Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tài chính quốc tế

.PDF
136
67
80

Mô tả:

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Tài chính quốc tế là hoạt động tài chính diễn ra trên bình diện quốc tế, giữa các nước với nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế. Tài chính quốc tế liên quan đến những chiều hướng vận động mang tính toàn cầu của thị trường và các định chế, công cụ cho đến việc ban hành các chính sách xuất phát từ nhu cầu của thị trường tài chính. Trong chương này, chúng ta sẽ tập trung vào các nội dung chính như sau: - Sự hình thành và phát triển của tài chính quốc tế. - Khái niệm, đặc điểm của tài chính quốc tế - Vai trò của tài chính quốc tế - Nội dung của hoạt động tài chính quốc tế. 1.1 Sự hình thành và phát triển của tài chính quốc tế 1.1.1 Cơ sở hình thành quan hệ tài chính quốc tế Lịch sử nghiên cứu cho thấy: Sự xuất hiện và phát triển của các quan hệ tài chính quốc tế bắt nguồn từ xuất hiện và phát triển của các quan hệ quốc tế và quan hệ chính trị giữa các quốc gia trong cộng đồng với nhau. Tài chính quốc tế là hoạt động tài chính diễn ra trên bình diện quốc tế, giữa các nước với nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế. Có thể hiểu một cách khái quát như sau: tài chính quốc tế là sự vận động tiền tệ giữa các quốc gia gắn liền với các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao, quân sự của các quốc gia. Trong mỗi quốc gia, tài chính quốc tế là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động tài chính của quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế và các chính sách của nhà nước trong quan hệ với cộng đồng quốc tế. Tài chính quốc tế xuất hiện và hoạt động dựa trên hai cơ sở sau: - Quan hệ quốc tế giữa các quốc gia về kinh tế, văn hóa, xã hội… - Nhờ có sự xuất hiện của tiền tệ và tiền tệ thực hiện được chức năng tiền tệ thế giới. Quá trình hợp tác quốc tế được thực hiện trên cơ sở phân công lao động quốc tế. Mà phân công lao động quốc tế được thể hiện như một hình thức đặc biệt của phân công lao động theo lãnh thổ. Việc tham gia vào phân công lao động quốc tế của mỗi quốc gia bắt nguồn từ yêu cầu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nhằm giải quyết các 1 nhu cầu của thị tr ường tiêu thụ, khoa học kỹ thuật, nguyên vật liệu…Mức độ tham gia phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, các yếu tố về tự nhiên, chế độ chính trị - xã hội, chính sách đối ngoại của Nhà nước… Thông qua hợp tác quốc tế chúng ta có thể kết hợp các yếu tố trong nước với các yếu tố quốc tế, từ đó có thể khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước, phát huy những lợi thế cơ bản của nguồn lực trong nước và tận dụng ưu thế của nguồn lực ngoài nước trong phân công lao động quốc tế và trao đổi quốc tế. Trong hoạt động kinh tế quốc tế thị trường quốc tế trực tiếp hướng dẫn các nhà sản xuất kinh doanh trong việc sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới, thị hiếu của khách hàng nước ngoài, nhập khẩu những sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, lựa chọn các bạn hàng, đối tác ký kết hợp đồng… Trong các hoạt động kinh tế, thì thương mại quốc tế giữ một vai trò hết sức quan trọng. Thông qua thương mại quốc tế, các luồng hàng hoá, dịch vụ được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác và kéo theo đó là sự di chuyển ngược chiều các luồng tiền vốn giữa các quốc gia. Sự di chuyển các luồng tiền giữa các quốc gia là nét đặc trưng của sự vận động của các nguồn tài chính trong hoạt động tài chính quốc tế và là biểu hiện của quan hệ tài chính quốc tế. Mặt khác, hoạt động tài chính quốc tế biểu hiện ra thành các hoạt động thu chi bằng tiền ở các chủ thể kinh tế - xã hội. Trong phạm vi một quốc gia, đồng tiền trong nước được sử dụng làm phương tiện thanh toán chính thức cho mọi giao dịch đã giúp thực hiện các hoạt động thu chi bằng tiền để xử lý các quan hệ tài chính gắn liền với các hoạt động kinh tế - xã hội của các chủ thể. Các quốc gia có đồng tiền riêng khác nhau với sức mua không giống nhau. Từ đó nảy sinh việc thanh toán cho các hoạt động và giao dịch giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người kể từ khi xuất hiện tiền tệ và đòi hỏi của việc thanh toán quốc tế đã xuất hiện nhiều phương thức khác nhau trong việc xử lý mối quan hệ giữa các đồng tiền quốc gia và xác định phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế trải qua nhiều chế độ khác nhau như: hệ thống lưỡng kim bản vị, hệ thống bản vị cổ điển và hệ thống Bretton Woods. Trong quá trình xác định phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế và xử lý mối quan hệ giữa các đồng 2 tiền quốc gia, các quốc gia khác nhau có thể lựa chọn các chế độ tỷ giá khác nhau. Để thực hiện các hoạt động thu chi bằng tiền giữa các quốc gia đòi hỏi cần phải lựa chọn được phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế làm cơ sở cho việc xác định tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia để thực hiện cho việc thanh toán các giao dịch quốc tế. 1.1.2 Khái quát quá trình phát triển của tài chính quốc tế Có thể thấy rằng: các quan hệ tài chính quốc tế đã ra đời và phát triển từ những hình thức giản đơn đến những hình thức phức tạp, đa dạng gắn liền với những điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia và đời sống quốc tế trên khía cạnh kinh tế và chính trị. Kể từ khi nền kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển, sự hợp tác và phân công lao động quốc tế càng trở nên sâu sắc. Phân công lao động diễn ra trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc độ nhanh. Cùng với sự phát triển phân công lao động, sự hợp tác quốc tế cũng ngày càng đa dạng và phong phú, ngoài thương mại quốc tế còn có hợp tác ở lĩnh vực sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa, chính trị. Hệ quả tất yếu của sự phân công và hợp tác quốc tế không những làm cho sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ quốc tế phát triển. Như vậy, Tài chính quốc tế xuất hiện đầu tiên là gắn với thương mại quốc tế giữa các quốc gia, do yêu cầu của thương mại mà đã làm xuất hiện tiền tệ quốc tế, dùng tiền vàng làm trung gian trao đổi thanh toán. Từ những hình thức sơ khai ban đầu của tài chính quốc tế là việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cống nộp vàng bạc, châu báu giữa nước này và nước khác đã xuất hiện từ thời chiếm hữu nô lệ gắn liền với nhà nước chủ nô. Khái quát về sự phát triển tất yếu của tài chính quốc tế là do những nguyên nhân chủ yếu sau: - Sự phát triển tất yếu của thương mại quốc tế Sự xuất hiện của thương mại quốc tế đã có từ lâu nhưng nó chỉ thực sự phát triển kể từ thế kỷ 16 và ngày càng diễn ra với quy mô rộng lớn hơn. Điều này xuất phát từ nguyên lý cơ bản: khi thương mại quốc tế phát triển sẽ thúc đẩy sự chuyên môn hóa sản xuất, dịch vụ tại các nước dựa trên lợi thế so sánh (về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên…) mà chuyên môn hóa lại dẫn đến tăng năng suất lao động, làm giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế trên quy mô lớn thuộc các lĩnh vực, các quốc gia tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế đó. Ví dụ: các nước 3 vùng Trung Đông như: Ả rập Xê út, Irắc… có nguồn tài nguyên dầu mỏ phong phú, vì thế các nước này tập trung chủ yếu vào việc khai thác dầu mỏ đem xuất khẩu cho các nước khác thu ngoại tệ và nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng từ thị trường các nước có thế mạnh về sản xuất hàng tiêu dùng như: Mỹ, Đức, Thái Lan… Hơn nữa, thương mại quốc tế phát triển còn do có sự khác nhau về sở thích tiêu dùng các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau của người dân. Chẳng hạn, ở Việt Nam, người ta vẫn ưa chuộng dùng xe ô tô của hãng Toyota Nhật Bản hơn là xe ô tô sản xuất từ các nước khác… Thử tưởng tượng, nếu bắt buộc mọi người Việt Nam chúng ta chỉ được tiêu dùng những hàng hóa dịch vụ trong nước mà không được tiếp cận, thưởng thức hàng hóa nước ngoài với chất lượng, kiểu dáng đa dạng thì chắc chắn người Việt Nam chúng ta sẽ nghèo nàn cả về phương diện vật chất và tinh thần. Do vậy, khi thương mại quốc tế phát triển vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho tất cả các nước tham gia tích cực vào quá trình hội nhập thương mại quốc tế đó. Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tất yếu sẽ kéo theo sự hợp tác, phát triển đan xen ở lĩnh vực sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa, chính trị… giữa các nước với nhau. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế song phương, đa phương nhằm khai thác tối đa những lợi ích trong các mối quan hệ kinh tế này. Khi các mối quan hệ kinh tế quốc tế trên đây phát triển và mở rộng, sẽ làm nẩy sinh các quan hệ tài chính quốc tế. Cụ thể: đồng tiền thanh toán quốc tế không đơn thuần được tính toán dựa vào đồng tiền riêng của từng quốc gia một cách chủ quan nữa mà đã có sự tương tác, gắn bó chặt chẽ trong mối tương quan sức mua giữa đồng tiền các nước (có mối quan hệ giao dịch với nhau), hình thành nên công cụ tỷ giá hối đoái. Thông qua công cụ này mà quyền lợi và nghĩa vụ về thanh toán hoặc phân phối giữa các nước với nhau, giữa chủ thể kinh tế trong nước với nước ngoài...được tiến hành thông suốt. Từ đó, tạo ra các dòng chảy tiền tệ (hay tài chính) đa phương phản ánh tình trạng cán cân thương mại, dịch vụ quốc tế của một nước. Cho đến thế kỷ XIX, tài chính quốc tế xuất hiện với hình thái mới đó là tín dụng và đầu tư quốc tế. Tín dụng quốc tế đã trở thành một trong những đòn bẩy mạnh mẽ nhất của tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. Với sự phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kinh tế thị trường và những diễn biến phức tạp của cục diện chính trị thế giới, thái độ tiếp cận của các chính phủ trong quan hệ quốc tế, những hình thức mới của quan hệ tài 4 chính quốc tế đã xuất hiện như: đầu tư quốc tế trực tiếp và đầu tư quốc tế gián tiếp với đa dạng các hình thức hoạt động. - Sự dịch chuyển tất yếu của vốn đầu tư quốc tế từ nơi thừa đến nơi thiếu Đầu thế kỷ 20, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945), hầu hết các nước đều có xu hướng mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh đó là tập trung tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Thực tế cũng đã chỉ ra rằng: có một nhóm các nước công nghiệp phát triển (như: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản…) lại thừa vốn so với nhu cầu sản xuất chật hẹp trong nước, hay một số tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, WB… cũng cũng đã được thành lập để hỗ trợ vốn cho yêu cầu đầu tư phát triển của các quốc gia kém phát triển hơn. Các nước phát triển và tổ chức tài chính trên đây đã nỗ lực đẩy mạnh chính sách đầu tư vốn sang các nước khác, nhằm mở rộng thị trường đầu tư vốn và tối đa hóa lợi nhuận, trong khi đó, phần lớn các nước trên thế giới còn lại, đặc biệt là các nước đang phát triển như: Trung quốc, Việt Nam, Thái Lan… thì nguồn vốn trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư thiết yếu, cho nên rất cần thu hút nguồn vốn từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế cho sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt sang đầu thế kỷ 21, dòng chảy vốn đầu tư quốc tế đã trở lên đa dạng, phong phú hơn với đặc trưng là: một nước vừa có thể là nước tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài lớn, vừa có thề là nước có số vốn đầu tư ra nước ngoài khổng lồ. Điển hình là: Mỹ, Anh, Trung quốc… Như vậy, tất yếu diễn ra sự dịch chuyển vốn đầu tư quốc tế từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nước này sang nước khác và ngược lại nhằm tận dụng các lợi thế về lao động, công nghệ, thị trường… tức là làm xuất hiện và phát triển tài chính quốc tế lên tầm cao mới. Cho đến nay, các luồng vốn đầu tư quốc tế đã và đang dịch chuyển với quy mô ngày càng lớn giữa các nước, các khu vực thông qua các hình thức đầu tư rất đa dạng như: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI); vốn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường vốn; vốn vay của các định chế tài chính quốc tế, ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Oficial Development Assistance - ODA )… Từ những phân tích trên cho thấy: tài chính quốc tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển tất yếu của các mối quan hệ kinh tế quốc tế mà trung tâm là thương mại quốc tế và sự dịch chuyển của vốn đầu tư quốc tế. Cũng chính từ đó mà tài chính quốc tế có những đặc điểm riêng xét trên tổng thể hệ thống tài chính, đó là: làm xuất 5 hiện các công cụ, phương tiện, phạm trù của riêng mình như: tỷ giá hối đoái, ngoại hối, thị trường ngoại hối… gắn liền với cán cân thanh toán quốc tế của một nước mà bất kỳ quốc gia nào cũng đang tìm cách cải thiện, cân đối trong chiến lược phát triển nền kinh tế đất nước hội nhập quốc tế ngày nay. 1.2 Khái niệm, đặc điểm của tài chính quốc tế 1.2.1 Khái niệm về tài chính quốc tế 1.2.1.1 Quan niệm về tài chính quốc tế Có hai quan niệm về tài chính quốc tế như sau: a. Quan niệm thứ nhất. (Đứng trên phạm vi quốc gia để xem xét) - Hoạt động tài chính =Hoạt động tài chính nội địa +Hoạt động tài chính quốc tế. Trong đó: Hoạt động tài chính quốc tế = Hoạt động tài chính đối ngoại + Hoạt động tài chính thuần tuý giữa các quốc gia với nhau. (Đó là hoạt động tài chính của tổ chức quốc tế và hoạt động tài chính của công ty đa quốc gia). b. Quan niệm thứ hai (Đứng trên phạm vi toàn cầu để xem xét) - Hoạt động tài chính bao gồm Hoạt động tài chính quốc gia và Hoạt động tài chính chung quốc tế Trong đó: Hoạt động tài chính quốc gia bao gồm Hoạt động tài chính đối nội và Hoạt động tài chính đối ngoại. Hoạt động tài chính quốc tế chỉ bao gồm phần hoạt động tài chính thuần tuý. 1.2.1.2 Khái niệm về tài chính quốc tế Tài chính quốc tế là sự di chuyển tiền vốn giữa các quốc gia gắn liền với các quan hệ kinh tế, văn hoá, chính trị, ngoại giao, quân sự giưã các quốc gia…giữa các chủ thể của các quốc gia và các tổ chức quốc tế thông qua việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ ở mỗi chủ thể nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong các quan hệ quốc tế. 1.2.2 Đặc điểm của tài chính quốc tế 1.2.2.1 Đặc điểm về phạm vi, môi trƣờng hoạt động của các nguồn tài chính trong lĩnh vực tài chính quốc tế 6 - Diễn ra trong phạm vi rộng lớn giữa các quốc gia với rất nhiều chủ thể tham gia, nhiều đồng tiền của các quốc gia khác nhau, bị chi phối bởi nhiều yếu tố bao gồm: + Rủi ro tỷ giá hối đoái: Do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau mà tỷ giá hối đoái luôn có sự biến động và tác động rất lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia trong quan hệ tài chính quốc tế ở các lĩnh vực khác nhau. + Rủi ro chính trị: Rủi ro này rất đa dạng và phức tạp bao gồm các thay đổi ngoài dự kiến về hạn ngạch, thuế, cơ chế quản lý ngoại hối,... Rủi ro này thường bắt nguồn từ những biến động về chính trị-xã hội của các quốc gia như sự thay đổi về thể chế, cải cách kinh tế,... từ đó Chính phủ các nước sẽ thay đổi chính sách quản lý quốc gia mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Do vậy, trong hoạt động tài chính quốc tế, các chủ thể trong 1 quốc gia không những cần nắm vững các chính sách kinh tế, pháp luật của quốc gia mình mà còn phải hiểu và nắm vững các chính sách, pháp luật của quốc gia mà mình có quan hệ hợp tác. 1.2.2.2 Đặc điểm về xu hƣớng phát triển trong lĩnh vực tài chính quốc tế - Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của tài chính quốc tế đã tạo ta cơ hội cho các nhà đầu tư, các Chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế huy động vốn và đầu tư vốn dưới nhiều hình thức khác nhau, tại các quốc gia khác nhau với nhiều đồng tiền khác nhau làm cho quan hệ tài chính quốc tế trở nên đa dạng và phức tạp. - Sự hình thành và hoạt động với phạm vi ngày càng mở rộng giữa các quốc gia tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với xu hướng này, đòi hỏi các chủ thể tham gia trong thị trường này phải am hiểu về nhiều vấn đề và lĩnh vực khác nhau như: các hình thức cho vay và đi vay trong thị trường tài chính quốc tế, các biện pháp sử dụng và quản lý nguồn vốn trong đầu tư tài chính hiệu quả, các công cụ được sử dụng để phòng ngừa và hạn chế rủi ro hối đoái có hiệu quả, ngoài ra cũng cần nắm rõ cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính-tín dụng quốc tế để đạt được hiệu quả cao nhất khi tham gia giao dịch trên thị trường này. 1.3 Vai trò của tài chính quốc tế Là công cụ quan trọng khai thác các nguồn lực ngoài nƣớc phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong nƣớc 7 Trong điều kiện nền kinh tế mang tính toàn cầu hoá cao độ, tính liên phụ thuộc nền kinh tế các nước ngày càng tăng lên, không một quốc gia nào tự mình giải quyết được mọi vấn đề nếu không mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác. Đặc biệt đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Việc tiến hành hoạt động tài chính quốc tế tất yếu dẫn đến sự di chuyển các nguồn tài chính từ quốc gia này sang quốc gia khác. Hay nói cách khác thông qua hoạt động tài chính quốc tế, các nguồn tài chính được phân phối lại trên phạm vi thế giới. Sự phân phối có tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, do vậy đòi hỏi mỗi một quốc gia nên cân nhắc trên cả khía cạnh sử dụng các nguồn lực trong nước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế, trên cả khía cạnh khai thác và sử dụng các nguồn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát triển của quốc gia mình.Các nguồn lực có thể di chuyển thông qua các hình thức như sau: vay nợ quốc tế, đầu tư quốc tế trực tiếp, tham gia vào thị trường vốn quốc tế…Không chỉ có sự vận động cuả các nguồn vốn mà các quốc gia có thể tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, giải quyết được các vấn đề thị trường, lao động… Ngày nay, khu vực hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế đã trở thành xu thế mang tính thời đại. Mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Việc mở rộng hợp tác quốc tế nhằm mục đích kết hợp các yếu tố trong n ước với các yếu tố ngoài nước và khai thác có hiệu quả các nguồn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việc mở rộng các quan hệ tài chính quốc tế thông qua các hình thức như hoạt động tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế trực tiếp,tham gia vào thị trường tiền tệ…góp phần thúc đầy mở rộng và phát triển các hoạt động kinh tế quốc tế, từ đó góp phần thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Tạo cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính Việc mở rộng và phát triển các hoạt động tài chính quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các nguồn tài chính ra khỏi phạm vi của một quốc gia, với một phạm vi rộng hơn và môi trường khác hơn đó là trên bình diện quốc tế. Trong môi trường đó các nhà đầu tư có thể lựa chọn môi trường và lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài có lợi nhuận cao hơn đầu tư ở trong nước. Sự đầu tư có thể dưới hình thức hoạt động xuất khẩu, đầu tư quốc tế trực tiếp ra nước ngoài, tham gia vào thị trường tài chính quốc tế… Bên cạnh đó, các chủ thể kinh 8 tế - xã hội của mỗi quốc gia bao gồm cả các chính phủ có thể vay vốn của các chủ thể thuộc quốc gia khác hoặc các tổ chức quốc tế để trang trải các nhu cầu chi tiêu của mình thông qua các hình thức của quan hệ tài chính quốc tế, đặc biệt là hình thức tín dụng quốc tế… Như vậy, với sự mở rộng và phát triển của tài chính quốc tế các nguồn tài chính có thể được di chuyển từ nơi này sang nơi khác một cách thuận lợi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể của các quốc gia có nguồn tài chính để giải quyết những khó khăn tạm thời về nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả của các nguồn lực tài chính được đưa vào sử dụng. 1.4 Nội dung của hoạt động tài chính quốc tế 1.4.1 Các quan hệ tiền tệ - Các quan hệ thanh toán quốc tế Thanh toán được hiểu là các quan hệ trả tiền đối ứng với các luồng hàng hóa dịch vụ. Thanh toán quốc tế gắn liền với các hoạt động thương mại quốc tế, nước xuất khẩu sẽ có luồng hàng hóa, dịch vụ chảy ra thì có ngoại tệ chảy vào. Ngược lại, đối với nước nhập khẩu thì có luồng hàng hóa đi vào và luồng ngoại tệ chảy ra. Thanh toán quốc tế cũng gắn liền với du lịch quốc tế, hợp tác lao động quốc tế, các quan hệ quốc tế về quân sự, văn hóa, xã hội, chính trị và ngoại giao…Thanh toán có thể được thực hiện dưới hình thức trực tiếp, có thể thông qua ngân hàng và qua các đối tác khác. - Các quan hệ đầu tư quốc tế: Là việc di chuyển vốn ra ngoài phạm vi biên giới để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh kiếm lời. Bao gồm: + Đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Đầu tư quốc tế gián tiếp. - Tín dụng quốc tế. Tín dụng quốc tế là một hình thức của đầu tư quốc tế gián tiếp. Trong quan hệ tín dụng quốc tế, chủ thể có nguồn t ài chính đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay đã được hai bên thỏa thuận. Thực chất của tín dụng quốc tế là các hoạt động vay và cho vay đối với nước ngoài. Chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng quốc tế là tất cả các chủ thể kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và các tổ chức quốc tế, mà chủ yếu là các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế. Bao gồm: + Tín dụng thương mại: là quan hê tín dụng phát sinh trên cơ sở mua bán trao đổi hàng, cung ứng dịch vụ giữa các nhà xuất nhập khẩu với nhau theo hợp đồng 9 mua bán ngoại thương. Thực chất tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu quốc tế giữa các nước với nhau, được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu. Tín dụng thương mại được thực hiện dưới các hình thức sau:  Tín dụng hương mại cấp cho nhà xuất khẩu: Nhà nhập khẩu cung cấp tín dụng dưới hình thức ứng trước tiền hàng cho nhà xuất khẩu, trong trường hợp giá trị hợp đồng lớn, thời gian sản xuất dài, nhà xuất khẩu thiếu vốn nên ứng trước tiền hàng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nhập khẩu thực hiện hợp đồng và giao hàng đúng hạn. Khoản tiền ứng trước được xem là khoản tín dụng, thường chiếm 20%50% giá trị của hợp đồng. Trong trường hợp thời gian ứng trước dài thì phải tính lãi. Khoản tiền ứng trước được xem là khoản tiền đặt cọc mang tính chất là khoản đảm bảo và được xem là điều kiện để hai bên thực hiện đúng như hợp đồng đã ký kết, thường chiếm khoảng 10%-15% giá trị hợp đồng và thời gian ứng trước tương đối ngắn thì không tính lãi. Số tiền ứng trước được hoàn trả bằng cách khấu trừ dần sau mỗi chuyến giao hàng theo những cách sau đây: Khấu trừ theo tỷ lệ cố định sau mỗi chuyến giao hàng. Khấu trừ theo tỷ lệ tăng dần sau mỗi chuyến giao hàng. Khấu trừ một lần vào chuyến giao hàng cuối cùng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho nhà xuất khẩu nên có lợi cho nhà xuất khẩu nhưng thực tế trong một số trường hợp nhà nhập khẩu không có sự bảo đảm an toàn cho số tiền đã ứng trước nếu như nhà xuất khẩu giao hàng kém chất lượng, không đúng hạn, thiếu trọng lượng,... Do đó, hình thức này ít được sử dụng trong quan hệ ngoại thương và chỉ áp dụng trong trường hợp nhà xuất khẩu đáng tin cậy hay đối với những loại hàng hóa quý hiếm, thật sự khan hiếm và cần thiết.  Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu Đây là loại tín dụng do nhà xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu bằng các hình thức cụ thể như sau: + Tín dụng mở tài khoản: Trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương đã ký kết, nhà xuất khẩu mở tài khoản sau mỗi lần giao hàng ghi nợ cho nhà nhập khẩu, định kỳ nhà nhập khẩu thanh toán nợ cho nhà xuất khẩu. Đây là hình thức tín dụng do nhà xuất khẩu tài trợ cho nhà nhập khẩu tuy nhiên trong những trường hợp nhà nhập khẩu thanh toán chậm hay bị phá sản 10 không đủ khả năng thanh toán thì nhà xuất khẩu sẽ bị ứ đọng vốn nên hình thức này chỉ áp dụng được trong điều kiện hai bên thường xuyên giao dịch và có mối quan hệ tốt với nhau trong kinh doanh, điều kiện thị trường hối đoái ổn định. + Tín dụng chấp nhận hối phiếu:Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, ký phát hối phiếu trả chậm đòi tiền nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu có nghĩa vụ ký chấp nhận hối phiếu, cam kết đảm bảo thanh toán hối phiếu đúng hạn, điều này có nghĩa là chấp nhận nợ đối với nhà xuất khẩu. Thực chất đây là hình thức mua bán chịu hàng hóa trên cơ sở là hối phiếu. Nhà nhập khẩu đến hạn phải có nghĩa vụ là thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu hay người cầm hối phiếu.  Tín dụng của người môi giới cấp cho các nhà xuất nhập khẩu Đây là một trong những hình thức của tín dụng thương mại trong đó những người môi giới cấp trực tiếp cho các nhà xuất nhập khẩu khi có nhu cầu về vốn. Thực chất nguồn vốn này là của ngân hàng mà người môi giới chỉ là trung gian, những người môi giới này hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp dưới hình thức các công ty độc lập, bằng nguồn vốn tự có của mình và nguồn vốn của ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ liên quan về tín dụng như: chiết khấu hối phiếu, cầm cố chứng từ,... do sự am hiểu về thị trường và có trình dộ nghiệp vụ cao, quan hệ rộng rãi với khách hàng nên những người môi giới này đóng vai trò quan trọng trong quan hệ tín dụng. + Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng mà các ngân hàng cung cấp vốn cho các nhà xuất nhập khẩu, đa số là các khoản tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới các hình thức như sau:  Tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu Các ngân hàng thương mại cho nhà xuất khẩu vay dưới hình thức chiết khấu hối phiếu chưa đến hạn thanh toán, điều này có nghĩa là ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán và hối phiếu đó thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, khi dến hạn ngân hàng sẽ thu hồi nợ. Căn cứ vào thời gian chiết khấu và lãi suất chiết khấu, ngân hàng cung cấp giá trị tín dụng bằng giá trị hối phiếu trừ đi lợi tức chiết khấu ngân hàng được hưởng. Hình thức này được áp dụng một cách rộng rãi và là một trong những nghiệp vụ tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, ngân hàng còn hco vay dưới hình thức nhà 11 xuất khẩu cầm cố hối phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng. Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng sẽ thông báo và xác nhận có thể cho nhà xuất khẩu vay khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hợp lệ và hoàn chỉnh.  Tín dụng ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu Các ngân hàng cho nhà nhập khẩu vay để thanh toán hàng nhập khẩu dưới hình thức chấp nhận để ngân hàng thay mặt nhà nhập khẩu ký chấp nhận hối phiếu. Theo đó, hình thức tín dụng này là hình thức tài trợ cho nhà nhập khẩu, đảm bảo khả năng thanh toán hối phiếu khi đến hạn thanh toán. Khi thực hiện nghiệp vụ ngân hàng chỉ ký tên, chấp nhận, không cần xuất vốn và thu lệ phí. Khi đến hạn, ngân hàng có nhiệm vụ thanh toán hối phiếu sau khi đã đòi tiền nhà nhập khẩu. Trường hợp nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán hoặc thanh toán chậm thì coi như ngân hàng cấp một khoản tín dụng cho nhà nhập khẩu, nếu nhà nhập khẩu bị phá sản thì ngân hàng phải gánh chịu mọi rủi ro. Ngân hàng cũng có thể cho vay dưới hình thức bảo lãnh hối phiếu, cho vay để thanh toán hàng nhập khẩu trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán hợp lệ. + Tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước phản ánh quan hệ tín dụng giữa chính phủ của một quốc gia với chủ thể ở các quốc gia khác. Như vậy, quan hệ tín dụng nhà nước có thể phát sinh giữa chính phủ các nước với nhau hoặc giữa chính phủ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trên cơ sở các hiệp định vay vốn đã được ký kết hoặc giữa chính phủ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Căn cứ vào thời hạn, tín dụng nhà nước bao gồm các loại sau: Tín dụng ngắn hạn:có thời hạn trong vòng một năm. Tín dụng này hình thành trong trường hợp ký kết hiệp định thanh toán, hai bên giao hàng và cuối năm kết toán tài khoản. Tín dụng trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản dài hạn của doanh nghiệp hoặc cá nhân. Tín dụng dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào dự án đầu tư. 12 - Tài trợ quốc tế Thể hiện sự giúp đỡ về mặt tài chính có tính chất quốc tế trong đó phổ biến nhất là tài trợ theo hình phức Hỗ trợ phát triển chính thức. + ODA (Hỗ trợ phát triển chính thức): là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ với nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ. Hình thức này bao gồm ODA không hoàn lại là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn lại cho nhà tài trợ; ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi) là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc; ODA vay hỗn hợp là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng trong đó yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. Các phương thức cơ bản cung cấp ODA gồm có: hỗ trợ dự án, hỗ trợ ngành, hỗ trợ chương trình, hỗ trợ ngân sách. ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên về phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ. Nhìn chung, nguồn vốn ODA là một hình thức đầu tư quốc tế gián tiếp, là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho kênh huy động vốn ở trong nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chiến lược khai thác nguồn vốn này từ các chnh1 phủ và các tổ chức liên chính phủ. + Vay thương mại nước ngoài của Chính phủ: Tùy theo nhu cầu về vốn đầu tư phát triển, chính phủ có thể huy động nguồn vốn vay thương mại nước ngoài thông qua các hình thức vay trực tiếp như vay tài chính, vay tín dụng xuất khẩu, phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế hoặc hình thức phù hợp khác, trong khuôn khổ hạn mức vay thương mại hàng năm. Nguồn vay thương mại nước ngoài của chính phủ chỉ được sử dụng cho các mục đích: cho vay lại đối với chương trình, dự án đầu tư phát triển trọng điểm của Nhà nước có nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ, có khả năng hoàn vốn trực tiếp và trả được nợ vay; hoặc để đảo nợ nước ngoài của chính phủ theo nguyên tắc đảm bảo có lợi và với chi phí thấp nhất cho ngân sách. 1.4.2 Các quỹ thuộc tài chính quốc tế 13 Là những lượng tiền nhất định phản ánh điểm dừng t ương đối của sự vận động các luồng tiền tệ gắn với một mục đích nào đó. Có ba loại quỹ đó là: - Các quỹ tiền tệ trực thuộc các chủ thể quốc gia - Các quỹ tiền tệ gắn với các chủ thể quốc tế - Các quỹ tiền tệ thuộc công ty đa quốc gia: vốn kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận của các công ty đa quốc gia…. 1.4.3 Các chủ thể thuộc tài chính quốc tế - Các tổ chức kinh tế Các tổ chức kinh tế quốc gia tham gia hoạt động tài chính quốc tế dưới hình thức đầu tư ra nước ngoài (đầu tư quốc tế) và thương mại quốc tế. Đầu t ư ra nước ngoài của cá tổ chức kinh tế có thể là đầu tư nước ngoài trực tiếp, có thể là đầu tư nước ngoài gián tiếp dưới hình thức tín dụng quốc tế hoặc đầu tư chứng khoán quốc tế. - Các trung gian tài chính của ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán… Ngân hàng thương mại tham gia hoạt động tài chính quốc tế với những nội dung như: tín dụng quốc tế (ngân hàng thương mại chủ yếu đóng vai trò là người cho vay quốc tế), đầu tư quốc tế (ngân hàng thương mại có thể thực hiện đầu tư quốc tế trực tiếp dưới hình thức đầu tư liên doanh, liên kết với ngân hàng thương mại của các quốc gia khác,có thể thực hiện đầu tư gián tiếp quốc tế dưới hình thức đầu tư chứng khoán quốc tế), thực hiện các dịch vụ như chuyển tiền quốc tế, dịch vụ thanh toán quốc tế, dịch vụ tư vấn, bảo lãnh… - Hoạt động tài chính của chính phủ Các chính phủ tham gia hoạt động tài chính quốc tế với các nội dung sau: Viện trợ quốc tế không hoàn lại, tín dụng nhà nước quốc tế (nhà nước xuất hiện với tư cách là người đi vay dưới hình thức đàm phán vay hỗ trợ phát triển chính thức hoặc dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tế, nhà nước cũng có thể xuất hiện với tư cách là người cho vay bằng nguồn ngân sách nhà nước). Thu thu thuế quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới của nước chủ nhà. 14 - Hoạt động tài chính của các định chế tài chính quốc tế: chủ thể là các tổ chức quốc tế. Trong đó: + Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund: IMF):Thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ giá; hỗ trợ cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước hội viên tạm thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp, rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của các nước hội viên. + Ngân hàng thế giới (The World Bank) nhằm hỗ trợ sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các quốc gia thành viên. Hội đồng thống đốc bầu ra Ban giám đốc điều hành hỗ trợ công việc Hội đồng thống đốc tại WB. Ban giám đốc điều hành họp ít nhất 2 lần một tuần để giám sát các hoạt động của WB, bao gồm phê duyệt các khoản vay và bảo lãnh, các chính sách mới, ngân sách quản trị, chiến lược hỗ trợ các quốc gia, các quyết định tài chính và vay vốn. Các hoạt động hàng ngày của WB đặt dưới sự chỉ đạo và quản lý của Chủ tịch, Ban giám đốc điều hành và các phó chủ tịch phụ trách theo khu vực. + Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Mục tiêu hoạt động của ADB nhằm cung cấp các khoản vay và đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các nước thành viên đang phát triển, cung cấp các khoản hỗ trợ kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư bằng vốn tư nhân và công cho mục đích phát triển, hỗ trợ các nước hội viên đang phát triển trong việc lập kế hoạch và xây dựng chính sách. - Các tổ chức quốc tế toàn cầu và khu vực. 15 C UH I N T P CHƢƠNG 1: Câu 1: Tại sao phải nghiên cứu TCQT? Câu 2: Phân tích lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường TCQT. Câu 03: Trình bày quá trình hình thành và phát triển của quan hệ tài chính quốc tế? Câu 04: Trình bày các quỹ của tài chính quốc tế? Câu 05: Các chủ thể của quan hệ tài chính quốc tế? Câu 6: Trình bày nội dung cơ bản của Incoterms 2000? Câu 7: Trình bày nội dung của tín dụng thương mại? Câu 8: Trình bày nội dung của tín dụng ngân hàng? Câu 9: Trình bày nội dung của tín dụng Nhà nước? Câu 10: So sánh tín dụng thương mại và tín dụng nhà nước? TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƢƠNG 1 [1]. Dương Đăng Chinh (2002), Tổng quan về Tài chính quốc tế và môn học Tài chính quốc tế, Nhà xuất bản Tài chính. [2] Vũ Văn Hóa, Lê Văn Hưng (2009), Giáo trình Tài chính quốc tế, Trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà nội, Nhà xuất bản Tài chính. [3] Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Thị Ngọc Trang, Nguyễn Thị Liên Hoa, Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Tài chính quốc tế, Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Thống kê. [4] Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê. [5] Nguyễn Văn Tiến (2010), Giáo trình Tài chính quốc tế, Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê. 16 CHƢƠNG 2: THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính. Trong chương này, chúng ta sẽ tập trung vào các nội dung chính như sau: - Khái quát thị trường tài chính quốc tế - Thị trường tiền tệ quốc tế - Thị trường vốn quốc tế 2.1 Khái quát thị trƣờng tài chính quốc tế Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn trong nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính phủ...Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính. Do đó, cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải quyết mẫu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính. Do đó, có thể kết luận: 17 Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng cung ứng nguồn tài chính. - Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính. 2.1.1 Sự hình thành và quá trình phát triển của thị trƣờng tài chính quốc tế. Tài chính quốc tế là tổng thể các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị gắn liền với sự di chuyển các nguồn lực tài chính giữa các quốc gia với nhau. Sự hình thành và phát triển của tài chính quốc tế chủ yếu dựa trên cơ sở của sự phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế, cụ thể như: Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế:  Kể từ khi nền kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển, sự hợp tác và phân công lao động quốc tế càng trở nên sâu sắc. Phân công lao động diễn ra trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc độ nhanh. Cùng với sự phát triển phân công lao động, sự hợp tác quốc tế cũng ngày càng đa dạng và phong phú, ngoài thương mại quốc tế còn có hợp tác ở lĩnh vực sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa, chính trị... Hệ quả tất yếu của sự phân công và hợp tác quốc tế không những làm cho sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ quốc tế phát triển. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thương mại và dịch vụ quốc tế trở thành hoạt động tất yếu và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế song phương cũng như đa phương nhằm khai thác tối đa những lợi ích trong các mối quan hệ kinh tế này.  Trên cơ sở phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế làm nảy sinh những quyền lợi và nghĩa vụ về tiền tệ của nước này đối với nước khác. Từ đó tạo ra nguồn chảy tài chính đa phương và hình thành nên cán cân thương mại dịch vụ quốc tế giữa các quốc gia. Đồng thời, gắn liền với sự vận động của tiền tệ trong mối tương quan so sánh sức mua của chúng, phạm trù tỷ giá hối đoái đã hình thành trong hệ thống tài chính quốc tế. Sự phát triển các hoạt động đầu tƣ quốc tế: 18 - Bước vào đầu thế kỷ 20, cùng với việc tạo ra các mối quan hệ kinh tế quốc tế, các nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, do nguồn tiết kiệm trong nước thấp, không đáp ứng đủ nhu cầu vốn, cần phải thu hút nguồn vốn nước ngoài để tạo ra cú hích cho sự phát triển kinh tế. Trong khi đó các quốc gia thừa vốn cũng nỗ lực đẩy mạnh chính sách xuất khẩu vốn (đầu tư vốn) nhằm mở rộng đầu tư và thu lợi nhuận tối đa. - Trong xu hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế, các luồng vốn đầu tư quốc tế đã và đang phát triển theo một hệ thống bao gồm các hình thức đầu tư: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (foreign direct investment- FDI), vốn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, vốn cho vay của các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài như Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund- IMF), ngân hàng thế giới (World Bank) hay nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official development assistance- ODA). Có thể nói, sự phát triển các hình thức đầu tư quốc tế đã làm cho hoạt động tài chính quốc tế được nâng lên ở tầm cao hơn, kết hợp hoạt động thu chi thương mại, dịch vụ quốc tế hình thành nên cán cân thanh toán quốc tế tổng thể của một quốc gia. Kết quả của cán cân này sẽ quyết định vị thế tài chính quốc tế của mỗi nước. Đó cũng là biểu hiện tình trạng phát triển kinh tế trong sự cân đối giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại của một quốc gia. - Từ những phân tích trên cho thấy, tài chính quốc tế tuy ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của các mối quan hệ kinh tế và đầu tư quốc tế, nhưng đến lượt mình, nó tác động mạnh tới sự phát triển kinh tế của các nước. Tài chính quốc tế tạo điều kiện mở rộng và tăng cường hơn nữa các quan hệ trao đổi, hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy kinh tế các nước phát triển phù hợp với bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Tài chính quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia phát triển kinh tế xã hội, như khai thác vốn, trao đổi kỹ thuật, công nghệ và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tài chính quốc tế còn nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước. - Hoạt động tài chính quốc tế là một chuỗi vận động các luồng dịch chuyển tài chính, cho nên từ khởi đầu đến khi kết thúc, chuỗi vận động này được thực hiện thông qua kết hợp sự vận hành của các yếu tố các tổ chức tài chính bao gồm tổ chức tài chính trong nước và tổ chức tài chính quốc tế, các công cụ tài chính quốc tế bao gồm ngoại 19 tệ, vàng, các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ như séc, hối phiếu, thẻ tín dụng, các chứng khoán ghi bằng ngoại tệ như trái phiếu cổ phiếu... Như vậy, điều kiện cần thiết hình thành thị trường tài chính: - Nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ổn định, với mức độ lạm phát có thể kiểm soát được. - Các công cụ của thị trường tài chính phải đa dạng tạo ra các phương tiện chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính. - Hình thành và phát triển hệ thống các trung gian tài chính. - Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức quản lý nhà nước để giám sát sự hoạt động của thị trường tài chính. - Phải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động của thị trường tài chính. - Cần có đội ngũ các nhà kinh doanh, các nhà quản lý am hiểu thị trường tài chính và phải có đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám mạo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra. 2.1.2 Phân loại thị trƣờng tài chính quốc tế Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau: Dựa vào cách thức huy động vốn trên thị trƣờng tài chính trên cơ sở sử dụng các công cụ tài chính ta có thị trƣờng nợ và thị trƣờng cổ phần. a) Thị trường công cụ nợ nợ: là thị trường trong đó người cần vốn huy động dựa trên việc phát hành các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu,...). Thực chất các công cụ nợ là thỏa thuận có tính hợp đồng trong đó người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định. - Công cụ nợ ngắn hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, thương phiếu,... - Công cụ nợ trung hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 3 năm như các loại trái phiếu ngắn hạn của chính phủ và doanh nghiệp. - Công cụ nợ dài hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 5 năm đến 10 năm, thậm chí 30 năm như các loại trái phiếu Chính phủ. b) Thị trường cổ phần Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông. Các cổ phiếu này là quyền được chia 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan