LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện những bất ổn kinh
tế vĩ mô như thâm hụt ngân sách gia tăng cùng nguy cơ rủi ro nợ công,… Theo
nhiều chuyên gia, một trong những nguyên nhân chính của những bất ổn vĩ mô
thời gian qua là do mô hình tăng trưởng theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào vốn
đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhưng với chất lượng thấp. Mô hình này đã và đang
đe dọa khả năng tăng trưởng bền vững trong dài hạn của nền kinh tế.
Mười năm gần đây, tổng đầu tư toàn xã hội liên tục tăng và duy trì ở mức cao.
Tỷ lệ vốn/GDP bình quân cho cả giai đoạn 2001–2010 là xấp xỉ 41%, so với 30,7%
trong giai đoạn 1991–2000. Xét về cơ cấu thì đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước
vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng đầu tư xã hội. Gần đây tỷ trọng vốn đầu tư của
Nhà nước có giảm nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng và việc giảm sút này không phải
do nhà nước hạn chế bớt đầu tư công, mà do đầu tư từ các khu vực kinh tế khác có
tốc độ tăng cao hơn.
Đầu tư công trong thập niên qua đã làm thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, thúc đẩy phát triển kinh tế–xã hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống
người dân, bảo đảm quốc phòng an ninh, song đánh giá hiệu quả của đầu tư công
còn nhiều ý kiến khác nhau.
Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR của Việt Nam tương đối cao.
Trong khi đó, hệ số ICOR ở các nước trong giai đoạn phát triển tương đương với
Việt Nam hiện nay thấp hơn nhiều. Hệ số ICOR cho khu vực kinh tế nhà nước
trong thời gian gần đây liên tục dao động ở mức 7–8, cao hơn mức trung bình
chung của nền kinh tế là 5,2. Hiệu quả đầu tư công thấp là hệ quả của hàng loạt các
yếu tố như: (i) đầu tư thiếu quy hoạch, dàn trải và phân tán; (ii) vốn được phân bổ
vào quá nhiều công trình, dự án; (iii) quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém; (iv)
phân cấp quyết định và sử dụng vốn đầu tư chưa đi kèm với giám sát, kiểm soát
chất lượng và hiệu quả đầu tư...
Cơ cấu đầu tư công trong các ngành chưa thể hiện rõ được vai trò “bà đỡ” cho
nền kinh tế. Trong giai đoạn 2000–2009, đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh
tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh
vực xã hội, liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người từ 17,6% năm 2000
giảm xuống còn 15,2% năm 2009, trong đó đầu tư cho khoa học, giáo dục và đào
tạo giảm tỷ trọng từ 8,5% năm 2000 xuống còn 5,1% năm 2009; y tế và cứu trợ xã
hội từ 3,2–3,9% những năm 2004–2008 giảm còn 2,8% năm 2009, như vậy, đầu tư
công vào phát triển nguồn lực con người còn chưa được chú trọng.
1
Với những vấn đề tồn tại chính trong đầu tư công đã nêu trên, đang là một
trong những trở ngại lớn, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế
Việt Nam trong thời gian tới. Hiện nay, yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế đang đặt ra
cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới 2011–2020
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng
vững chắc để đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để tái cấu trúc nền kinh tế, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XI cũng đã khẳng định tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công,
cùng với tái cơ cấu thị trường tài chính tiền tệ và tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp
nhà nước, là những trọng tâm trong giai đoạn tới. Tuy các quan điểm đều đồng
thuận cần phải tái cấu trúc lại đầu tư công, nhưng phương cách tái cơ cấu và lộ
trình như thế nào thì còn chưa rõ ràng và chưa đủ sức thuyết phục tạo sự đồng
thuận trong xã hội.
Nhằm cung cấp tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các
nhà hoạch định chính sách và bạn đọc thấy được vai trò của đầu tư công và giải
pháp tái cơ cấu đầu tư công đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong thời gian
tới, cuốn sách Tái cơ cấu đầu tư công để phát triển bền vững của một tập thể
cán bộ nghiên cứu do Ts. Nguyễn Đức Kiên làm chủ biên ra đời trên cơ sở các kết
quả nghiên cứu chủ yếu của đề tài khoa học cấp bộ ”Đánh giá vai trò của đầu tư
công và giải pháp tái cơ cấu đầu tư công đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”.
Nội dung cuốn sách hệ thống hóa khái niệm, bản chất và hình thức, các quy
định pháp lý, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công, thực
trạng đầu tư công tại các quốc gia và kinh nghiệm tái cơ cấu đầu tư công cho Việt
Nam, tổng quan về đầu tư công giai đoạn từ năm 2000 đến nay, cơ cấu nguồn vốn
đầu tư công, đầu tư công theo ngành, quản lý đầu tư công, một số đánh giá về hiệu
quả đầu tư công, một số quan điểm, giải pháp tái cơ cấu đầu tư công.
Tập thể tác giả gồm TS. Nguyễn Đức Kiên, PGS.TS Nguyễn Hồng Thái, TS.
Nguyễn Minh Phong, TS. Tô Trung Thành, ThS. Nguyễn Trí Dũng, TS. Vũ Tuấn
Anh, TS. Trần Văn, TS. Vũ Đình Ánh, TS. Vũ Thành Tự Anh, TS. Nguyễn Minh
Sơn, CN. Nguyễn Thị Hồng Huệ đã giành thời gian hơn 2 năm để hoàn thành cuốn
sách này. Vì đây là một vấn đề khó, trình độ người viết có hạn nên khó tránh khỏi
thiếu sót. Tập thể tác giả mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn
đọc để góp phần hoàn thiện cuốn sách.
Tháng 2 năm 2014
TM nhóm tác giả
Chủ biên
Ts. Nguyễn Đức Kiên
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu
1
Phần 1: Khái niệm, bản chất và hình thức đầu tư công
1. Khái niệm
2. Bản chất và hình thức đầu tư công
3. Phân loại các hình thức đầu tư công
Phần 2: Các quy định pháp lý về đầu tư công
1. Những văn bản pháp luật chủ yếu liên quan đến đầu tư công
2. Những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến đầu tư
công
3. Định hướng khắc phục các tồn tại
Phần 3: Tầm quan trọng của đầu tư công và các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả đầu tư công
1. Tư duy mới về tầm quan trọng và yêu cầu quản lý nhà nước
2. Vai trò và hiệu quả của đầu tư công
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Phần 4: Đầu tư công và kinh nghiệm tái cơ cấu đầu tư công tại một
số nước
Trường hợp của Nhật Bản
Kinh nghiệm của Vương quốc Anh và cộng hòa Ai–len
Tổng quan nghiên cứu tại các nước phát triển
Trường hợp của Bra–xin
Trường hợp của Trung Quốc
Tổng quan nghiên cứu tại các nước đang phát triển và chuyển đổi
Phần 5: Tổng quan về đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn từ năm
2000 đến nay
1. Đầu tư và tăng trưởng
2. Đầu tư công trong ngân sách nhà nước
3. Quy mô đầu tư công
1.
2.
3.
4.
Phần 6: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công
Thực trạng bố trí các nguồn vốn đầu tư công vừa qua
Phân bổ vốn đầu tư công theo địa phương
Tái cơ cấu nguồn vốn đầu tư công
Phần 7: Đầu tư công theo ngành
1. Đặc điểm phân bổ đầu tư công theo ngành
2. Đánh giá tác động phân bổ đầu tư công theo ngành
3
11
12
13
18
23
25
31
34
41
45
48
50
53
59
61
62
65
67
70
78
83
92
96
3. Phân bổ vốn đầu tư công theo ngành và lĩnh vực
4. Kinh nghiệm quốc tế
5. Khuyến nghị cơ cấu lại đầu tư công theo ngành
108
112
117
Phần 8: Quản lý đầu tư công
Khái niệm
So sánh và kinh nghiệm quốc tế về uản lý đầu tư công
Quy trình quản lý đầu tư công và tác động tới hiệu quả đầu tư công
Phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam và tác động đối với hiệu quả
đầu tư
122
127
131
150
Phần 9: Một số đánh giá về hiệu quả đầu tư công
1. Thành tựu và tồn tại
2. Các nguyên tắc đổi mới quản lý nhà nước đối với đầu tư công trong xu
hướng hội nhập
3. Những điều chỉnh chính sách nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công
157
160
1.
2.
3.
4.
1.
2.
3.
4.
Phần 10: Tái cơ cấu đầu tư công
Quan điểm tái cơ cấu đầu tư công
Định hướng tái cơ cấu đầu tư công
Khuyến nghị đối với quản lý đầu tư công ở Việt Nam
Giải pháp tái cơ cấu đầu tư công
4
172
177
180
185
197
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1:
Đầu tư công ở Nhật Bản, 1970–2003
41
Hình 2:
Phân bổ đầu tư công theo các lĩnh vực
43
Hình 3:
Tỷ trọng đầu tư công vào khu vực nông thôn, 1970–2003
43
Hình 4:
Tỷ lệ đầu tư công so với GDP ở Bra–xin
50
Hình 5:
Đầu tư công so với GDP trong một số lĩnh vực ở Bra–xin
51
Hình 6:
Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế
71
Hình 7:
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 2011–2015
87
Hình 8:
Tổng đầu tư Nhà nước cho nông lâm ngư nghiệp
92
Hình 9:
Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
93
Hình 10:
Cơ cấu đầu tư công theo nhóm ngành giai đoạn 2000–2011
95
Hình 11:
Tốc độ tăng GDP chung và của khu vực kinh tế nhà nước giai
96
đoạn 2000–2011
Hình 12:
Cơ cấu vốn đầu tư Nhà nước
98
Hình 13:
Ngân sách Nhà nước từ 2006 – 2011
99
Hình 14:
Nợ quốc gia từ 1995 – 2011
99
Hình 15:
Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp
101
Hình 16:
Sản lượng điện 2001 – 2011
101
Hình 17:
Tỷ trọng vốn nhà nước trong ngân hàng
104
Hình 18:
Tình hình đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty
108
trong giai đoạn 2006 – 2011
Hình 19:
Cơ cấu đầu tư công cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội và quản lý
109
nhà nước
Hình 20:
Sơ đồ nội dung và chức năng quản lý đầu tư công
5
152
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1:
Đầu tư hình thành tài sản cố định của Trung Quốc, 1978–2007
55
Bảng 2:
Tỷ lệ đầu tư công vào các ngành ở Trung Quốc
57
Bảng 3:
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế
72
Bảng 4:
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2015 phân
85
theo nguồn vốn và tỷ trọng so GDP
Bảng 5:
Sản lượng nước máy
102
Bảng 6:
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu
103
Bảng 7:
Cơ cấu đầu tư công theo ngành
111
Bảng 8:
Đầu tư công và giảm nghèo ở 4 nước châu Á
115
Bảng 9:
Tóm tắt một số đặc điểm về quản lý đầu tư công của ba nhóm
128
nước
Bảng 10:
So sánh chất lượng quản lý đầu tư công của Việt Nam với một
130
số nước khác
Bảng 11:
Tóm tắt các văn bản định hướng chiến lược đầu tư
132
Bảng 12:
Dự kiến tổng nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng theo quy hoạch 2011–
135
2020
Bảng 13:
Chi phí đầu tư đường cao tốc
142
Bảng 14:
Một số dự án đội giá thành và kéo dài thời gian điển hình
144
Bảng 15:
Tỷ lệ số dự án đầu tư công phải điều chỉnh và chậm tiến độ
146
Bảng 16:
Thời hạn lập báo cáo, kiểm toán, và phê duyệt quyết toán dự án
151
ODA
Bảng 17:
Tóm tắt tổng quan nghiên cứu
6
201
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1:
Tốc độ tăng GDP và tỷ trọng của tích lũy tài sản trong GDP
62
Biểu đồ 2:
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công
69
Biểu đồ 3:
Cơ cấu vốn đầu tư công theo cấp quản lý
81
7
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 1:
Thu chi ngân sách 2000–2010
63
Biểu 2:
Thu chi ngân sách so với GDP năm 1995–2008 của một số
64
nước Đông Á và Đông Nam Á
Biểu 3:
Vốn đầu tư của nhà nước so với GDP
65
Biểu 4:
Cơ cấu vốn đầu tư theo giá thực tế
66
8
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ALL
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BEDC
Công ty Cổ phần phát triển đường cao tốc BIDV
BIDV
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
BO
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh
BOT
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao
BRL
Tiền Real Bra–xin
BT
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
BTO
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
CIEM
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DWT
Đơn vị đo trọng tải tàu
ECM
Cơ chế hiệu chỉnh sai số
ERD
Mức độ bảo hộ hữu hiệu
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm trong nước
GFS
Chuẩn mực thống kê tài chính Chính phủ
GMM
Phương pháp tổng quát hiện tại
GMM – HAC Phương pháp tổng quát hiện tại – tương quan nhất quán
ICOR
Hệ số đầu tư tăng trưởng
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
IRDP
Chương trình phát triển nông thôn đồng bộ
I–O
Bảng cân đối liên ngành
LICs
Các nước thu nhập thấp
MICs
Các nước thu nhập trung bình
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMNN
Ngân hàng thương mại nhà nước
NICs
Các nước công nghiệp mới
9
NN
Nhà nước
NSNN
Ngân sách Nhà nước
ODA
Vốn viện trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OLS
Bình phương tối thiểu
PMU
Ban quản lý dự án
PMG
Gộp trung bình nhóm
PPP
Dự án đầu tư kết hợp công tư
QLDA
Quản lý dự án
R&D
Nghiên cứu và triển khai
SAA
SUR
Hồi quy dường như không liên quan
SWOT
Phương pháp phân tích điểm manh, yếu, cơ hội, đe dọa
TEUs
Đơn vị tính chiều dài Công–ten–nơ
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
UBND
Ủy ban Nhân dân
UNDP
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
USD
Đô la Mỹ
VASCO
Công ty bay dịch vụ hàng không
VECM
Mô hình sửa lỗi véc tơ
VNA
Tổng công ty hàng không Việt Nam
VNĐ
Việt Nam Đồng
WLS
Trọng nhất vuông
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
10
PHẦN 1: KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CÔNG
1. Khái niệm
Đầu tư và đầu tư công là một khái niệm mở và có nhiều cách hiểu không
hoàn toàn giống nhau, cả trong nước, cũng như trên thế giới. Trong kinh tế học,
khái niệm đầu tư được hiểu là việc sử dụng vốn tư bản vào kinh doanh nhằm thu
lợi nhuận và tăng cường sức sản xuất trong tương lai. Còn hiện nay xã hội quan
niệm đầu tư là việc sử dụng vốn dưới mọi hình thức bằng các tài sản hữu hình
(tiền, nhà xưởng, máy móc,...) hoặc vô hình (phát minh, sáng chế, thương hiệu,...)
thông qua các công cụ và phương thức đầu tư (trực tiếp hay gián tiếp, doanh
nghiệp hay dự án, một mình hay cổ phần…) để nhằm đạt được lợi ích nào đó trong
tuơng lai theo mục đích đặt ra của chủ đầu tư, trong đó thuờng ưu tiên các mục tiêu
kinh tế, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Tùy theo sở hữu nguồn vốn đầu tư mà
phân thành đầu tư công hay đầu tư tư nhân. Quản lý vốn đầu tư công thuờng là
thuộc chức năng của chính phủ, vì vậy đầu tư công thường được đồng nhất với đầu
tư mà các cơ quan chính phủ hoặc doanh nghiệp của chính phủ thực hiện. Ở Việt
Nam, khái niệm “đầu tư công” được sử dụng từ sau khi Đảng và nhà nước thực
hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được chuyển sang nền
kinh tế thị trường. Vì vậy, Đầu tư công được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn nhà
nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội,
không nhằm mục đích kinh doanh. Theo cách hiểu này thì lĩnh vực đầu tư công sẽ
bao gồm:
- Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng – kĩ thuật, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực khác;
- Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội, kể cả việc mua sắm, sữa chữa
các tài sản cố định của các tổ chức này;
- Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội được hỗ
trợ từ vốn nhà nước theo qui định của pháp luật;
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính
phủ (trong đó có hình thức hợp tác công – tư PPP).
Việc đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước không nằm trong đầu tư công.
11
Theo Luật Thống kê hiện hành, số liệu thống kê đầu tư công ở nước ta được
hình thành từ:
- Đầu tư từ ngân sách (phân cho các Bộ ngành Trung ương và các địa
phương);
- Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương
trình mục tiêu trung và ngắn hạn) được thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng
năm;
- Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định;
- Đầu tư doanh nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Việc thiếu một khái niệm đầu tư công thống nhất, có thể bao quát hết các
hoạt động đầu tư công, đã tạo điều kiện cho các chủ đầu tư “lách luật” theo cách
thực chất là dự án đầu tư công, nhưng lại không chịu sự điều chỉnh của pháp luật
về đầu tư công, mà điều chỉnh bởi pháp luật đầu tư, thương mại,… gây thất thoát
cho ngân sách nhà nước.
Trong thực tế, khái niệm “đầu tư công” thường được xét từ góc độ sở hữu
của nguồn vốn dùng để đầu tư bao gồm các khoản đầu tư do Chính phủ và các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước thực hiện.
Vì vậy, nên thống nhất quan niệm đầu tư công là việc sử dụng nguồn vốn
nhà nước để đảm bảo các hoạt động của nhà nước được diễn ra bình thường nhằm
đắp ứng yêu cầu của công dân, bao gồm:
- Vốn ngân sách nhà nước;
- Vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh;
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước;
- Vốn đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do
nhà nước quản lý.
Cách hiểu này là phổ biến, dể hiểu và đã phản ánh được đúng bản chất của
đầu tư công và thể hiện được đầu tư công là đối tượng chịu sự giám sát chặt chẽ
của Quốc hội của nhà nước hiện nay.
2. Bản chất và hình thức đầu tư công
Về bản chất, đầu tư công là Nhà nước sử dụng nguồn vốn từ nguồn thu thuế
hoặc thuộc sở hữu của mình (tài nguyên, khoản vay) để tiến hành đầu tư vào các
dự án, chương trình nhằm đạt được các mục tiêu công nhất định, phục vụ lợi ích
chung của xã hội.
12
Trên thế giới, có quan niệm cho rằng đầu tư công chỉ bao gồm chi tiêu công
cho các dự án phục vụ lợi ích chung, phi kinh doanh.
Song ở Việt Nam, đầu tư công được hiểu là gồm toàn bộ đầu tư của khu vực
kinh tế nhà nước, nghĩa là có cả đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nhà nước vào
mục đích kinh doanh, bao gåm các khoản đầu tư cụ thể được thực hiện dưới các
hình thức sau:
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh do Nhà nước đầu tư (trừ các khoản đầu tư cho quốc
phòng, an ninh thuộc chi tiêu đặc biệt, ngoài cân đối kế hoạch; viện trợ cho nước
ngoài);
- Các chương trình, dự án đầu tư công thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
xã hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo và các dự án đầu tư công khác không có
điều kiện xã hội hoá.
- Dự án đầu tư phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, kể cả việc duy tu, bảo dưỡng,
mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư.
- Hỗ trợ các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quy định của Chính
phủ.
- Các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
3. Phân loại các hình thức đầu tư công
3.1. Phân theo nguồn vốn
Nguồn vốn đầu tư công bao gồm chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà
nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng nhà nước (thông qua Ngân hàng Phát triển
Việt Nam), vốn viện trợ phát triển chính thức, đầu tư phát triển của các doanh
nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác của Nhà nước…
Đầu tư công ở Việt Nam dựa vào các nguồn chính:
- Vốn từ ngân sách nhà nước;
- Vốn vay từ trái phiếu Chính phủ;
- Vốn vay từ nước ngoài;
- Vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh;
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước;
13
- Vốn chi theo các chương trình mục tiêu và trọng điểm quốc gia và địa
phuơng;
- Vốn đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do
nhà nước quản lý.
Xét đến cùng, dù từ bất kỳ nguồn vốn nào, thì vốn đầu tư công đều có nguồn
gốc là từ 3 nguồn lớn nhất:
(1) Các khoản tiền thuế của xã hội;
(2) Tiền thu từ khai thác tài nguyên đất nước;
(3) Tiền vay trong nước và nước ngoài của Chính phủ.
3.2. Phân theo ngành, lĩnh vực kinh tế
Theo mục lục Cơ cấu phân bổ vốn đầu tư của dự toán ngân sách nhà nước
theo ngành, lĩnh vực của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện nay, đầu tư công từ nguồn
ngân sách nhà nước hàng năm bao gồm các khoản chi sau:
(1). Lĩnh vực kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
- Công nghiệp và xây dựng
- Giao thông vận tải
- Bưu điện
- Thương mại, kho tàng, du lịch
(2). Lĩnh vực xã hội
- Dịch vụ công cộng
- Cấp nước
- Khoa học và công nghệ
- Tài nguyên và môi trường
- Giáo dục và đào tạo
- Y tế, xã hội
- Văn hoá, thông tin
- Thể dục thể thao
- Hệ thống tư pháp
14
- Quản lý nhà nước
(3). Lĩnh vực quốc phòng an ninh
(4). Công tác chuẩn bị đầu tư (khảo sát, thiết kế, luận chứng kinh tế –
xã hội, lập dự toán,...)
Còn theo ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế theo tinh thần đổi
mới hiện nay, thì Đầu tư công chỉ cần và phải có mặt ở những lĩnh vực liên quan
đến quốc phòng, an ninh, an toàn xã hội và cơ sở hạ tầng, những nơi rất cần cho sự
phát triển đất nước, mà tư nhân không muốn hoặc không thể làm.
Đầu tư công có vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Phần
vốn này được Nhà nước giao cho các bộ, ngành và các địa phương, các đơn vị
thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị và chính trị – xã hội quản lý, sử dụng
theo quy định của pháp luật.
Trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, có nhiều lĩnh vực, nhiều dự án mà tư
nhân không đủ khả năng, hoặc đủ khả năng mà không muốn thực hiện đầu tư. Ví
dụ như các dự án xây dựng công trình cầu, đường, các công trình công cộng; đầu
tư phát triển cho vùng miền núi, dân tộc thiểu số,... Bởi đó đều là những dự án phải
bỏ nhiều vốn đầu tư ban đầu, thời gian thu hồi vốn lâu, hoặc khả năng thu hồi được
vốn là không cao. Do đó, việc đầu tư của nhà nước để đảm bảo các nhu cầu tối
thiểu của cộng đồng được đáp ứng, giữ vững ổn định xã hội, tránh tình trạng bất
công bằng, bất bình đẳng trong xã hội.
Để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, Việt Nam hiện có 194 khu công
nghiệp cấp tỉnh (với tổng diện tích gần 46.600 ha), cùng với 1.643 cụm công
nghiệp cấp huyện (với diện tích gần 73.000 ha) do ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê
duyệt quy hoạch đến năm 2020. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền Chính phủ có
18 dự án khu kinh tế biển với tổng diện tích trên 662 nghìn héc–ta (chiếm 2% diện
tích tự nhiên của Việt Nam), 30 khu kinh tế cửa khẩu, 20 cảng biển quốc tế ,với
chiều dài mặt giáp biển khoảng 600km, miền Trung có trên 15 cảng biển, cảng nào
cũng được gọi là cảng nước sâu, nhưng lại không thể đón những tàu trên 30.000
tấn (trong khi các cảng nước sâu của các nước làng giềng có thể đón những tàu có
trọng tải hàng trăm nghìn tấn), xây dựng và mở rộng 22 sân bay dân dụng, trong
đó có 8 sân bay quốc tế, …tất cả đều trông cậy vào nguồn đầu tư công đang trở
nên quá tải không thể đáp ứng vốn đầu tư để xây dựng các công trình dự án vừa
nêu…
Cụ thể, cơ cấu đầu tư công đối với các lĩnh vực như sau:
15
- Đầu tư công cho cơ sở hạ tầng, trong tổng mức đầu tư phát triển từ ngân
sách nhà nước, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ trọng khá lớn.
Bình quân giai đoạn 2001–2010, chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng
khoảng 95% tổng chi đầu tư phát triển từ nguồn lực ngân sách nhà nước đã được
tập trung cho việc phát triển các dự án hạ tầng thiết yếu trong nền kinh tế, các dự
án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
- Đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu
tư của Nhà nước trong giai đoạn 2000–2009. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông – lâm –
thủy sản trong tổng vốn đầu tư xã hội giảm từ 13,8% năm 2000 xuống còn 6,4%
vào năm 2008. Trong khi đó, đóng góp của khu vực này vào GDP năm 2008 là
22,1%. Chi từ ngân sách nhà nước cho nhóm ngành nông nghiệp chiếm khoảng 5–
6% tổng chi ngân sách nhà nước, thuộc loại thấp so với thế giới. Trong giai đoạn
2006–2011, vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn từng bước được cải
thiện, tổng vốn đầu tư 432,787 tỷ đồng (chiếm 49,67% tổng vốn đầu tư công) từ
nguôn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã giúp cho cơ sở hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn từng bước được hoàn thiện; tỷ lệ hộ nghèo nông thôn còn
9,45%.
- Đầu tư vào các lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt chưa đủ mức, chưa
tạo ra được sự bứt phá của một số lĩnh vực công nghệ cao để tác động mạnh đến
sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
- Đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh vực xã hội, khoa học, giáo dục và đào
tạo, y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng từ
17,6% năm 2000 giảm xuống còn 15,2% năm 2009.
- Đầu tư cho quản lý nhà nước, an ninh – quốc phòng, Đảng, đoàn thể có xu
hướng tăng liên tục từ 5,2 % (so với GDP) năm 2000 lên 7,7% năm 2009 (năm
2008 là cao nhất với 8,7%). Đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, các đoàn thể xã
hội tăng không ngừng. Đặc biệt, đầu tư xây dựng trụ sở, mua sắm ô tô, trang thiết
bị vượt quá tiêu chuẩn lại trở thành hiện tượng phổ biến.
Về tổng thể, trong 10 năm qua, khoảng trên 40% tổng số vốn đầu tư công
dành cho các ngành kết cấu hạ tầng: Điện, nước, vận tải, thông tin. Công nghiệp
khai thác mỏ chiếm ổn định khoảng 7 – 10%. Công nghiệp chế biến tăng giảm thất
thường trong khoảng 9 – 15%. Nông – lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù là những
ngành hoạt động của đại đa số dân cư nhưng không được nhà nước chú trọng đầu
tư, biểu hiện là tỷ trọng của ngành này trong đầu tư công đã giảm từ 12,2% năm
2000 xuống còn 5,9% vào năm 2009. Các ngành liên quan đến phát triển con
16
người là khoa học, giáo dục và đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội... cũng có nhiều thay
đổi đáng kể như đã trình bày ở phần trên.
Như vậy, xét về cả tốc độ tăng tỉ trọng trong tổng đầu tư nhà nước thì những
ngành lớn, quan trọng, có thế mạnh trong sự phát triển lâu dài của đất nước như
nông, lâm nghiệp, thủy sản, giáo dục, đào tạo, khoa học lại là những ngành ít được
quan tâm đầu tư phát triển. Điều này sẽ không thể tạo ra những điểm đột phá mạnh
nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh của đất nước về các sản phẩm có thế mạnh
trong nông nghiệp, thủy sản và cũng khó có thể tạo ra nguồn nhân lực kĩ thuật cao
trong tương lai.
Cùng với quá trình đổi mới và cải cách thể chế, đầu tư công có sự điều chỉnh
theo hướng từng bước giảm dần tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội, chỉ tập trung vốn
đầu tư nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế thiết yếu, không có khả năng thu
hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn thấp, rủi ro cao, dịch vụ công quan trọng, một số
ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân
không thể hoặc chưa thể thực hiện được. Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng thì cần phải có các tiêu chí về thư tự ưu tiên dự án và phân loại
dự án để sử dụng các nguồn vốn khác nhau như ngân sách nhà nước, BOT, BT,
PPP… Phát huy vai trò định hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu
tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là “vốn mồi” đề thu hút các nguồn lực xã
hội, đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc
biệt là hệ thống giao thông. Tạo điều kiện bình đẳng trong đấu thầu xây dựng và
thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân sách trên cơ sở hiệu quả cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới phương thức phát triển
tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại nhằm đảm bảo tính bền vững của
thể chế tín dụng nhà nước; đầu tư bằng tín dụng nhà nước phải gắn liền với nâng
cao hiệu quả sử dụng và đảm bảo khả năng trả nợ.
17
PHẦN 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ ĐẦU TƯ CÔNG
1. Những văn bản pháp luật chủ yếu liên quan tới đầu tư công
Hoạt động đầu tư ở nước ta nói chung, trong đó bao gồm cả đầu tư công và
xây dựng kết cấu hạ tầng, được quản lý theo một hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật. Hệ thống khung pháp lý này được hình thành dần trong quá trình đổi
mới thể chế kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, bắt đầu từ
năm 1986 (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI).
Việc xây dựng kết cấu hạ tầng bằng vốn nhà nước được gộp trong các quy
định chung về đầu tư và xây dựng, chỉ từ năm 2012 mới có Chiến lược về phát
triển kết cấu hạ tầng. Vì vậy, khi nói đến đầu tư công là bao hàm cả vấn đề phát
triển kết cấu hạ tầng.
Năm 1987 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và
sau đó được sửa đổi bổ sung nhiều lần. Đến năm 1996, Quốc hội Việt nam đã ban
hành mới Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam 1987 và cũng được sửa đổi bổ sung vào năm 2000. Trong khi đó, vào
cùng thời điểm đầu thập niên 90, các hoạt động đầu tư do các nhà đầu tư trong
nước thực hiện được điều chỉnh bởi Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân
(1990), sau đó được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp (1999) và Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước (1994). Do yêu cầu của quá trình hội nhập với nền kinh tế thế
giới, cần phải có một bộ luật thống nhất có thể điều chỉnh và chi phối các hoạt
động đầu tư trong nước lẫn nước ngoài, năm 2005 Quốc hội Việt Nam đã thông
qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, cùng có hiệu lực từ ngày 01/07/ 2006. Các
luật này thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp (1999)
và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994).
Cùng với Luật Đầu tư, Nhà nước đã ban hành một số luật có liên quan trực
tiếp và gián tiếp tới đầu tư như Luật Đấu thầu (2005), Luật Xây dựng (2005), Luật
Thương mại (2005), Luật Ngân sách nhà nước(2002), Luật Đất đai (2003), Luật
Phòng, chống tham nhũng (2005), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
(2008), Luật Dân sự (2005), Luật Doanh nghiệp nhà nước(2005, hết hiệu lực
2010), Luật Doanh nghiệp (2005)... và kèm theo đó là các văn bản dưới luật để
hướng dẫn thi hành luật. Việc thi hành những luật này đã mang lại một số kết quả
tích cực. Nhà nước cũng tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các văn bản pháp
quy về đầu tư và xây dựng. Công tác cải cách hành chính, chống tham nhũng được
tích cực thực hiện. Chính phủ cũng tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy
hoạch trong các ngành và các vùng kinh tế,... Trong quá trình triển khai đầu tư,
18
công tác giám sát, đánh giá, thanh tra, kiểm tra các công trình dự án cũng được
quan tâm ngày càng nhiều.
Trong các văn bản pháp luật nói trên, Luật Đầu tư có liên quan trực tiếp nhất
tới đầu tư công và xây dựng kết cấu hạ tầng. Luật Đầu tư được Quốc hội ban hành
ngày 29/11/2005 bằng Quyết định số 29/2009/QH11. Luật này quy định về hoạt
động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản
lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Trong Luật Đầu tư 2005, Chương 7 quy định những điều khoản về đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước, hoặc cũng có thể gọi là đầu tư công với những quy định
chính như sau:
1) Về quản lý đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước:
- Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.
- Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải đúng mục tiêu và có hiệu quả, bảo
đảm có phương thức quản lý phù hợp đối với từng nguồn vốn, từng loại dự án đầu
tư, quá trình đầu tư được thực hiện công khai, minh bạch.
- Việc sử dụng vốn nhà nước để đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các
thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định đầu tư thẩm định và chấp thuận.
- Phân định rõ trách nhiệm, quyền của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong
từng khâu của quá trình đầu tư; thực hiện phân công, phân cấp quản lý nhà nước về
đầu tư, kinh doanh sử dụng vốn nhà nước.
- Thực hiện đầu tư đúng pháp luật, đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, chống
dàn trải, lãng phí, thất thoát, khép kín.
2) Về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào tổ chức kinh tế:
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào tổ chức kinh tế được thực hiện
thông qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần được chuyển đổi từ
công ty nhà nước độc lập hoặc thành lập mới.
3) Về đầu tư của Nhà nước vào hoạt động công ích:
19
- Nhà nước đầu tư vào sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thông
qua hình thức giao kế hoạch, đặt hàng hoặc đấu thầu.
- Tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng tham gia
sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, trừ trường hợp đặc biệt do Chính
phủ quy định. Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ các hoạt động công ích và
danh mục sản phẩm, dịch vụ công ích.
4) Về đầu tư bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
- Đối tượng sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là dự án
đầu tư thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có hiệu
quả kinh tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay. Dự án vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước phải được tổ chức cho vay thẩm định và chấp thuận
phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trước khi quyết định đầu tư.
- Chính phủ quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ đầu tư từ nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, danh mục các đối tượng được vay vốn và các
điều kiện tín dụng trong từng thời kỳ.
5) Về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được giao quản lý dự án đầu tư sử
dụng vốn nhà nước:
- Tổ chức, cá nhân được giao đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước chịu trách
nhiệm bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn có hiệu quả.
6) Về việc thay đổi nội dung, hoãn, đình chỉ, hủy bỏ dự án đầu tư:
- Trường hợp thay đổi nội dung dự án đầu tư, chủ đầu tư phải giải trình rõ lý
do, nội dung thay đổi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư xem
xét, quyết định; nếu dự án đang triển khai thực hiện thì chủ đầu tư phải có báo cáo
đánh giá về dự án.
- Sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận thay đổi nội
dung dự án bằng văn bản thì chủ đầu tư mới được lập, tổ chức thẩm tra và trình
duyệt dự án theo đúng quy định.
- Dự án đầu tư bị hoãn, đình chỉ hoặc huỷ bỏ trong các trường hợp chủ đầu
tư không triển khai dự án, thay đổi mục tiêu của dự án mà không được cơ quan có
thẩm quyền cho phép bằng văn bản.
7) Về việc lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án:
- Dự án đầu tư có sử dụng vốn nhà nước phải thực hiện đấu thầu để lựa chọn
nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp cho dự án theo quy
định của pháp luật về đấu thầu.
20
- Xem thêm -