quan tâm tới. Việc củng cố và nâng cao chất lượng cán bộ đủ năng lực quản lý trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá, vững về chính trị, tinh thông nghiệp vụ ngân hàng và các nhạy bén với các vấn đề kinh tế khác, có khả năng sử dụng ngoại ngữ, phong cách hiện đại, tác phong công nghiệp, kỷ luật cao và đặc biệt nắm vững kỹ năng quản lý. Xây dựng được đội ngũ cán bộ như vậy trong cơ cấu của mình sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của BIDV trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay. - Phát triển công nghệ: Từng bước hiện đại hóa công nghệ của BIDV nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng. Công nghệ ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng mạnh trên thế giới. Theo quy luật, ngân hàng yếu sẽ bị thất bại, ngân hàng mạnh sẽ giành thế chủ động trong thị trường. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng bao gồm: Hiện đại về trang thiết bị, máy móc, đây là những yếu tố cốt lõi để “sản xuất” ra các sản phẩm ngân hàng tiện ích. Hiện nay bên cạnh các nghiệp vụ truyển thống BIDV muốn thu hút khách hàng cần phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là dịch vụ từ công nghệ. Sản phẩm của BIDV đều liên quan đến công nghệ. Nếu không hiện đại hoá công nghệ chắc chắn sản phẩm của BIDV sẽ bị lạc hậu. Các sản phẩm công nghệ chủ yếu của BIDV hiện nay là các loại thẻ thanh toán. Sự đa năng và tiện ích của các sản phẩm này không chỉ dừng lại ở một hoặc hai giao dịch mà còn phải có nhiều chức năng “thông minh” hơn khi sử dụng. Để làm được điều đó đòi hỏi BIDV cần phải hiện đại hoá công nghệ của mình. Hiện đại hoá công nghệ còn thể hiện ở các quy trình làm việc trong hệ thống của BIDV. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc tách rời nhưng cùng hệ thống… tạo ra sự hiệu quả và làm giảm chi phí nhân lực cho BIDV rất nhiều. Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi khách hàng, hệ thống kế toán… của BIDV đòi hỏi phải có sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho BIDV trong việc dự báo, phòng ngừa và khắc phục rủi ro. Hiện đại hoá công nghệ là một nội dung tất yếu trong lộ trình cơ cấu lại BIDV. Bởi không thể tách rời cơ cấu nội dung khác với công nghệ ngân hàng. Muốn nâng cao năng lực tài chính hay cơ cấu tổ chức, quản lý cho BIDV thì đóng góp của công nghệ ngân hàng là không thể thiếu. Đặc biệt là trong giai đoạn là công nghệ bùng nổ hiện nay. 1.1.2. Sự cần thiết phải tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( nay Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam) Trong giai đoạn hiện nay, việc tái cơ cấu BIDV được xuất phát từ những lý do sau: Một là, tái cơ cấu lại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chính là việc chấp hành chủ trương của Đảng và Chính phủ về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng nhằm tránh rủi ro cho ngân hàng Hội nghị Trung ương III (khóa XI) của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ then chốt đối với kinh tế Việt Nam. Trong đó, tái cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là một trong 3 lĩnh vực cần tập trung thực hiện trong giai đoạn 2011-2015. Thực hiện chủ trương trên, ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Mục tiêu của tái cơ cấu là tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các Tổ chức tin dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là hoàn toàn đúng đắn. Điều này được xuất phát từ vai trò, vị trí của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính đối với nền kinh tế và từ những nguy cơ gặp rủi ro của tổ chức này hiện nay. Thực tế cho thấy, tuy đạt được một số kết quả trong hoạt động, song thời gian qua, các ngân hàng thương mại đã bộc lộ không ít dấu hiệu bất ổn thể hiện qua nhiều vấn đề như nợ xấu gia tăng, tính thanh khoản yếu, dịch vụ nghèo nàn, lách luật, chạy đua lãi suất gây xáo trộn thị trường. Khi nền kinh tế khó khăn kéo dài, bất động sản và chứng khoán sa sút, tín dụng đen đổ bể các vấn đề đó càng trở nên gay gắt, đòi hỏi phải tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại để tránh những hậu quả khó lường. “Tính đến tháng 12 năm 2012, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: 5 ngân hàng thương mại nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hội; 37 ngân hàng thương mại cổ phần; 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh; 47 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 16 công ty tài chính; 13 công ty cho thuê tài chính. Ngoài ra, Việt Nam còn có Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) và Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương với 915 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Hệ thống tài chính của Việt Nam đã phát triển rất mạnh kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay và đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước. Với tổng tài sản gấp hơn 2 lần so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trong đó, tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế đã tăng rất nhanh và lên đến 125̉ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cuối năm 2010, hệ thống các Tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung, ngân hàng thương mại nói riêng đã trở thành nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, cả vốn ngắn, trung và dài hạn, cả vốn bằng đồng Việt Nam (VND) cũng như bằng ngoại tệ. Một số NHTM và Tổ chức tín dụng (TCTD) lớn đã vươn lên thành tập đoàn tài chính với quy mô vốn điều lệ tương đương hàng trăm triệu đồng đô la Mỹ (USD), hoạt động đầu tư trong nhiều lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại tệ, cho thuê tài chính… thông qua hệ thống hàng trăm chi nhánh, sử dụng hàng vạn lao động, thành lập nhiều công ty con đạt lợi nhuận mỗi năm tới hàng ngàn tỉ đồng (VNĐ)”. [1] Tuy nhiên, chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống ngân hàng trong thời gian vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, cơ cấu lại hệ thống tài chính nói chung, nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống, trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống, như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế đã chỉ ra. Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản lao dốc; hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan