Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại...

Tài liệu Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại

.PDF
40
431
110

Mô tả:

Tiểu luận Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại 1 LỜ I NÓI ĐẦU Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian với chứ c năng chính là huy động vốn để cho vay; trong những năm qua, hệ thống các NH TM ở nước ta đã có bước phát triển đáng kể, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cũng như góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định trật tự xã hội. Những mặt đạt được của hệ thống ngân hàng đã được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận, song bên cạnh những kết quả đạt được thì hệ thống NH TM vẫn còn nhiều mặt tồn tại như: nợ xấu tăng cao, thanh khoản của hệ thống chưa thực sự ổn định, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chưa thực sự vững chắc…Do đó, để hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả, an toàn hơn thì việc tái cơ cấu lại hệ thống các NH TM là một việc cần thiết phải làm trong giai đoạn hiện nay. I. TỔ NG QUAN VỀ TÁI CẤU TRÚC NGÂN H ÀNG 1.1. Tái cấu trúc nền kinh tế Hiểu một cách tổng quát, thì tái cấu trú c nền kinh tế là v iệc bố trí, sắp xếp lại các doanh nghiệp (DN), các tổ chức kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý giữ a các ngành, các thành phần kinh t ế, từ đó thúc đ ẩy được nền kinh tế phát triển đồng bộ, toàn diện và có hiệu quả trên phạm vi từng địa phương cũng như trên phạm vị cả nư ớc. Tái cấu trúc nền kinh tế cũng là một y êu cầu cấp bách đối với m ột nền kinh t ế ở một quốc gia. Đặc biệt đối với nền kinh tế các nước kém phát triển như nền kinh tế ở nư ớc ta thì tái cấu trúc nền kinh tế sẽ đưa đến những kết quả thay đổi về cơ bản nhìn từ góc độ các DN và toàn bộ nền kinh t ế. Nền kinh tế đư ợc bố trí, sắp xếp lại theo hướng cân đối về sự phát triển giữa các ngành kinh tế, vùng kinh t ế từ địa phư ơng đến trung ương, từ đó tạo ra khả năng liên kết ngành, vùng và địa phương trong việc tổ chức sản xuất ra các sản phẩm chủ lực cho xuất khẩu, cho yêu cầu tiêu dùng trong nước. Tạo ra sự sắp xếp, sàng lọc lực lượng lao động có chuyên môn, có kỹ thuật, từ đó thúc đẩy đư ợc cải tiến kỹ thuật và t ăng năng suất lao động trong từng DN và trong toàn bộ nền kinh t ế. Tái cấu trúc nền kinh t ế, để xác định các DN chủ lực, đơn vị then chốt của nền kinh tế quốc dân, những DN này phải có tiềm lực vốn lớn, đủ sứ c cạnh tranh và h ội nhập với kinh t ế các nước trong khu vự c và các nước trên toàn thế giới. Tái cấu trúc nền kinh tế nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các ngành, các DN, từ đó đưa cạnh tranh thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của từng DN, từng ngành và từng vùng đạt hiệu quả cao nhất. Tóm lại: Nền kinh t ế là m ột hệ thống tổ chức để s ản xuất, phân phối và t iêu dùng của các DN trong một lãnh th ổ quốc gia. Thành phần của nó là các DN, các cá nhân kinh doanh thực hiện sản xuất, phân phối sản ph ẩm và tiêu thụ trong nền kinh tế. Như vậy, tái cấu trúc nền kinh tế nó không đơn thuần là việc của Nhà nư ớc, song Nhà nư ớc có vai trò rất quan trọng trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế ở nư ớc t a. 1.2. Tái cấu trúc hệ thống NHTM 1.2.1. Tái cấu trúc hệ thống NHTM là gì? Theo định nghĩa của World Bank (1998), tái cấu trúc ngân hàng bao gồm một loạt các biện pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh to án quốc gia và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Trên một cách tiếp cận khác, Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu cho rằng tái cấu trúc ngân hàng là biện pháp hướng tới m ục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện năng lự c hoạt 2 động của toàn hệ thống ngân hàng để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng. Thực chất của tái cấu trúc hệ thống NH TM là thực hiện một khâu trong tái cấu trúc nền kinh tế. Đó là v iệc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống NH TM sao cho hợp lý, đảm b ảo cho NHTM trong nền kinh tế hoạt động theo pháp luật, phục vụ tốt nhất cho yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng và của nền kinh tế. 1.2.2. Động cơ tái cấu trúc – Các vấn đề đi ển hình Kinh nghiệm củ a nhiều nền kinh tế cho thấy, các quốc gia thường chỉ tiến hành tái cấu trúc khi có những vấn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của các NHTM nói riêng. Báo cáo nghiên cứ u của World Bank (Sam eer Goyal, 2011) đã chỉ ra một số động cơ của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hay nói cách khác, một q uốc gia sẽ tiến hành tái cấu trúc k hi vấp phải nhữ ng vấn đề đối với hệ thống ngân hàng của mình. Các động cơ này bao gồm : - Khủng hoảng tài chính kinh t ế – các vấn đề của khu vực kinh tế t hực. - Nợ xấu gia t ăng (căng thẳng của khu vực thự c và rủi ro quá mức đối với lĩnh vực bất động sản, ngoại hối, các doanh nghiệp thua lỗ (kể cả doanh nghiệp nhà nư ớc), cho vay bên quen biết…). - M ức vốn yếu so với rủi ro-lo sợ mất khả năng trả nợ. - Trung gian không hiệu quả-luồng tín dụng không đủ, theo đuổi rủi ro quá mức của các ngân hàng (nhanh, tăng trưởng tín dụng không được kiểm tra), lãi suất bị bóp méo, tiền nóng...). - Khuôn khổ giám sát và quản lý yếu. - Thiếu niềm tin vào hệ thống ngân hàng. 1.2.3. Mục tiêu của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Theo World Bank (Sameer Goyal-2011), việc tái cấu trúc nhằm hướng đến các mụ c tiêu ngắn hạn, trung hạn và d ài hạn, nhằm giải quyết các y êu cầu về một hệ thống ngân hàng “khỏe mạnh”, đáp ứ ng đầy đủ các điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Các mục tiêu ngắn và trung hạn: + Thứ nhất, duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh khoản,chi trả và hoạt động của các trung gian tài chính không bị đình trệ. Đây là mục tiêu cơ bản nhất của việc tái cấu trúc nhằm bảo đảm tính ổn định trong hoạt động của hệ t hống ngân hàng và của cả nền kinh tế. + Thứ hai, giải quyết các vấn đề một cách kịp thời nhằm ngăn ngừ a sự lây lan hoặc các vấn đề mang tính hệ thống. + Thứ ba, khôi phục lại niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Khi hệ thống ngân hàng đự ợc cơ cấu lại, tính thanh khoản của cả hệ thống ổn định, mức độ t ín nhiệm của ngân hàng được nâng cao sẽ tạo lòng tin của các thành phần kinh tế đối với hệ thống ngân hàng. + Thứ tư, tối thiểu hóa chi phí tái cấu trúc đối với Ngân hành trung ương (NHTW), bảo hiểm tiền gửi hay Chính phủ. Song song với những mục tiêu củng cố sức mạnh cho hệ thống ngân hàng thì việc tái cơ cấu cũng nhằm mục đích giảm thiểu tới mức nhỏ nhất các chi phí liên quan đến NHTW, bảo hiểm tiền gửi hay Chính phủ, để mang lại hiệu quả cao nhất cho quá trình t ái cấu trúc. - Các mục tiêu dài hạn: + Thứ nhất, tạo ra một khuôn khổ quản lý nhà nước mới, phát triển phư ơng cách quản trị theo hư ớng phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế, ngày càng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của nền kinh tế. Theo đó, cần phải bảo đảm các nguyên tắc khi cho vay của ngân 3 hàng và khuyến khích các nguồn vốn mới của khu vự c tư nhân, đồng thời phân bố thiệt hại cho cổ đông. + Thứ hai, xây dựng tính cạnh tranh và k hả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng; bảo đảm hệ thống ngân hàng đủ tiềm lự c để có thể đạt các chuẩn mực của quốc tế; tăng cường sức mạnh nội tại của n gân hàng, chống lại các mầm mống bất ổn và khủng hoảng. + Thứ 3, tăng cường cơ sở hạ tầng tổng t hể của h ệ thống tài chính; góp phần thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển, tạo cơ sở cho sự ổn định lâu dài của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời góp phần nâng cấp việc tiếp cận với các dịch vụ tài chính. 1.2.4. Đối tượng tái cấu trúc” Đối tượng của t ái cấu trúc hệ thống ngân hàng thư ờng đư ợc hiểu theo 02 nghĩa rộng và hẹp. - Xét theo nghĩa rộng, t ái cấu trúc hệ thống ngân hàng là quá trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm: (1) NH TW; (2) hệ thống ngân hàng thương mại; (3) hệ thống ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển; và (4) hệ thống các tổ chức tín dụng (T CTD) vi m ô. - Xét theo nghĩa hẹ p, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của một trong nhữ ng cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là một ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân hàng vẫn đang hoạt động hiệu quả (Waxman, 1998). 1.2.5. Thực hi ện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng - bắt đầu từ đâu? M ột khi đã có mục tiêu tổng thể rõ ràng và phương hư ớng cho việc tái cấu trúc – “bạn muốn tới đâu”, để hiểu bản chất, phạm vi và mứ c độ của các vấn đề - “ xác định nơi chúng ta bắt đầu”. - Chẩn đoán/ Đánh giá: + Đánh giá sứ c khỏe tài chính của các tổ chứ c (trạng thái vốn, nợ xấu, thanh khoản, khả năng thu lợi nhuận...) Hệ thống ngân hàng yếu kém thư ờng được biểu hiện qua các hiện tượng như tăng tưởng tín dụng nóng, tiêu chuẩn tín dụng không chặt chẽ, tỷ trọng cho vay cao so với huy động, nợ xấu cao… Xác định chính xác nguyên nhân gây nên yếu kém của hệ thống ngân hàng có một vai trò rất quan trọng vì chỉ khi hiểu rõ nguyên nhân mới có thể đưa ra giải pháp hợp lý. Nguy ên nhân gây nên tình trạng khó khăn của hệ thống ngân hàng thư ờng tập trung ở những vấn đề như không đánh giá đúng mứ c r ủi ro tín dụng, không đa dạng hóa h oạt động, rủi ro sai lệch tiền t ệ, gia t ăng chi phí hoạt động. N goài ra, còn có nguyên nhân khác như tỷ giá hối đoái biến động, giảm giá tài sản, các biến động có tính chất chu kỳ củ a nền kinh t ế. Sau khi đã tìm ra những nguyên nhân của nợ xấu, các quốc gia đều phải t iến hành ước tính về nợ xấu và phân loại các khoản nợ xấu. Việc ước tính và phân loại các khoản nợ càng chính xác bao nhiêu thì càng giúp cho việc thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và các hỗ tr ợ tài chính chính xác bấy nhiêu. Tuy nhiên, trên thực tế do nhữ ng khác biệt về quy định nợ xấu, quy định về đánh giá lại nợ theo giá thị trường, sự y ếu kém của các thị trường giao dịch t ài chính… khiến cho tính toán dự phòng nợ xấu cho cả h ệ thống ngân hàng cũng như cho từng ngân hàng riêng là rất khó chính xác. Kinh nghiệm giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới cho thấy việc xác định kịp thời nợ xấu nợ dư ới chuẩn, nhanh chóng xử lý các khoản nợ này và thực hiện các biện pháp mạnh trong việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là yếu tố thúc đẩy nhanh kinh tế nhanh hồi phục và khôi phục lại năng lực cho vay của lĩnh vực ngân hàng. Thời gian qua, các tổ chức xếp hạng hàng đầu trên thế giới đã liên tục hạ mức tín 4 dụng của hàng loạt ngân hàng lớn trên thế giới. Hầu hết các ngân hàng Châu Âu đang đối mặt với nguy cơ thua lỗ khổng lồ do đang s ở hữ u quá nhiều trái phiếu Chính phủ của các nước khu vực euro, một số ngân hàng lớn lo ngại sẽ bị phá sản do các Chính phủ châu Âu đã suy kiệt và đang dốc sức để chống suy tho ái kinh tế. Để tái cấu trúc hệ t hống ngân hàng, Hàn Quốc đưa ra chư ơng trình rà soát theo chuẩn quốc tế, phân loại những mầm mống nguy hiểm nhất. Bộ khung tiêu chí được sử dụng để “khám sứ c khỏe” hệ thống ngân hàng tạm gọi là PCA (Prompt Corective Actiosn) với những nội dung xoay quanh hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng. Nhóm những ngân hàng yếu kém nhất không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn vốn theo Basel I (CAR 8%) bị buộc chấm dứt hoạt động độc lập, sáp nhập với ngân hàng có tình hình tài chính tốt hơn. Với nhóm ngân hàng thứ hai, dù hệ số CAR 8% nhưng có khả năng phục hồi, đư ợc yêu cầu sáp nhập với nhau. Những ngân hàng có tình hình tài chính tốt cũng đư ợc khuyến khích sáp nhập để hình thành ngân hàng mới có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả hơn, cung cấp đa dạng các dịch vụ và đủ sức phát triển trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Cũng từ đây, số lượng ngân hàng Hàn Quốc sau tái cấu trúc đã giảm 40%, từ 33 ngân hàn g (năm 1997) xuống còn 19 ngân hàng (năm 2002) nhưng quy mô vốn, chất lượng tài sản trên bảng cân đối kế toán, năng lực cạnh tranh và khả năng sinh lợi đư ợc gia tăng rõ rệt. Tiếp theo đó, Chính phủ Hàn Quốc có một loạt động thái cải tổ chính sách nhằm hướng tới gia t ăng sức mạnh và tính hiệu quả cho ngành ngân hàng. + Hiểu đư ợc các vấn đề cụ thể về tổ chức và cấu trúc như các h ạn chế về hệ t hống quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và quản trị, cấu trúc hệ thống IT... + Rà soát khuôn khổ giám sát, quản lý và luật pháp + Hiểu đư ợc năng lự c thể chế tại các tổ chức và các cơ quan quản lý + Chuẩn bị kết hoạch tái cấu trúc - Lựa chọn giải pháp tái cấu trúc: + Nhiều giải pháp để giải quyết các vấn đề hệ thống/cụ thể: Dấu hiệu/ chỉ số C ác phản ứng có thể có Tiếp cận có điều kiện với các quỹ tái cấp vốn; hỗ trợ việc tiếp cận của Mức vốn của hệ thống nhà đầu tư (ví dụ; cho phép các nhà đầu tư nước n goà i tham gia nhi ều thấp (lo ngại mất khả hơn, chẳn g hạn như Thái Lan trong khủn g hoản g nhữn g năm 1990 ), cổ năng thanh toán) phần hóa ngân hàn g thươn g m ại nhà nước Các yêu cầu về dự phòng và vốn cao hơn, Các côn g ty Quản lý Tài sảnNợ xấu tăng một cách AMC (tập tung hóa hoặc ngân hàng cụ thể), Mô hình Ngân hàng xấu – có hệ thống Ngân hàng tốt, tái cấu trúc do anh nghi ệp Ngân hàng khó khăn Tạm thời cun g cấp cửa sổ thanh khoản (chức n ăng người cho vay cuối trong việc huy động cùn g của NHTW); Tăng cườn g bảo vệ n gười gửi tiền để tái lập niềm tin vốn (tiền gửi) và hỗ công ch ún g (ví dụ kh ủng hoảng năm 2009 đã thúc đẩy một số quốc gia tăng hạn m ức BHT G) trợ cho vay + M ột số giải pháp khác: Sáp nhập, hợp nhất M ua lại, sáp nhập, hợp nhất để hình thành những định chế hoặc nhữ ng tổ hợp tài chính lớn hơn, mạnh hơn thông qua việc tăng cư ờng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh nhờ việc gia tăng thị phần hoạt động là một xu thế phổ biến và diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, và cũng là m ột trong những biện pháp hữu hiệu trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại nhiều quốc gia. Có thể kể đến một số thư ơng vụ sáp nhập lớn nhất trong lịch sử ngành tài chính 5 ngân hàng. Đầu t iên là vụ sáp nhập lớn chưa từng t hấy trong lịch sử ngành ngân hàng Châu Âu nói riêng và trong ngành công nghiệp tài chính toàn cầu nói chung của 02 ngân hàng ABN AMRO của Hà Lan và Barclays PLC của Anh, hình thành nên t ập đoàn ngân hàng hàn g đầu thế giới tính theo số vốn thị trường. Kế tiếp là vụ sáp nhập của Bank of America với Merrill Lynch, giúp Bank of America đạt tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng nội địa của M ỹ xét theo tiêu chí tiền gửi và lượng vốn hóa thị trường. Ngoài ra, có thể kể đến vụ sáp nhập của Wells Fargo với Wachovia giúp Wells Fargo nâng tầm, đứng ngang hàng với các đối thủ tên tuổi khác tại Mỹ như JP M organ Chase và Bank of America. Hoặc vụ sáp nhập của UFJ Holding với M itsubishi T okyo Financial Group để hình thành Mitsubishi UFJ Financial Gropup hùng mạnh nhất thế giới, vượt qua Citigroup về giá trị tài sản Đầu tư vốn trực tiếp của Nhà nước vào các TCTD Chính phủ có thể đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng. Đây là giải pháp đã được thự c hiện tại Mỹ và nhiều nư ớc Châu Âu. Khởi đầu tại Anh, Chính phủ đã mua cổ phiếu Royal Bank of Scotland (RBS) với giá 50,5 xu/cổ phiếu và sở hữ u 67% ngân hàng này. Chính phủ Anh hiện cũng sở hữ u 43% ngân hàng Lloyds. Chính phủ Hà Lan hiện sở hữu ngân hàng ABN Amro. Tuy nhiên, việc đầu tư vào các NH TM chỉ là tạm thời, Chính phủ có chiến lược bán lại cổ phiếu cho khối tư nhân khi 02 ngân hàng này hồi phục. Thực tế trước đó, RBS đã lỗ kỷ lục 24,1 tỷ bảng (34,2 tỷ) USD trong năm 2008. Hậu quả là tỷ lệ an toàn vốn CAR thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 8% theo yêu cầu và mứ c 10% theo kỳ vọng của thị trư ờng. Khi RBS có hệ số CAR rất thấp thì các ngân hàng và định chế tài chính khác sẽ cắt đứt quan hệ t ín dụng với RBS và RBS sẽ mất khả năng vay vốn tr ên thị trường liên ngân hàng. Trong tình huống này, RBS m ất thanh khoản hoàn to àn và lẽ đương nhiên, Chính phủ Anh đã r a t ay thay vì để phá sản như Lehman Brothers. Chính phủ Anh ra tay bằng cách mua cổ phiếu của ngân hàng với giá rất rẻ (50 xu/cổ phiếu) và yêu cầu RBS t hực hiện chương trình tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn trong đó bao gồm bán đi hết các tài sản không thuộc phạm vi hoạt động cốt lõi. Tương tự, ngân hàng Lloyds đã p hải đóng cửa nhiều chi nhánh ở nước ngoài và bán 300 tỷ bảng tài sản (25% tổng tài sản) không nằm trong hoạt động cốt lõi. Tạo niềm tin M ột trong những nhân tố tác động đến quá trình tái cơ cấu chính là niềm tin của người dân, bởi vì một khi đã thực h iện việc sáp nhập, hợp nhất sẽ làm cho ngư ời dân lo lắng về một hệ thống bất ổn, phải cơ cấu lại. Nếu NHNN không có các biện pháp kịp thời thực h iện đồng thời để duy trì lòng tin của n gư ời dân. Theo kinh nghiệm tái cơ cấu TCTD của M alaysia, một nước có điều kiện kinh t ế xã hội tương đồng với Việt Nam đã thực hiện thành công tái cơ cấu khu vực tài chính, là cần phải có lộ trình hợp lý và thực hiện theo kế hoạch toàn diện, minh bạch, cập nhật trên các trang mạng của cơ quan tái cơ cấu nợ nhà nước là Danaharta. Đặc biệt, h ệ thống dữ liệu được công khai phải tạo niềm tin cho người dân. Ngoài ra, tại một số nước, Chính p hủ có thể xem xét tăng mức bảo hiểm tiền gửi lên để gia tăng lòng tin của công chúng. Anh đã gia tăng mứ c bảo hiểm tiền gử i tối đa từ 35.000 GBP (55.000 USD) lên 85.000 GBP (135.000 USD) sau khủng hoảng t ài chính năm 2 008. T ại Philippines, mức bảo bảo hiểm tiền gử i là 500.000 p eso (12.000 USD). Hiện nay, trước yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo việc xây dự ng đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 20112015 nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, quản trị tốt hơn, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, từng bước nâng cao tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh; không còn T CTD yếu 6 kém k éo dài, ảnh hưởng xấu đến nền kinh t ế. Giải pháp hay phản ứng mà một Chính phủ chọn phụ thuộc vào một số yếu tố- kinh tế chính trị, phạm vi và mức độ nghiêm trọng của vấn đề, các điều kiện kinh tế hiện tại, tình trạng tài chính của các ngân hàng và Chính phủ, các hạn chế của khuôn khổ quản lý và pháp luật (kể cả luật phá s ản và các luật liên quan khác), năng lự c về tổ chức của các tổ chức liên quan... Các giải pháp này không nên được xem xét một cách biệt lập. 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: 1.3.1. Tổng hợp các biện pháp tái cấu trúc của m ột số quốc gia. 1.3.1.1. Tái cấu trúc nợ của khu vực doanh nghiệp Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bao giờ cũng phải giải quyết vấn đề nợ xấu đối với khu vự c doanh nghiệp (DN). Thông thường, tỷ lệ vay nợ của khu vực DN bao giờ cũng chiếm m ột tỷ trọng lớn tr ong tổng cho vay của hệ thống ngân hàng. Đ ể giải quyết vấn đề này có nhiều hư ớng tiếp cận khác nhau. Nếu DN lâm vào tình trạng khó khăn tạm thời, không trả nợ và lãi đúng hạn do lãi suất t ăng cao và do những bất lợi khách quan khác nhưng về lâu dài DN vẫn có triển vọng phát triển, thì ngân hàng có thể tạo điều kiện cho DN cơ cấu lại các khoản nợ để DN có thể tiếp tục hoạt động đư ợc. Điều này không chỉ giúp bản thân DN mà còn có thể giúp chính ngân hàng bảo toàn đư ợc các khoản cho vay, hơn là cho các DN phá sản và ngân hàng chỉ thu lại đư ợc khoản nợ của mình trong quá trình thanh lý tài sản. Nếu tình hình nợ xấu của DN có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế nói chung thì những sự hỗ trợ chính thức từ nhà nước là rất cần thiết. Thự c tế tại tại Nhật Bản cho thấy, theo Chư ơng trình phục hồi công nghiệp và tài chính giai đoạn cuối 1990–2006, song song hỗ tr ợ ngân hàng, Chính phủ nư ớc này đã tiến hành hỗ trợ DN , đặc biệt hỗ trợ điều chỉnh chiến lư ợc kinh doanh, các DN tập trung vào các ngành kinh doanh chính và thoái vốn khỏi những ngành không mang lại hiệu quả. T rung Quốc trong giai đoạn cuối những năm 1990 lại xử lý n ợ của DN nhà nư ớc thông qua phư ơng thức khá hiệu quả là hoán đổi nợ của DN thành vốn cổ phần của bốn công ty quản lý tài sản nhà nước. Tại M exico, năm 1983, Chính phủ nước này đã thành lập quỹ tín thác FICORCA do NHTW quản lý, nhằm hỗ trợ các DN trong quá trình tái cơ cấu nợ. 1.3.1.2. Hỗ trợ hệ thống ngân hàng Khi ngân hàng gặp vấn đề khó khăn, các cơ quan chứ c năng thường tiến hành những biện pháp khác nhau để tái cơ cấu như bơm vốn, quản trị tài sản, sáp nhập, thâu tóm (Bảng 1). Bảng 1: Cách thức tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của một số nước (giai đoạn từ 1980-1998) Chính phủ bơm vốn Trung Q uốc Ấn Độ H ồng Kông Indonesia H àn Quốc Malaysia Philippines Thái Lan Argentina Brazil x x x x x x x Cho phép ngân Cơ quan quản lý Sáp nhập ngân hàng nước ngoài tài sản hàng trong nước thâu tóm x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x 7 Chilê C olombia Mexico Venezuela x x x x x x x x x x x x Nguồn: Tổng quan thực tiễn tái cơ cấu ngân hàng” (NHTTQ T, 08/1999) Sự đa dạng trong các biện pháp tái cơ cấu ngân hàng đã buộc Chính phủ các nư ớc phải thành lập và/hoặc chỉ định một cơ quan đầu m ối điều phối các chính sách, ví dụ Chính phủ Thái Lan thành lập Ủy ban tư vấn tái cấu trúc t ài chính (bao gồm cán bộ của NHTW, Bộ Tài chính và những cơ quan khác); tại Malaysia, NHTW điều phối các hoạt động liên quan đến quản lý nợ xấu và bơm vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi Chính phủ tiến hành các chính sách hỗ trợ hệ thống ngân hàng luôn xảy ra n guy cơ làm tăng rủi ro đạo đứ c. Chính sách hỗ trợ có thể khuyến khích nhữ ng hành động chấp nhận rủi ro quá mức của các ngân hàng vì nếu thất bại đã có Chính phủ hỗ trợ. Do vậy, khi thiết kế chính sách hỗ trợ, Chính phủ các nước thường cố gắng đảm bảo các hành vi rủi ro đạo đức phải ở mức th ấp nhất. Với trường hợp khi cả hệ thống ngân hàng gặp khó khăn chung, NHTW có thể áp dụng nhiều chính sách khác nhau như cung cấp các khoản cho vay với các ngân hàng gặp căng thẳng về thanh khoản, khi đó lượng vốn cho vay nên phù hợp với giá trị của tài sản thế chấp của ngân hàng và nên chỉ tiến hành trong một khoảng thời gian cụ thể. Một biện pháp mà NH TW có thể sử dụng là giảm dự trữ bắt buộc hoặc t ăng lãi suất trả cho khoản dự trữ bắt buộc, nhờ đó các ngân hàng thương m ại có thể t ăng th anh khoản, giúp hỗ trợ quá trình tái cơ cấu. Ngoài ra, có thể sử dụng ch ính sách tiền tệ nới lỏng với mục t iêu giảm lãi suất. Thông qua giảm lãi suất, cầu tín dụng tăng có thể giúp các ngân hàng củng cố hoạt động và lợi nhuận của m ình. Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có thể dẫn t ới lạm phát, do vậy, cần phải cân nhắc rất kỹ khi sử dụng chính sách này. M ột cách trực tiếp để giúp đỡ các ngân hàng gặp khó khăn là bơm vốn. Để thực hiện việc b ơm vốn cho ngân hàng, trư ớc tiên phải có sự phân loại ngân hàng. Theo lý thuyết thì có ba loại ngân hàng: ngân hàng hoạt động tốt và không cần hỗ trợ, ngân hàng cần hỗ trợ m ới có thể hoạt động được và ngân hàng không thể hoạt động tốt được dù đư ợc hỗ trợ. Như vậy, chỉ có nhóm ngân hàng thứ hai mới được tiếp nhận hỗ trợ vốn của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, việc phân loại trên không hề dễ dàng và dễ gây ra tranh cãi. Bảng 2: Nhà nước bơm vốn và thoái vốn Nhà nước bơm vốn cổ phần Ấn Độ Hồng Kông (những năm 1980) Indonesia Hàn Q uốc Chính phủ cơ cấu lại vốn một số ngân hàng Tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh Tư nhân hóa một Tỷ lệ nắm giữ của Nhà phần các n gân hàn g nước giảm bớt bằn g cách quốc doanh bằn g phát hành thêm cổ phiếu cách phát hành thêm cổ phiếu Thoái vốn Chính ph ủ m ua ba ngân Bán cho các n gân h àn g tư hàng nhân Nhà n ước bơm vốn thông qua Cơ quan tái cơ cấu ngân hàn g In donesia và theo kế hoạch tái cơ cấu Chính phủ v à quỹ bảo hiểm 8 Malaysia Thái Lan Chile Colom bia Mexico tiền gửi bơm vốn Chính phủ và NHTW hỗ trợ thông qua cơ quan chuy ên biệt Bộ Tài chính bơm vốn NHTW bơm vốn Ch uyển đổi thành nợ sau 2-4 năm Tư nhân hóa các n bằng hình thức đấ u giá Quỹ bảo h iểm tiền gửi bơm Bán đấu giá cổ phần của Tư nhân hóa 18 ngân vốn nhà nước hàng nhà nước Quỹ bảo h iểm tiền gửi bơm vốn Nguồn: Tổng quan thực tiễn tái cơ cấu ngân hàng (NHTTQ T, 08/1999) M ột điểm đáng lưu ý là một số nư ớc thành lập cơ quan chuy ên biệt để bơm vốn cho hệ thống ngân hàng, điều này sẽ giúp tránh sự liên quan trực tiếp giữa hoạt động bơm vốn và ngân sách nhà nước. Danamodal của M alaysia là một ví dụ. Danamodal đư ợc tài trợ một phần bởi NHTW nhưng phần lớn là từ khoản phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh có thời hạn từ 5-10 năm. Bên cạnh đó, ở các nư ớc, trong mọi trư ờng hợp, để được bơm vốn các ngân hàng đều phải thỏa m ãn những điều kiện đi kèm. Ví dụ Thái Lan buộc các ngân hàng phải tăng dự phòng, tự tăng vốn tương ứng với những tỷ lệ nhất định và vốn của Nhà nư ớc được ưu tiên hơn. 1.3.1.3. Quản lý nợ xấu Nói chung, nợ xấu trong nền kinh tế phải đư ợc xử lý bởi nguyên tắc thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế. Khi vấn đề nợ xấu xảy ra ở mức độ lớn, bản thân hệ thống ngân hàng khó có thể giải quyết, điều này có thể ảnh hư ởng đến việc cung cấp t ín dụng cho nền kinh t ế, lúc đó sẽ cần sự can thiệp của nhà nước. Giải pháp hỗ trợ củ a nhà nước chỉ nên thực h iện đối với số nợ xấu còn lại sau khi TCTD đã tự xử lý và theo nguy ên tắc đảm bảo hài hòa hiệu quả kinh tế và xã hội. Khi nhà nư ớc can thiệp vào vấn đề nợ xấu thường áp dụng 02 mô hình chủ yếu để xử lý nợ xấu: thành lập các công ty quản lý tài sản (AMC) hoặc xây dự ng các cơ chế xử lý nợ xấu (Bảng 3). Bảng 3: AMC/cơ chế xử lý nợ xấu Quốc gia Địa vị pháp lý C ông ty quản lý tài sản Dahaharta- Malaysia DN nh à nước RCC- Nhật Bản DN thuộc T ập đoàn Bảo h iểm tiền gửi ( DICJ) Kam co- Hàn Quốc DN thuộc Ngân hàn g phát triển - KDB 4 AMC ( Cin da, Great W all, Orient , DN nh à nước Huar ung) - Trun g Quốc (tổ chức tài chính phi n gân hàng c ủa nhà n ước) RTC- Mỹ DN nh à nước Cơ chế xử lý nợ xấu FRF- Đài Loan (Tr ung Quố c) Quỹ thuộc Bộ T ài chính IBRA- In donesia Cơ quan thuộc Ch ính phủ TAMC- Thái Lan Cơ quan thuộc Ch ính phủ Chương trình PROER v à PROES- Bra zil Ch ươn g trình thuộc Ch ính ph ủ FOBAP ROA - Mexico Cơ quan thuộc Ch ính phủ Nguồn: Viện Chiến lư ợc và Chính sách Tài chính – Bộ Tài chính năm 2012 Để xử lý vấn đề n ợ xấu một cách nhanh chóng, Hàn Quốc v à Malaysia áp dụng cách thứ c mu a nợ xấu theo “lô lớn”, với các điều kiện mua bán sẽ được thỏa t huận sau hay buộc chuyển giao nhanh các khoản nợ xấu. Cũng có trường hợp nợ xấu phải thỏa m ãn 9 những điều kiện nhất định mới được chuyển giao như trong trường hợp của T hái Lan là nợ xấu của t ổ chứ c thuộc Chính phủ hoặc nợ xấu của khu vự c tư nhân với điều kiện giá trị khoản nợ xấu ít nhất là 5 triệu bath và p hải có đảm bảo và đồng t ài trợ thì mới đư ợc chuyển giao. Định giá nợ xấu chủ yếu dựa theo 02 cách: giá trị thị trường và giá trị sổ sách. Nguồn tài chính cho các AMC cũng như các cơ chế xử lý nợ xấu ở các nước chủ y ếu từ (1) ngân sách, (2) trái phiếu và các khoản vay khác, (3) ưu đãi khác trong quá trình hoạt động. 1.3.1.4. Chuyển đổi sở hữu Sáp nhập những ngân hàng trong nước có lẽ là cách thứ c tốn ít chi phí nhất trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Thậm chí, ngay cả khi không có khủng hoảng xảy ra nhưng nếu có quá nhiều các ngân hàng nhỏ thì sáp nhập cũng là cách t hức t ốt để tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, tình huống khi nhiều ngân hàng xảy ra vấn đề thì rất khó tìm ra ngân hàn g mạnh để tiến hành mu a bán sáp nhập. Với những trư ờng hợp như vậy, để khuyến khích sáp nhập, các cơ quan hữu quan thường phải xử lý vấn đề nợ xấu trư ớc (nhưng tốn khá nhiều chi phí cho ngân sách). Trong những trư ờng hợp khủng hoảng, nhiều khi không thể tìm được ngân hàng nội địa nào đủ lớn mạnh để t iến hành sáp nhập, do đó phải cho phép ngân hàng nước n goài tiến hành thâu tóm. Tuy nhiên, việc cho phép này hoàn toàn phải phụ thuộc vào độ m ở của chính sách đối với thị trư ờng tài chính. Cách thức cuối cùng là tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng trong m ột khoảng t hời gian nhất định. Cách thức này thư ờng chỉ phổ biến ở các nước phát triển khi hệ thống ngân hàng chủ yếu dựa vào vốn của tư nhân. Ở nhữ ng quốc gia mà các ngân hàng quốc doanh đóng vai trò quan trọng và khi tính sở hữu nhà nước là n guyên nhân gây ra nhữ ng khó khăn thì việc tư nhân hóa lại là vấn đề chính yếu trong quá trình tái cơ cấu. Ví dụ như trư ờng hợp của Trung Quốc, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống ngân hàng quốc doanh đã tiến hành nhiều khoản cho vay không theo quy tắc thị trư ờng mà theo chỉ định. Tro ng những trư ờng hợp như vậy, t ái cơ cấu hệ thống ngân hàng phải đi đôi với việc cổ phần hóa và tái cơ cấu hệ t hống DN nhà nước. Như vậy, hầu như trong mọi quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Chính phủ và NHTW luôn đóng một vai trò quan trọng. Các cơ quan nhà nước nên sớm nhận biết nhữ ng vấn đề đối với hệ thống ngân hàng và ban hành những chính sách điều chỉnh kịp thời, vì kinh nghiệm thự c tiễn tại một s ố nư ớc cho thấy những biện pháp phòng trừ kịp thời sẽ ít gây tốn kém hơn là khi vấn đề đã trầm trọng. Đối với vấn đề nợ xấu, cần có nhữ ng có những cách thức giải quyết minh bạch để tạo điều kiện cho nhữ ng phần còn hoạt động tốt của hệ thống ngân hàng t iếp tục phát triển. Những biện pháp đư ợc các cơ quan nhà nư ớc áp dụng và hiệu quả của chúng cũng cần đư ợc cân nhắc trong tổng thể điều kiện kinh tế vĩ mô. 1.3.2. Kinh nghiệm của các nước 1.3.2.1. Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Malaysia M alaysia thực hiện cải thiện phân bổ tín dụng, tăng cường các quy định thận trọng, tái xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Đồng thời, thực hiện Kế hoạch tổng thể phát triển khu vực t ài chính M alaysia được ban hành vào tháng 03/2001 trong giai đoạn 10 năm 2001-2010. Bên cạnh đó, M aylaysia thực hiện các chính sách như: thu hẹp loại hình hoạt động ngân hàn g đầu tư nhằm loại bỏ sự chồng chéo trong hoạt động và củng cố lợi thế cạnh tranh bằng cách sáp nhập các tổ chức có hoạt động đầu tư, chứng khoán vào thành loại hình ngân hàng đầu tư ; công bố các chỉ số chuẩn mực đ ể thúc đẩy các định chế t ài chính nội địa t ập trung phát triển lành m ạnh và giải quyết các yếu kém ; thúc đẩy sự t ham gia của các đối tác chiến lư ợc có năng lự c vào đội ngũ cổ đông nhằm chuyển giao các kỹ năng và kinh nghiệm chuyên m ôn, tiếp cận với công nghệ và s áng kiến th úc đẩy sự đổi mới sản 10 phẩm dịch vụ, th úc đẩy sự ra đời và đư a vào ứ ng dụng các chuẩn mực và thông lệ quản trị rủi ro, cải t hiện hiệu quả hoạt động của HĐQ T và ban điều hành, tăng cường kỷ luật thị trường, m ở rộng cơ hội kinh doanh m ới. Kế hoạch tổng thể phát triển khu vực tài chính giai đoạn 2001-2010 được chia thành 03 giai đoạn, với mục tiêu tạo lập được một hệ thống tài chính đa dạng, hiệu quả, vững mạnh, ổn định, hoạt động năng động trên thị trư ờng tài chính khu vự c và thế giới với năng lực cạnh tranh cao, phục vụ đắc lự c cho sự phát triển kinh tế đất nước. Kế hoạch này bao hàm 06 lĩnh vự c thuộc hệ thống tài chính là: (1) các phương thứ c v à mô hình cung ứng tài chính cho nền kinh tế; (2) hoạt động ngân hàng; (3) hoạt động bảo hiểm ; (4) hoạt động ngân hàng và bảo hiểm Hồi giáo; (5) hoạt động của các định chế tài chính phát triển; (6) thanh tra giám sát Labuan (m ột cơ quan chịu trách nhiệm q uản lý giám sát tài chính ở đặc khu kinh tế). Kế hoạch tổng thể tập trung vào các yếu tố: hiệu quả, hiệu lực, ổn định, quản lý an t oàn và xây dự ng cơ sở hạ tầng của khu vự c t ài chính Malaysia. Sau quá trình thực hiện kế hoạch phát triển tổng thể, từ cuối năm 2001 đến đầu năm 2010, hệ số an toàn vốn của hệ thống ngân hàng M alaysia đã tăng từ 13% lên 15% trên tài sản chịu rủi ro, lợi nhuận tính bằng thu nhập trên vốn tự có ROE tăng từ 13,3% lên 16,5%, thu nhập trên tổng t ài sản tăng từ 1% lên 1,5%, chất lượng tài sản được cải thiện với tỷ lệ nợ xấu giảm từ 11,5% xuống còn 1,9%, năng suất lao động (tính bằng lợi nhuận bình quân/nhân viên) tăng từ 63.500 RM lên 172.500 RM. Hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục chiếm giữ vị trí trung gian tài chính chủ đạo cho nền kinh tế, với trên 50% tổng tài sản của hệ thống t ài chính. Quá trình sáp nhập giữ a các ngân hàng bắt đầu từ năm 2000. Tại thời điểm đó, hệ thống ngân hàng bao gồm 31 ngân hàng thương mại, trong đó, 14 ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, 19 công ty tài chính, 12 ngân hàng đầu tư và 07 trung tâm chiết khấu. Đến năm 2009, hệ thống ngân hàng nội địa ch ỉ còn 9 t ập đoàn ngân hàng thương mại lớn, với năng lực tài chính hùng mạnh và phạm vi hoạt động toàn cầu; không còn công ty tài chính, do được sáp nhập vào các t ập đoàn ngân hàng; 11 ngân hàng Hồi giáo và 15 ngân hàng đầu tư; không còn trung tâm chiết khấu, do được sáp nhập vào các ngân hàng đầu tư; 25 công ty bảo hiểm, cùng với 5 ngân hàng nước ngoài được cấp phép, giữ vai trò chủ đạo trên thị trư ờng nội địa và có tầm hoạt động rộng trên thị trư ờng khu vực và thế giới. Những nỗ lự c t ái cấu trúc, hợp nhất và hợp lý hóa đư ợc thự c hiện từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 đã giúp hệ thống ngân hàng nói riêng và khu vực tài chính nói chung của M alaysia có một nền tảng vững mạnh hơn. Quá trình tái cấu trúc đã tập trung vào giải quyết 4 vấn đề chủ yếu, đó là: xử lý nợ xấu; tăng cường các quy định thận trọng và ra đời các chuẩn mực và thông lệ quản trị rủi ro; cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thông qua nâng cao chất lư ợng của HĐQ T và ban điều hành; củng cố lợi thế cạnh tranh thông qua sáp nhập các tổ chức tài chính, thúc đẩy các tổ chức t ài chính nội địa tập trung phát triển lành mạnh và giải quyết các yếu kém, đồng thời, thúc đẩy sự tham gia của các đối tác chiến lư ợc. 1.3.2.2. Bài học từ thành công của Hàn Quốc Chính phủ Hàn Quốc đã tung ra 03 biện pháp để giải quyết tình hình. Một mặt NHTW Hàn Quốc b ơm m ạnh vốn vào hệ thống t ài chính (tư ơng đương 14% GD P). Đồng thời Chính phủ tung tiền mua lại nợ xấu (tương đương 7% GD P) và áp dụng chính sách bảo vệ người gửi tiền (tương đương 5% GDP). Các ngân hàng thiếu hụt vốn được cấp thêm vốn trong khi các đ ịnh chế tài chính phi ngân hàng bị đóng cử a. N gười dân được bảo đảm rằng tiền gửi của họ được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ Hàn Quốc cũng chủ động mời các nhà đầu tư nước ngoài tái cấp vốn các ngân hàng và nâng cao khả năng quản trị. 11 Cuối năm 1997, 14 trong tổng số 26 ngân hàng thương mại của Hàn Quốc có tỷ lệ an toàn vốn dư ới 8% (2 ngân hàn g thậm chí m ất khả năn g thanh toán). Đợt bơm vốn đầu tiên được thực hiện trong giai đoạn 1998 – 1999. Đến khi t ập đoàn Daewoo phá sản năm 1999, 08 trong tổng số 17 ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn dưới 8% vào nử a sau năm 2000 (5 trong số này đã mất khả năng thanh toán). Do vậy Chính phủ phải tiến hành bơm vốn đợt 02. Trong quá trình bơm vốn cho các ngân hàng, Chính phủ Hàn Quốc đã yêu cầu lãnh đạo các ngân hàng yếu kém từ chứ c đồng thời giảm vốn. Chính phủ can thiệp vào việc quản lý bằng đề ra các chỉ tiêu kinh doanh. Sau khi cấp vốn, việc thu hồi ngân sách đư ợc thực hiện bằng cách bán cổ phần của các ngân hàng bị quốc hữu hóa cho nhà đầu tư. Cách làm này đã giúp Chính phủ nâng cao giá trị các ngân hàng và giảm t hiểu thiệt hại cho ngân sách. Cùng lúc đó Seoul đưa ra các chuẩn khắt khe hơn đối với việc phân loại nợ nhằm bơm đủ vốn và khôi phục niềm tin của nhà đầu tư vào các ngân hàng khó khăn. Để giải quyết lượng nợ xấu của các ngân hàng lên t ới 92 tỷ USD, tư ơng đư ơng 20% GDP, Hàn Quốc thành lập một công ty xử lý nợ (KAMCO) trực thuộc Chính phủ để mua lại nợ theo giá thị trường. Chi phí m à Chính phủ bỏ ra để mua lại số nợ này chỉ là 33 tỷ USD với tỷ lệ chiết khấu bình quân 64%. Sau đó số nợ xấu này đư ợc xử lý bằng cách phát hành các chứng khoán được đảm bảo bằng các tài sản này cũng như bán trực tiếp. Chính nhờ sự xuất hiện của công ty xử lý nợ tập trung đã tạo ra một thị trư ờng giao dịch nợ xấu và khuyến khích các ngân hàng bán bớt nợ xấu. Các biện pháp này đã giúp cải thiện nhanh chóng tình hình tài chính cũng như quản trị của các ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng đã giảm mạnh từ mức đỉnh 13,6% vào năm 1999 xuống chỉ còn 2,4% trong năm 2002. Tỷ lệ an toàn vốn tăng mạnh từ mức đáy 7% năm 1997 lên 10,5% n ăm 2002. Hầu hết các khoản nợ xấu bị cho là phải xóa nợ cũng dần được thu hồi. Mức xếp hạng tín nhiệm các ngân hàng hồi phục và đến đầu năm 2001 Chính phủ Hàn Quốc k hông còn phải bảo đảm tiền gửi cho người dân. Sau 05 năm thua lỗ, các n gân hàng bắt đầu có lời từ năm 2001 và tăng trư ởng nhanh từ 2002 và phát triển ổn định cho đến nay. 1.3.2.3. Kinh nghiệm tái cấu trúc Ngân hàng Trung Quốc Chính phủ Trung Quốc trong t iến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là tiến hành tổ chứ c lại N gân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC) nhằm tăng cường khả năng giám sát và tính độc lập, tự chủ trong quản lý, điều hành các chính sách tiền t ệ của NHTW này.Tiếp theo là củng cố và tăng cường hệ thống giám sát tài chính bằng việc thành lập Ủy ban Giám sát Ngân hàng Trung Hoa, tập trung vào công tác quản trị rủi ro ở các ngân hàng. Ban hành hàng loạt văn bản và quy định mới, áp dụng những chuẩn mực kế toán và kiểm toán độc lập khắt khe hơn và nhữ ng thông lệ quản trị công ty hiện đại nhằm nâng cao tính minh bạch, khôi phục, duy trì niềm t in của khách hàng, nhận diện những ngân hàng có vấn đề để kịp thời có biện pháp hỗ trợ, xử lý. Năm 1998, T rung Quốc thông báo bắt đầu áp dụng các quy tắc, quy định, định mức và tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của N gân hàn g T hanh toán Quốc tế (BIS), tỷ lệ an toàn vốn (CAR) được nâng lên mức 8%; nhữ ng quy định mới về phân loại khoản vay. Nhờ đó, bức tranh to àn cảnh về số nợ dư ới chuẩn trở nên rõ ràng hơn và hình thành kế hoạch làm sạch bảng cân đối kế toán của các NH TM nhà nước. Bốn công ty quản lý tài sản đư ợc thành lập để xử lý toàn bộ s ố nợ dư ới chuẩn ư ớc tính lên đến 670 tỷ nhân dân t ệ, nhữ ng công ty này được trao quyền ngoại lệ đặc biệt để xử lý, mua lại nợ xấu, thậm chí đầu tư và sinh lời từ đó.Số nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm t ới 70% tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng đư ợc đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán để xử lý. Sau đó, Chính phủ dành ra 40 tỷ nhân dân tệ dự trù ngân sách trong năm 1998 cho mục đích xóa 12 nợ xấu của nhữ ng DN NN này. Con số này là 30 tỷ nhân dân tệ trong năm trư ớc đó và tương tự các năm sau đều có khoản dự trù ngân sách dành để xóa nợ xấu. Đồng thời, những DNNN có nợ xấu đư ợc sắp xếp lại nhằm n găn ngừa nguy cơ làm giảm chất lượng tài sản của những ngân hàng cho vay vốn. Đối với vấn đề thanh khoản, kế hoạch tái cấp vốn cho các N HTM nhà nư ớc được triển khai song song. Số vốn yêu cầu được huy động theo cơ chế ngoài ngân sách, nghĩa là b ằng công cụ trái phiếu Chính phủ được phát hành với thời hạn 30 năm. Bư ớc tiếp theo, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các NHTM nhà nư ớc xúc tiến kế hoạch niêm yết trên thị trư ờng chứng khoán. Động thái này buộc các n gân hàng phải xây dựng cơ chế quản trị theo chuẩn quốc t ế, kinh doanh theo định hư ớng thương m ại nhiều hơn, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, tăng cường tính m inh bạch trong hoạt động, kế hoạch đầu tư và trên sổ sách kế toán.Nhằm tạo ra môi trường lành mạnh để tránh cho các ngân hàng rơi vào vòng luẩn quẩn của làn sóng nợ dưới chuẩn mới phát sinh, PBC kiên quy ết yêu cầu các ngân hàng cải thiện chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, vì đó là bư ớc đầu tiên trong việc quản trị rủi ro ngân hàng. Từng ngân hàng được yêu cầu lập kế hoạch với những chỉ tiêu cụ thể về chuyển đổi mô hình kinh doanh, giới thiệu dịch vụ khác biệt, kế hoạch quản tr ị rủi ro tổng thể, ứ ng dụng công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lự c…Ngành tài chính Trung Quốc không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng đang hoành hành hiện nay trên thế giới là nhờ tiến trình tái cấu trúc ngành ngân hàng mà Chính phủ nước này thực hiện kịp th ời cuối thập kỷ trước. Trung Quốc đã v ạch ra đư ợc kế hoạch tổng thể và đồng bộ, gắn việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với tiến trình tái cấu trúc hệ thống các DNNN , tái cơ cấu các khoản nợ của những doanh nghiệp này, chuyển đổi mô hình kinh doanh ngân hàng, tăng cường chất lượng quản trị, giám sát tổng thể thị trư ờng t ài chính, tiếp thu áp dụng kinh nghiệm của nước khác m ột cách có chọn lọc… 05 yếu tố thành công then chốt trong công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc bao gồm: (1) giải quyết triệt để các khoản nợ xấu, nợ dưới chuẩn trong đó có tỷ lệ lớn là nợ ở khối DN NN; (2) tăng cường năng lự c quản trị ngân hàng bao gồm cả về tổ chứ c, nhân sự; (3) thu hút các nhà đầu tư chiến lược; (4) đưa ngân hàng niêm yết ở trong nước và nước ngoài, một mặt giúp các ngân hàng t ăng vốn, m ặt khác buộc các ngân hàng tự đẩy mạnh tái cấu trúc để tuân thủ các chuẩn mực quốc tế theo yêu cầu của thị trường; (5) sử dụng vốn huy động m ới để t ăng cường đầu tư vào hệ thống công nghệ, quản trị rủi ro để nâng cao hiệu quả hoạt động cho các ngân hàng. Trên thực tế, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở mỗi một quốc gia là đặc thù, xét đến điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội ở mỗi nư ớc là khác nhau. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không giống với bất kỳ một quốc gia nào khác, song có những nét tương đồng với các nư ớc châu Á như M alaysia hay Hàn Quốc, trên phương diện hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều ngân hàng nhỏ, phân t án, th iếu những ngân hàng đủ lớn làm trụ cột; tương đồng với Trung Quốc về văn hóa, mối quan hệ của hệ thống ngân hàng và khối DNNN . Ngoài ra, điều kiện ở Trung Quốc có khác biệt bởi nư ớc này đã có sẵn nhữ ng ngân hàng trụ cột và rất lớn về m ặt quy mô, song hoạt động không khỏe mạnh, cần đư ợc cải t ổ và t ái cấu trúc. 1.3.2.4. Kinh nghiệm từ Thụy Điển Trong những năm cuối 1980 đầu những năm 1990, Thụy Điển đối mặt với nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng. N gay khi nền kinh tế bị t ác động bởi một vài cú sốc bên ngoài, một loạt doanh nghiệp đổ vỡ, bong bóng bất động sản và chứng khoán xì hơi. Hậu quả là tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng t ăng rất nhanh, đẩy một số ngân hàng đến bờ vực phá sản, nền kinh t ế đối m ặt với nguy cơ khủng hoảng và suy thoái. Trong 02 năm 1992 - 1993, Thụy Điển đã thực hiện m ột cuộc cải cách hệ t hống ngân hàng ngoạn mục, đư ợc nhiều nhà kinh tế đánh giá là một cuộc cải cách th ành công 13 nhất trong lịch sử ngân hàng hiện đại. Không những tránh được đổ vỡ tài chính liên hoàn, kinh tế Thụy Điển t ăng trư ởng rất ấn tượng những năm sau đó và Chính phủ nư ớc này đã thu hồi lại được gần như toàn bộ số tiền bỏ ra cứu trợ. Bên cạnh việc p há giá đồng nội tệ, chính đợt cải tổ hệ thống ngân hàng mới là chìa khóa dẫn đến thành công của Thụy Điển. Trước n guy cơ đổ vỡ hàng loạt ngân hàng, đầu năm 1992, Chính phủ T hụy Điển tuyên bố bảo đảm toàn bộ số vốn của người dân và doanh nghiệp gử i hoặc đầu tư trong hệ thống ngân hàng ngoại trừ vốn của giới chủ ngân hàng. Tiếp đó, Thụy Điển quốc hữ u hóa và hợp nhất 02 ngân hàng Gotabanken và Nordbanken, ở thời điểm đ ó không còn đủ vốn chủ s ở hữu theo luật định. Sau khi quốc hữu hóa, T hụy Điển tách số t ài sản xấu ra khỏi bảng cân đối tài s ản và giao cho 02 công ty quản lý tài sản (AMC - Asset Management Comp any) quản lý riêng. Đến năm 1997, các AMC đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ và được giải thể. Ngân hàng Nordbanken cũng dần dần được tư hữu hóa và đổi t ên thành Nordea. Toàn bộ chi phí cho vụ giải cứu/cải tổ hệ thống ngân hàng này của Thụy Điển vào khoảng 4% GD P nhưng sau khi tư hữ u hóa Nordbanken và thanh lý AMC ngân sách Thụy Điển đã thu lại được gần như toàn bộ số tiền nói trên. Nhìn tổng thể, đợt tái cấu trúc ngân hàng của T hụy Điển thành công như vậy chính là nhờ 03 yếu tố: - M inh bạch thông tin về nợ xấu: Ban đầu, NH TW Thụy Điển cũng từng có ý định che dấu bớt các thông t in về các khoản nợ xấu rồi sẽ xử lý dần dần. Tuy nhiên, cuối cùng Thụy Điển đã quyết định công bố toàn bộ thông tin về tài sản và nợ xấu. Điều này giúp Chính phủ tỉnh t áo nhìn thẳng vào thự c tế, xác đ ịnh được các rủi ro và hoạch định đư ợc chi phí cần dùng cho công cuộc tái cấu trúc. - Nguồn lự c cho cho công cuộc tái cấu trúc phải đủ m ạnh: N guồn lực ở đây không chỉ dừ ng ở nguồn tài chính để t ái cấp vốn và bảo đảm t oàn bộ mà còn là cơ chế và thẩm quyển của những cá nhân và đơn vị trực tiếp tham gia vào quá trình giải cứ u. - Thực thi một gói chính sách mang tầm v ĩ m ô đúng đắn và nhất quán: Chính sách tài khóa đúng đắn giúp cho Thụy Điển không lún quá sâu vào suy thoái, giảm gánh nặng đối với thất nghiệp, lạm phát và tăng trư ởng. 1.3.2.5. Côte d’Ivoi re: Thành công thông qua tính chất toàn di ện Côte d'Ivoire's thành công t ái cơ cấu, bắt đầu vào năm 1991, cho thấy tầm quan trọng của một phương pháp tiếp cận toàn diện. Đầu năm 1986, suy giảm giá cả thị trường thế giới ca cao và cà phê bắt đầu làm suy giảm phần lớn hệ thống ngân hàng y ếu ớt của quốc gia, và trong 02 năm tới, thanh khoản đã được bắt đầu ở bốn trong số năm ngân hàng phát triển nhà nước. Đến năm 1990, 14 ngân hàng thương mại bị giảm m ạnh tiền gửi và các khoản tín dụng từ các ngân hàng nư ớc ngoài. Năm 1991, Chính phủ bắt đầu một kế hoạch tái cơ cấu toàn diện với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới. Các ngân hàng nhà nước cuối cùng đã nhanh chóng được đặt trong thanh khoản, pháp luật mới đã được ban hành về vấn đề tịch thu tài sản để thế nợ và quản lý các khoản nợ xấu, và các ngân hàng thương m ại tái cấu trúc vốn thông qua việc giải quyết nợ Chính phủ và v ốn mới từ các chủ tư nhân. Trong một tín hiệu quan trọng của mức độ nghiêm trọng của Chính phủ, chủ sở hữu mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thư ơng mại đư ợc lự a chọn đóng cử a và thanh lý, hoặc bơm vốn mới mà không đư ợc coi là quá lớn để sụp đổ. T ái cấu trúc vốn là được hỗ trợ bởi các NHTW địa phư ơng, điển hình như NH TW của q uốc gia T ây Phi (BCEAO), đã phục hồi thanh khoản, và các ngân hàng thư ơng mại có thể tiếp tục cho vay quy mô nhỏ vào năm 1992. M ột gói cải cách hoạt động củng cố thành công việc phục hồi thanh khoản. Nhữ ng hoạt động này bao gồm quản lý và cắt giảm nhân viên, các chi nhánh của các ngân hàng thương mại. Chính phủ tăng cường khuôn khổ pháp lý, kế toán, tài chính, chính sách pháp luật, chính sách tiền tệ. Ví dụ, cải cách pháp luật trao quyền cho các ngân hàng để thu 14 nhận tài sản thế chấp và xiết nợ quá hạn của n gười đi vay. Và vào giữa năm 1991, các cơ quan có thẩm quyền giới thiệu các quy định bảo đảm an toàn mới, bao gồm các y êu cầu an toàn vốn mạnh hơn và giới hạn cho vay với kh ách hàng vay đơn. Một Ủy ban N gân hàng địa phương mới đư ợc thành lập cung cấp sự giám sát liên tục, bao gồm cả kiểm toán ngân hàng thông thường. Hoàn thành vào năm 1992, những cải cách này cung cấp nền tảng để cải thiện hệ thống ngân hàng. Năm 1994, lợi nhuận trên vốn của các ngân hàng tăng gần 10%, và hầu hết các ngân hàng đã quay trở lại phục tùng với các quy tắc b ảo đảm an toàn cứ ng nhắc. Lúc đầu, sự phục hồi kinh tế các nư ớc vẫn còn yếu, như ng đã được cải thiện từ đầu năm 1994, sau sự mất giá của đ ồng franc CFA và sự mở đầu của những thay đổi khác, kinh tế vĩ mô và cấu trúc hỗ trợ chuyển của Quỹ T iền t ệ Quốc tế (IM F). Phát triển mới này là một điều kiện quan trọng cơ bản để khôi phục lại tính đúng đắn của hệ thống ngân hàng Côte d'Ivoire's. 1.3.2.6. Mauri tania: Cần cho sự toàn diện Cũng như trong Côte d'Ivoire, thị trư ờng thế giới yếu kém đối với các ngành công nghiệp quan trọng của M auritania, nông nghiệp và đánh bắt cá, gây áp lự c nghiêm trọng năm 1988-89 lên hệ thống ngân hàng quản lý yếu kém của quốc gia. Với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới, Chính phủ đã thự c hiện một chương trình tái cơ cấu trong 1988-90 bán ngân hàng phát triển theo hướng công nghiệp và quy ền sở hữu phần lớn của nhà nư ớc ở bốn ngân hàng thương m ại cho khu vự c tư nhân. Để mở đường, Chính phủ xây dựng các bảng cân đối của các ngân hàng bằng cách hấp thụ thấu chi lớn của họ với các NHTW. Thiếu sự đồng th uận chính trị làm suy y ếu một chư ơng trình kế hoạch cải cách hoạt động, tuy nhiên, họ nhận được sự chú ý. Các ngân hàng tiếp tục cho vay đối với ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp đánh bắt cá đang gặp khó khăn, và nỗ lự c rất ít để nâng cao chất lượng danh m ục đầu tư của họ. NHTW đã chứng m inh không t hể t hực hiện giám sát hiệu quả, bao gồm cả việc tuân t hủ yêu cầu bảo đảm an toàn. Tư nhân có kế hoạch tụt lại, và thu hồi các khoản nợ xấu trong dài hạn, t hủ tục pháp lý tốn kém. Đến cuối năm 1991, các khoản nợ xấu của các ngân hàng đạt 50% tín dụng của họ đối với khu vự c tư nhân, và nó đã rõ ràng nói lên việc việc tái cơ cấu đã không thành công. Năm 1992-1994, Chính phủ đã sử dụng phương tiện ưu đãi của IM F để hỗ trợ các nước có thu nhập th ấp - điều kiện điều chỉnh nâng cao cơ cấu - để hỗ trợ nỗ lự c lần thứ hai tái cơ cấu. N gân hàng phát triển bị đóng cửa và thanh lý t ài sản, bốn ngân hàng thương mại đã được tái cấu trúc vốn và tư nhân đầy đủ, và quyền hạn giám sát của NHTW đã được củng cố. Chính phủ thành lập một cơ quan thu hồi nợ và đạt được m ục tiêu của năm 1995. Nhìn chung, chi phí cho Chính phủ trong nỗ lự c tái cấu trúc lần thứ hai là khoảng 7,6% GD P, với hơn m ột nử a đư ợc sử dụng để thanh khoản ngân hàng phát triển.Ngân hàng Mô-ri-ta-ni cho thấy có dấu hiệu gia tăng lợi nhuận năm 1995, và kinh nghiệm tổng thể của nó chỉ rõ rằng các vấn đề ngân hàng chắc chắn s ẽ tái diễn nếu t ái cấu trúc tài chính không đi kèm với các cuộc cải cách hoạt động. 1.3.2.7. Chile và Tây Ban Nha: Vai trò của NHTW Đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, cả T ây Ban Nha và Chile đều gặp phải các vấn đề trong hệ thống ngân hàng. Vấn đề của Tây Ban N ha b ắt đầu đầu tiên bởi các hậu quả của sự gia tăng giá d ầu của những năm 1970. T ại Chile, suy thoái trầm trọng đã trở nên tồi tệ hơn bởi sự gia tăng của tỷ lệ lãi suất của Mỹ trở lại mức cũ. Giá đồng copper giảm mạnh, vốn đã rút khỏi khỏi quốc gia, đồng p eso đã giảm 90% so với đồng đô la Mỹ, và các khoản nợ bị khất được hình thành nhanh chóng trên các khoản vay liên kết trao đổi nư ớc ngoài cho khách hàng vay trong nước. Trong những năm xảy ra nhữ ng vấn đề này, các hệ thống ngân hàn g ở cả 02 quốc 15 gia tự do hóa, mở rộng, và rủi ro ngày càng tăng với đầy đủ hệ thống quy phạm pháp luật,quy định, và kế toán quản lý rủi ro thích hợp. Cả 02 nư ớc b ắt tay vào việc tái cơ cấu ngân hàng toàn diện, T ây Ban Nha vào năm 1980 và Chile năm 1983. Cả 02 ngân hàng tru ng ư ơng đã dẫn đầu trong việc đư a r a, t hực hiện và tài trợ cho chiến lược. T ại Chile, NHTW đã tăng hơn 14 trong tổng s ố 26 ngân hàn g thư ơng mại và 08 của 17 công ty tài chính tư nhân trong nước. Cuối cùng nó th anh lý 08 trong số các ngân hàng và t ất cả các công ty tài chính, trực tiếp tham gia vào các hoạt động cho vay của các ngân hàng. Cả 02 quốc gia cùng khôi phục sự lành mạnh trong ngân hàng và tăng cư ờng giám sát ngân hàng, như ng T ây Ban Nha đạt được thành công nhanh chóng hơn với chi phí thấp hơn. Nhờ đó, sự lành mạnh trong ngân hàng đã phần lớn được phục h ồi vào giữ a nhữ ng năm 80 với chi phí tích luỹ khoảng 15% sản lượng. Chi phí ở Chile cuối cùng lên đến 1/3 sản lượng năm nay và bốn năm vào chuyển dịch cơ cấu của nó, tỷ lệ vốn ngân hàn g vẫn còn dưới mứ c trước khủng hoảng, lợi nhuận của n gân hàn g vẫn còn thấp, chi phí hoạt động là quá cao. Tại sao lại có những khác biệt này? Tại Tây Ban Nha, NHTW nhấn mạnh việc chia sẻ chi phí với các ngân hàng và đưa ra các khoản ưu đãi khác để cải thiện quản trị doanh nghiệp. Hơn nữa, NHTW Tây Ban Nha đã tách các hoạt động ngân hàng của m ình khỏi chính sách tiền tệ và hoạt động giám sát và đặt chúng trong m ột quỹ bảo hiểm tiền gửi riêng biệt. NHTW Chile, ngư ợc lại, tiếp tục tiến hành chi tiêu tài chính bằng cách giả định chi phí t ài chính cho hoạt động giải cứu ngân hàng. Việc chia sẻ kinh phí ở Chile đã làm giảm bớt gánh nặng cho chủ sở hữu ngân hàng trong tương lai, cuối cùng NH TW Chile đã thu được nhiều từ việc này. Thêm vào đó, NH TW Chile đã trở nên tích cực tham gia vào việc gia hạn nợ và cho các ngân hàng thương m ại vay vốn, tiếp tục tác động đến hoạt động của các ngân hàng mất khả năng thanh toán. Tại Tây Ban Nha, sự khôi phục lại đã theo một chuỗi mà các nhà chứ c trách gọi là tái cơ cấu vốn “accordion”. Đầu tiên, các khoản nợ xấu hiện có đã được giảm so với số vốn còn lại. Sau đó FGD mua lại quyền kiểm soát trong ngân hàn g, và sau đó bơm tiền mặt cho cổ phần vốn chủ sở hữu bổ sung, cuối cùng bán ngân hàng cho các cổ đông. Khi chủ sở hữu cũ bị m ất vốn chủ sở hữu của họ, đó là động cơ khuy ến khích mạnh mẽ để quản lý doanh nghiệp được cải thiện. 1.3.2.8. Philippine: phục hồi NHTW Nỗ lực cải cách của Philippine bắt đầu vào năm 1984 nổi bật với các v ấn đề đặc biệt của giao dịch với ngân hàng nhà nước. Đó cũng là một ví dụ tốt về một biến không thuận lợi bất ngờ trong môi trường kinh tế t oàn cầu phơi bày điểm yếu nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng và kích hoạt thành công cải cách ngân hàng. Vào cuối những năm 1970, sự gia tăng lãi suất làm gia tăng khó khăn cho Philippine trong việc trả nợ nước n goài, Chính phủ tuyên bố lệnh cấm vào năm 1983 dẫn đến sự khủng hoảng tài chính, nguồn vốn tháo chạy khỏi các ngân hàng. Mặc d ù nhữ ng phát triển này làm gia tăng t ài chính một cách mong manh, gốc rễ của cuộc k hủng hoảng ngân hàng Philippine nằm trong lĩnh vự c tài chính. Điểm yếu tr ong các quy định và thông lệ ngân hàng lỏng lẻo làm phóng đại khủng hoảng. Trong nỗ lực vực dậy nền kinh tế, Chính phủ chỉ đạo ngân hàng cho các doanh nghiệp gặp khó khăn vay vốn, cơ quan giám sát miễn thi hành các tiêu chuẩn ngân hàng để cung cấp cho các ngân hàng gặp khó khăn một cơ hội để vượt qua nhữ ng khó khăn tài chính. Vào cuối năm 1985, 02 ngân hàng nhà nước lớn nhất với khoảng m ột nửa số t ài sản hệ thống ngân hàng- NH TW Philippine và n gân hàng phát triển Philippine đã mất khả năng thanh toán. M ột chương trình phục hồi chức năng toàn diện bắt đầu với việc loại các khoản nợ xấu khỏi bảng cân đối kế toán của 02 ngân hàn g và bù đắp bằng nợ Chính phủ đã đư ợc thanh toán trong vòng 03 năm. Một công ty mới, công ty tín thác tài sản tư nhân 16 đã đư ợc thành lập để tiến hành việc điều chỉnh nợ và các hoạt động phục hồi. Sự thành công của Philippine bao gồm việc chẩn đoán đúng vấn đề, hoạt động cải cách để dựng lại cơ cấu tài chính và sự điều chỉnh mạnh mẽ, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn. Các biện pháp để phục hồi ngân hàng quốc doanh (các biện pháp giải thích cho phần lớn các vấn đề) là tập trung chuyển đổi cơ cấu một cách đán g kể, bao gồm cả sự quản lí mới và giảm thiểu phần lớn chi phí. Tất cả các khoản ưu đãi về thuế đã đư ợc rút từ ngân hàng và các khoản tiền gửi công đã bị giới hạn để cân đối làm việc, các ngân hàng đã phải lệ thuộc vào kiểm toán bên ngoài và Chính phủ đã rút lại tất cả khoản bảo lãnh. Với lợi ích từ việc phục hồi các ngân hàng, đã mở đường cho th ành công tư nhân. Thành công trong sự cải tổ ngân hàng ở Philippine đã làm tăng khả năng chống chọi của quốc gia này với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á nổ ra vào năm 1997. 1.3.2.9. Kinh nghiệm từ Đài Loan: Hệ thống ngân hàng Đài Loan được hình thành từ năm 1945 trên cơ sở tiếp quản các ngân hàng vốn đã được hình thành từ thời kỳ là thuộc địa của Nhật Bản. Từ năm 1960, các ngân hàng hoạt động t ại Tru ng Quốc đại lục được Chính phủ Đài Loan cho phép mở cử a trở lại, đồng thời thành lập một số ngân hàng và công ty tín thác đầu tư, ngăn cấm mở thêm các ngân hàng tư nhân, từng bước tự do hóa t ỉ giá hối đoái và nâng dần giá trị của đài t ệ, hoàn thành hạ t ầng tài chính cơ bản. Trong giai đoạn 1991-2001, Đài Loan tiếp tục đẩy m ạnh chính sách tự do hóa tài chính theo hướng hội nhập quốc t ế, cho phép th ành lập các ngân hàng tư nhân. Năm 2001, tại Đài Loan có trên 447 tổ chức tài chính với 5.841 chi nhánh. T rong đó, có 53 ngân hàng trong nư ớc với 3.005 chi nhánh, 39 hợp tác xã t ín dụng với 373 chi nhánh, 38 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Từ giữa năm 1998, Đ ài Loan bắt đầu bị t ác động tiêu cự c của khủng hoảng tài chính Đông Á 1997, tỉ lệ nợ xấu tăng mạnh, từ 4,18% năm 1997 lên 8,16% vào cuối năm 2001 và 8,8% vào năm 2002, riêng nợ xấu của nhóm các tổ chức tài chính cơ sở lên tới 16,39%, rủi ro đạo đứ c và tội phạm ngân hàng tăng m ạnh, m à đối tượng vi phạm bao gồm cả một số lãnh đạo cao cấp của các ngân hàng. Cải cách tài chính tại Đài Loan Giai đoạn 1: Từ giữa năm 1999, Chính phủ Đài Lo an đã tiến hành quản lý các khoản nợ, yêu cầu các ngân hàng xử lý nợ xấu, giảm thuế thu nhập của các tổ chức tài chính từ 5% xuống 2%, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất t iền gửi của các ngân hàng tại NHTW nhằm giúp các ngân hàng có thêm nguồn tài chính để giải quyết nợ xấu.Thành lập các công ty quản lý tài sản nhằm t húc đẩy việc phân loại và xử lý nợ xấu, thự c hiện các biện pháp để giảm nợ xấu tại các ngân hàng trong nước. Từ tháng 7/2001, Đài Loan tập trung vào việc củng cố hệ thống pháp lý để t ái cơ cấu khu vực ngân hàng và giảm nợ xấu tại các ngân hàng trong nước. Bao gồm, luật sáp nhập các tổ chức t ài chính, luật công ty tài chính cổ phần, hình thành ban quản lý đài t ệ, luật thuế giá trị gia tăng, luật chứ ng khoán hóa tài sản tài chính, thành lập ủy ban giám sát tài chính và tiền tệ, luật chứng khoán hóa bất động sản, điều chỉnh luật bảo hiểm tiền gử i. Ngày 27/6/2001, Đài Loan đã thông qua điều lệ thành lập và quản lý quĩ tái cơ cấu tài chính nhằm thiết lập cơ chế v à nguồn vốn để giải thể các tổ chức tài chính yếu kém. Nguồn vốn của quĩ đư ợc huy động từ thuế thu nhập của các tổ chức tài chính và bảo hiểm tiền gửi của các đơn vị tham gia b ảo hiểm, quĩ đã giúp 13 ngân hàn g trong nư ớc thực hiện việc giải thể và củng cố 45 tổ chức t ài chính địa phương và 02 ngân hàng. Tháng 7/2002, Chính phủ bắt đầu thực h iện cải cách tài chính và thành lập đội đặc nhiệm cải cách tài chính (FRT F), bao gồm thành 5 nhóm t ác nghiệp: ngân hàng, bảo hiểm, thị trường vốn, các tổ chứ c tài chính địa phương, chống tội phạm tài chính. Đây là m ột tổ chức thống nhất hành động, xây dựng kế hoạch và thực thi các chiến lư ợc cải cách một 17 cách có hiệu quả. FRTF đã xác định 23 vấn đề cải cách tài chính và đư a ra 63 khuyến nghị cụ thể. Đ áng chú ý, đã thành lập mới cơ quan giám sát t ài chính, tăng cường hình phạt các tội phạm tài chính, thiết lập hệ thống tài trợ nông nghiệp. Liên quan đến việc tăng cường hình phạt vi phạm tài chính, Đài Loan đã chỉnh sửa lại luật ngân hàng, luật công ty tài chính cổ phần; phê chuẩn và b an hành các dự luật về công ty tín thác, hợp tác xã t ín dụng, thị trường chứ ng khoán, bảo hiểm. Đối với các tội phạm tài chính, mứ c phạt tiền lên tới 500 đài tệ (1,5 triệu USD) và phạt tù t ới 10 năm . Để vô hiệu hóa các khoản chuyển giao t ài sản phi pháp, Đài Loan t iếp tục có nhữ ng điều chỉnh nhằm tạo điều kiện để tòa án vô hiệu hóa các khoản chuyển giao t ài s ản của các chủ tịch HĐQT và cán bộ quản lý cao cấp, thiết lập qui trình thúc đẩy xét xử và quyết định của các cơ quan tòa án. Kể từ cuối năm 2001, đã có 14 công ty tài chính cổ phần đư ợc thiết lập với tổng số 89 tổ chức tài chính thành viên (bao gồm việc sáp nhập 15 ngân hàng, 14 công ty chức khoán, 8 công ty bảo hiểm và 6 công ty tài chính hối phiếu). Kết thúc giai đoạn này, tỉ lệ nợ xấu giảm dần từ 7,8% vào năm 2001 xuống 4,33% vào năm 2003 và 2,74% vào tháng 3/2005. Tỉ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và tỉ lệ lợi nhận trên vốn chủ sở hữu cải thiện từ -0,48% vào năm 2002 lên 0,63% vào năm 2004 và từ -6,93% vào năm 2002 lên 10,3% vào năm 2004. Riêng tỉ lệ vốn tự có đư ợc cải thiện chậm hơn, từ 10,63% vào năm 2002 lên 10,69% vào năm 2004. So với năm 2002, qui mô thị trư ờng t ài chính năm 2004 được mở rộng với tổn g tài sản tăng 22,7-38,6%. Lòng t in của nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh, dòng vốn vào tăng từ 2,6 tỉ USD vào năm 1993 lên 31,4 tỉ U SD năm 2000 và 80,1 tỉ vào USD năm 2004. Giai đoạn 2: Ngày 17/12/2004, đề án thúc đẩy trung tâm dịch vụ tài chính khu vực được phê duyệt, mở đầu giai đoạn 2 của công cuộc cải cách tài chính. Trong giai đoạn này, đã t hực thi 5 chiến lư ợc lớn nhằm kiện toàn tổng t hể m ôi trư ờng tài chính, thúc đẩy trung tâm tài chính khu vự c, thúc đẩy nghiệp vụ quản lý tài chính, đa dạng hóa các dịch vụ tài chính, tăng cường thể chế thị trường tài chính. M ục tiêu trư ớc mắt là củng cố hệ thống tài chính, đảm bảo đến cuối năm 2005, tăng qui mô của 03 ngân hàng lớn nhất với thị phần của mỗi ngân hàng là 10%, giảm một nửa số lư ợng ngân hàng thương mại nhà nước xuống còn 06 ngân hàng; đến cuối năm 2006, giảm một nử a số lư ợng các công ty tài chính cổ phần xuống còn 07 công ty, tối thiểu có 01 ngân hàng t huộc quyền sở hữu của nước ngoài ho ặc đư ợc niêm yết trên thị trường chứ ng khoán quốc tế. M ục tiêu dài hạn của giai đoạn 2 là phát triển Đài Loan thành trung tâm tài chính tự do, mở cửa và có hiệu quả trong khu vực thông qua các nỗ lực nới lỏng kiểm soát và phát huy sáng kiến, nhưng nhiệm vụ này vẫn chưa hoàn thành, 14 công ty tài chính cổ phần vẫn hoạt động trên thị trường t ài chính, việc củng cố tài chính vẫn tiếp tục là ư u tiên hàng đầu của Chính phủ nhằm cải thiện tình hình ngân hàng tại Đài Loan. Trong hệ thống ngân hàng, Chính phủ Đài Loan đã đề ra 04 hạng mục cải cách, bao gồm: Xây dựng cơ chế hiệu quả xử lý nợ xấu ngân hàng, đẩy mạnh khả năng đối phó với vấn đề tái cơ cấu tài chính, t ạo môi trư ờng hoạt động thuận lợi cho các ngân hàng, tăng cường giám sát tài chính. M ục tiêu cải cách hệ thống ngân hàng bao gồm, giảm các khoản nợ quá hạn, tăng cường đối phó với vấn đề cơ cấu tài chính, đa d ạng hóa các loại hình dịch vụ tài chính, nâng cao tính thanh khoản thị trường vốn, t ăng cư ờng quản lý và giám sát tài chính, góp phần hình t hành thị trư ờng tài chính chất lư ợng cao và nâng cao năng lự c cạnh tranh của khu vực t ài chính. 18 Trong giai đoạn 2004-2008, thực hiện 31 vụ mua bán và sáp nhập ngân hàng, giảm số lư ợng ngân hàng từ con số 53 xuống 39 với 3.294 chi nhánh, số lư ợng ngân hàng hợp tác xã giảm từ con số 74 vào năm 1994 xuống con số 27 vào năm 2 004. Về cải cách giám sát tài chính, Đài Loan đã thành lập lại Ủy ban giám sát tài chính vào ngày 01/07/2004, thự c hiện chức năng quản lý thị trư ờng tài chính, bao gồm phát triển, giám sát, quản lý và giám sát nghiệp vụ của tất cả các tổ chức tài chính. Với việc thành lập mới Ủy ban giám sát tài chính, công cuộc cải cách tài chính bắt đầu được xúc tiến m ạnh m ẽ tại Đài Loan. Tháng 06/2004, thành lập ban xúc tiến khu vự c dịch vụ tài chính (cải cách lần 2). Tháng 08/2008, thúc đẩy Đài Loan tr ở thành trung tâm tài chính và quản lý vốn tại khu vự c châu Á – Th ái Bình Dương. Từ năm 2009, tiếp tục thúc đẩy phát triển dịch vụ tài chính và hình thành nền tảng tài chính quốc gia. Đến 30/09/2012, quĩ tái cơ cấu tài chính đã xử lý tổng cộng 63 tổ chức kinh doanh không hiệu quả, bồi thường 289 tỉ đài tệ. Thị trường t ài chính Đài Loan đã từng bước phát triển theo cơ chế thị trường, nân g dần vị thế của ngành tài chính Đài Loan trong khu vự c và trên thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp m ở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở trong nư ớc và ngoài nước. Những kết quả cải cách tài chính của Đài Loan Từ Quý 02/2002, kinh tế Đ ài Loan có dấu hiệu phục hồi, tình hình tài chính của các doanh nghiệp được cải thiện. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2012-2013, năng lực cạnh tranh của thị trường t ài chính Đài Loan xếp thứ 19 trong tổng số 144 nền kinh t ế được khảo sát, tiến 05 bậc so năm trước. Năm 2011, chỉ số ngân hàng lành mạnh của Đài Loan đã vươn lên vị trí 51, cao hơn nhiều so với Nhật Bản (xếp t hức 63), CHLB Đức (75), M ỹ (97) và Hàn Quốc (98), t ỉ lệ an toàn vốn là 1 1,97% (vào tháng 06/2012). T ỉ lệ nợ xấu giảm từ 11,76% vào tháng 4/2002 xuống 1,84% vào cuối năm 2006 và 0,51% vào tháng 9/2012. Trong quá trình tái cơ cấu nợ, tỉ lệ nợ xấu giảm mạnh, đồng thời dư nợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng từ 2.366.600 tỉ đài tệ vào thángy7/2005 lên 4.323.100 tỉ đài tệ vào tháng 09/2012, chiếm 52,8% tổng dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Trong 10 năm qua, dư nợ cho vay các hộ gia đình tại Đài Loan chiếm khoảng 120% GDP, cao hơn tỉ lệ 94,61% tại Nhật Bản, tỉ lệ 95,97% tại Singap ore và 71,98% tại Hàn Quốc. Điều này cho thấy, tỉ lệ tiết kiệm t ại Đài Loan khá cao. 1.3.2.10. Bài học kinh nghiệm: Việc phục hồi lại hoạt động cho vay của ngân hàng và thu về đư ợc lợi nhuận đòi hỏi hành động khắc phục một cách nhanh chóng và một phương pháp tiếp cận toàn diện. Hoạch định chính sách phải giải quyết ngay lập tứ c các vấn đề về các ngân hàng yếu kém, mất khả năng thanh toán, những thiếu sót trong công việc kế toán, pháp lý, khuôn khổ pháp lý và sự lỏng lẻo trong việc giám sát và tuân thủ qui định. Trong quá trình cơ cấu lại, NHTW cũng phải sẵn sàng cung cấp hỗ trợ thanh khoản để các n gân hàng có thể tồn tại. Tuy nhiên, NHTW không nên cung cấp tài chính dài hạn cho các ngân hàng hay tham gia vào các hoạt động thư ơng mại của ngân hàng, vì điều này dẫn đến chi phí t ài chính tăng đáng kể và làm nảy sinh sự mâu thuẫn với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Việc không quản lí các t ài sản không tạo ra lợi tức ở các n gân hàng, cũng như các tài sản còn lại của n hững ngân hàng không thành công, làm tăng t ổng chi phí cho việc cải tổ ngân hàng. Nó cũng tạo ra sự không công bằng trong phân phối các khoản lỗ, bằng việc hoàn lại cho những người không trả nợ đúng kỳ hạn và làm giảm các ưu đãi cho việc trả nợ trong tương lai. Quá trình điều chỉnh nợ được phân cấp hay tập trung là cách quản lý tích cực đ ể tối đa hoá lợi nhuận, duy trì các giá trị tài sản có thể góp phần thu hồi chi phí tái cơ cấu ngân hàng và gửi các tín hiệu thích hợp cho các khách hàng vay quá hạn. Trong trư ờng hợp khó khăn t ập trung ở NH TW thì các ngân hàng có vấn đề đôi khi 19 đã đư ợc tư nhân hoá. Kế hoạch của việc tư nhân hoá là quan trọng. Trong m ột số trường hợp, quy ền ưu t iên lại được trao cho các nhà thầu không có những kỹ năng cần thiết; trong trường hợp khác, tài sản ngân hàng lại bị định giá thấp. Các kinh nghiệm quốc gia chỉ ra rằng các chương trình đư ợc thiết kế m ột cách nghèo nàn sẽ chứa đự ng mầm m ống cho cuộc khủng hoảng ngân hàng tiếp theo. Các quốc gia trong nghiên cứu này đã thành công trong vấn đề coi trọng khả năng thanh toán hơn là các vấn đề lợi nhuận. M ột cách giải thích là việc cải thiện trong khả năng thanh toán của ngân hàng xuất phát chủ y ếu từ cơ cấu lại tài chính ngắn hạn, trong khi việc thu hồi lợi nhuận lại khó khăn hơn với việc tái cơ cấu hoạt động dài hạn. Ví dụ như việc trao đổi trái phiếu cho các khoản nợ xấu, ngay lập tức cải thiện các chỉ số về khả năng thanh toán nhưng không nhất thiết ảnh hưởng đến chi phí, doanh thu hay lợi nhuận. Và trong thự c t ế, việc thiết kế các gói chuyển dịch cơ cấu cho ngân hàng thư ờng có phần nào đó không cân bằng, chúng thường t ập trung nhiều hơn về các biện pháp tái cơ cấu t ài chính dựa trên chi p hí của các biện pháp tái cơ cấu hoạt động. Về việc cải thiện trong trung gian tài chính, kết quả cho thấy sự thay đổi đáng kể giữa các nhóm quốc gia: trong khi một số quốc gia thường xuyên tăng qui mô của các trung gian tài chính và giảm thiểu hệ thống rủi ro theo sau việc tái cấu trúc n gân hàng, điển hình là đã đạt đư ợc tiến bộ trong nâng cao hiệu quả của các trung gian tài chính. Sự thiếu tiến bộ này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tái cơ cấu hoạt động và tạo ra các ưu đãi thích hợp cho những ngư ời chủ s ở hữu ngân hàng, quản lý, giám sát và thị trường để giám sát các ngân hàng và để đảm bảo quản trị doanh nghiệp thận trọng. 1.4. Những khó khăn và rủi ro khi thực hiện tái cấu trúc Bên cạnh những tác động tích cự c từ việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, còn tồn tại những khó khăn và rủi ro mà các quốc gia phải quan tâm xem xét khi t iến hành thực hiện quá trình này trước, trong và sau khi t ái cấu trúc: Thứ nhất, khó khăn do những mâu thuẫn về lợi ích phát sinh trong quá trinh tái cấu trúc. Đó là những mâu thuẫn có liên quan đến lợi ích của ngư ời gửi tiền, lợi ích của ngư ời vay,của các nhóm cổ đông khác nhau, của các nhóm ngân hàng khác nhau, sự phân chia lợi ích giữa nhà nước với thị trư ờng và giữa các nhóm lợi ích. Thứ hai, khó khăn do những chi phí phát sinh trong quá trình tái cấu trú c và khả năng chịu đựng của nền kinh t ế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chi phí do quá trình tái cấu trúc có thể lên đến từ 20% đến hơn 50% GD P nếu việc tái cấu trúc diễn ra sau khủng hoảng (20% GDP ở Hàn Quốc, hơn 30% GDP ở Thái Lan và hơn 50% GDP ở Indonesia), nếu việc t ái cấu trúc chậm trễ hoặc tái cấu trúc không hiệu quả, gây kéo dài sẽ càng làm cho chi phí tái cấu trúc càng cao hơn. Tái cấu trúc là một quá trình tốn kém đối với không chỉ các TCTD mà còn gây ra tổn thất lớn trong ngân sách chính phủ và nguồn lực xã hội. Ngoài chi phí trự c tiếp th ì chi phí cơ hội của việc tái cấu trúc cũng rất lớn. Thứ ba, khó kh ăn trong việc giải quyết các vấn đề sau khi tái cấu trúc như về vấn đề nhân sự, vấn đề về quản trị… Thứ tư, rủi ro kéo dài, không dứt điểm do thiếu cơ s ở luật pháp, khoa học (cơ sở dữ liệu…) và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ t hống (ví dụ, cơ chế xử lý tài sản). Thứ năm, r ủi ro lệ thuộc v ào ngân hàng nư ớc ngoài, do tỷ lệ các ngân hàng ở trong tình trạng thiếu th anh khoản và có tài sản xấu chiểm tỷ trọng lớn; s ố lượng N gân hàng hoạt động hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các ngân hàng yếu kém. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến vấn đề an ninh tài chính– tiền tệ quốc gia. Thứ sáu, rủi ro m ất niềm tin đối với hệ thống ngân hàng, do những ngân hàn g thuộc sở hữu nhà nước có thể có cơ chế bảo lãnh ngầm đối với ngư ời gửi tiền. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân không được đảm bảo có thể khiến luồng tiền 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan