ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA VIỆC THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG Ở CHƯƠNG MỸ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA VIỆC THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG Ở CHƯƠNG MỸ)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 20
Người hướng dẫn khoa học: TS Hà Quang Ngọc
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của TS Hà Quang Ngọc. Các số liệu, tài liệu trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội - 2014
Tác giả Luận văn
Nguyễn Thị Thanh Huyền
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Hà Quang Ngọc. Nhờ có sự giúp đỡ của
TS. Hà Quang Ngọc mà tôi có thể hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Hà Nội - 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Huyền
MỤC LỤC
1.1
1.2
1.3
1.4
2.1
2.2
2.3
2.4
3.1
3.2
3.3
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Khái quát chung về dân chủ và dân chủ cơ sở trong trường
trung học phổ thông
Quy chế dân chủ trong trường học
Tác động của việc thực hiện quy chế dân chủ trong nhà
trường
Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện Quy chế dân chủ
trong trường học
Chương 2. TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở CHƯƠNG MỸ
Khái quát về huyện Chương Mỹ và các trường trung học
phổ thông ở Chương Mỹ
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở trong trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ
Tác động xã hội của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trong trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ
Những hạn chế trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trong các trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ và
nguyên nhân
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ
SỞ TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở CHƯƠNG MỸ TRONG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm định hướng
Việc thực hiện Quy chế dân chủ trong nhà trường phải đảm
bảo nguyên tắc giữ vững sự ổn định của môi trường giáo
dục, có tác động tích cực đến qúa trình dạy và học.
Một số kiến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
Trang
3
8
8
17
30
36
44
44
49
68
91
94
94
97
117
120
123
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TCN
Trước Công nguyên
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
THPT
Trung học phổ thông
CNH - H§H
Công nghiệp hóa-Hiện đại học
UBND
Ủy ban nhân dân
CBQL
Cán bộ quản lý
BC§
Ban chỉ đạo
QCDC
Quy chế dân chủ
GD & §T
Giáo dục và đào tạo
THCS
Trung học cơ sở
CB, GV, CC
Cán bộ, giáo viên, công chức
TNCSHCM
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
2
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người, là khát vọng của con người từ cổ chí kim. Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin xác định dân chủ là bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại dân chủ là của quý báu nhất
của nhân dân.
Xác định đúng đắn tầm quan trọng của dân chủ, từ khi bước vào công
cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến
vấn đề này và đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân
chủ trong đời sống xã hội, đặc biệt đã ban hành và triển khai có hiệu quả Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước, Đảng ta đã xác
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế
cuộc sông ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực” [7, tr. 9 - 10]. Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng cũng xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân; cán bộ công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về
quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực và ý thức làm chủ, tham gia quản lý xã
hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền
làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm
công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội” [7, tr.81 - 82]
3
Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần củng
cố kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không
chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy nhà nước mà còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần
chúng nhân dân lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể
nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở ngày càng có vai trò và ý
nghĩa to lớn trong đời sống xã hội, nhất là trong khi chúng ta đang xây dựng
và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cùng với cả nước, ngành giáo dục và đào tạo nói chung và ngành giáo
dục và đào tạo huyện Chương Mỹ nói riêng đã và đang cụ thể hóa và triển
khai tốt việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đã tạo ra không khí dân chủ
trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt trong nhà trường,
cũng đã có những tác động tích cực đến chủ trương xã hội hóa giáo dục và
quá trình dân chủ hóa xã hội của Đảng và Nhà nước. Để tiếp tục có những
đánh giá cụ thể những tác động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong nhà
trường và để thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của cán bộ giáo viên, công nhân viên, học sinh trong các
trường THPT ở huyện Chương Mỹ tôi đã lựa chọn đề tài “Tác động xã hội
của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường trung học phổ
thông (qua khảo sát một số trường ở Chương Mỹ )”
2.Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề dân chủ từ rất lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt
động chính trị cũng như các nhà khoa học xã hội và nhân văn, những người
làm công tác lý luận ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, nhất là từ khi có
Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 12/8/1998 về Xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể, như những nghiên cứu về thực
4
hiện dân chủ và thể chế dân chủ của TS.Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn
Thông: Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2003; Thể chế dân chủ và phát triển
nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2005; Dân chủ và
dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới, tác giả GS.TS. Hoàng Chí
Bảo. Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2010; Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tác giả PGS.TS. Lê Minh Quân, Nxb Chính trị
Quốc gia-Sự thật, H, 2011; Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, tác giả GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị
Quốc gia, H, 2000; Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tác giả Hoàng
Chí Bảo, Tạp chí Thông tin lý luận số 7/1998; Những lực cản đối với quá
trình dân chủ hóa ở Việt Nam, tác giả Hoàng Chí Bảo, Báo Nhân dân ngày
22/4/1998; Đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải
pháp”, tác giả TS. Vũ Hoàng Công, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, H, 2002….
Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa
học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ viết về dân chủ, dân chủ cơ sở nói
chung và dân chủ trong nhà trường nói riêng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên bên cạnh việc đi sâu
nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở đã cố gắng làm rõ các khía cạnh khác của quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ như việc gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, phân
tích, lý giải yêu cầu, cách thức, tổ chức biện pháp…. Tuy việc thực hiện dân
chủ cơ sở dù không phải là mới bắt đầu nhưng vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện và mở rộng, mặt khác , đời sống xã hội đang trong quá trình chuyển biến
mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân chủ cơ sở cho đến hiện
nay luôn không cũ. Khi bắt tay nghiên cứu đề tài này những tài liệu kể trên sẽ
là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với đề tài của tác giả. Đồng thời, với
5
nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần tham gia làm sáng tỏ vấn đề thực hiện
Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan trong tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu về dân chủ, dân chủ cơ sở
và dân chủ trong trường học làm khung lý thuyết cho việc nghiên cứu tác
động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong thực tiễn; tiến hành nghiên
cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở Chương Mỹ và
đánh giá những tác động của việc thực hiện đó đối với hoạt động giáo dục của
nhà trường và đối với xã hội trong thời gian qua. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã xác định một số giải pháp nhằm thực
hiện tốt hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường THPT, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để mục đích trên có thể đạt được, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ cơ sở và dân chủ
trong trường học. Làm rõ tính tất yếu phải thực hiện Quy chế dân chủ trong
các trường THPT ở huyện Chương Mỹ.
- Nghiên cứu quá trình tổ chức triển khai thực hiện và làm rõ những tác
động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở huyện
Chương Mỹ;
Kết quả đạt được, những hạn chế thiếu sót; xác định nguyên nhân của
những hạn chế trong việc thực hiện Quy chế dân chủ.
- Đề xuất những giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy tác
động xã hội và thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường
THPT trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
6
Thực tế việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT
công lập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát 4 trường THPT tại huyện Chương Mỹ thời gian từ năm học
2008 đến năm học 2012.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận về dân
chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo, chọn lọc những kết quả
nghiên cứu của một số nhà khoa học đã công bố về vấn đề dân chủ cơ sở.
5.2. Cơ sở thực tiễn: là quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong
các trường THPT ở huyện Chương Mỹ trong thời gian qua (từ 2008 đến 2012)
5.3. Phương pháp nghiên cứu: Từ góc độ chính trị học, tác giả luận văn
vận dụng phương pháp luận mác – xít về dân chủ, phương pháp logic và
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học,
so sánh tổng kết thực tiễn để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn.
Đánh giá được một số tác động từ việc triển khai thực hiện Quy chế
dân chủ trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ và nêu lên một số giải
pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường
THPT ở huyện Chương Mỹ trong thời gian tới.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương và 11 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát chung về dân chủ và dân chủ cơ sở trong trường trung học phổ thông
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong
đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực thông qua một hệ thống
bầu cử tự do. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên ở tại Hy Lạp với cụm từ
demokratia," quyền lực của nhân dân", được ghép từ chữ "dèmos"( nhân dân)
và "kratos"( quyền lực), vào khoảng giữa thế kỉ thứ 5 đến thứ 4 trước Công
nguyên để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật
là Athena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN.
Trong học thuyết chính trị, dân chủ dùng để mô tả cho một số ít hình
thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có một
định nghĩa thống nhất về dân chủ, song có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định
nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên
của xã hội( công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình
đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên ( công dân) đều được hưởng các quyền
tự do được công nhận rộng rãi. Như vậy, có thể thấy dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai cấp
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, nó tồn tại và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ một hình thức đặc biệt của dân chủ
đã xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân chủ quân sự hay dân chủ nguyên thủy.
Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân đã bầu ra Hội đồng thị tộc và Thủ lĩnh
quân sự, đồng thời quyết định những vấn đề quan trọng của thị tộc.
Ở thời kì này quyền lực của nhân dân là " thiêng liêng và bất khả xâm
phạm, đều là một quyền lực tối cao do tự nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi
người phải phục tùng một cách vô điều kiện trong tình cảm, tư tưởng và hành
động của mình" [23 ,tr.149 - 150]
8
Đến thời kỳ Chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã biến Nhà nước thành
công cụ phục vụ lợi ích của mình. Nhà nước chủ nô dân chủ là hình thức đầu
tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp - dân chủ của giai cấp chủ nô.
Nhà nước chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải
dành cho nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Khi đó
tuyệt đại bộ phận con người đã bị đẩy xuống hàng nô lệ.
Ở thời kì tiếp theo, Nhà nước phong kiến, chuyên quyền độc đoán cấu
kết với các thế lực của thần quyền đã gạt nhân dân ra khỏi cơ chế quyền lực.
Cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ lại diễn ra gay gắt. Cuộc đấu tranh đó
mang lại kết quả là chế độ chuyên chế phong kiến lại bị phủ định bởi một chế
độ với một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn - chế độ dân chủ tư sản.
Ở chế độ dân chủ tư sản, các quan niệm về dân chủ đạt tới trình độ phát
triển cao hơn, bắt đầu từ khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có
quyền và nghĩa vụ công dân được pháp luật quy định và bảo vệ.
Nhưng nền dân chủ tư sản trong thực chất còn rất nhiều hạn chế và nó chỉ
bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản cầm quyền. Điều đó được thể hiện tập
trung trong các quy định của pháp luật của Nhà nước tư sản. Nhà nước luôn
luôn đề cao chức năng chính trị (thống trị giai cấp) khi hình thành bất kì một
quy định pháp luật nào để thực thi trong xã hội". Trong Nhà nước tư sản dân
chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải các mâu thuẫn hiển nhiên
giữa quyền bình đẳng hình thức do "chế độ dân chủ" của bọn tư bản ban bố với
hàng nghìn hạn chế và mánh khoé dối trá thực sự, đang biến những người vô
sản thành nô lệ làm thuê. Trong xã hội tư bản mâu thuẫn giữa tính chất giai cấp
của giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân ( tính vô sản) của dân chủ
càng trở nên gay gắt. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng
vô sản mà thành quả của nó là việc thiết lập chế độ dân chủ XHCN.
9
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân
chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật, thành những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục
tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị
- pháp lí và dân chủ trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xã hội sẽ tạo điều
kiện để dân chủ XHCN ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao
động. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Nhà nước Xô viết - chế độ dân
chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời - đã từng bước hiện thực hoá quyền
dân chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hoá sự bình đẳng của quần chúng
nhân dân trong việc tham gia vào tổ chức và hoạt động của chính quyền Nhà
nước, trong việc xác định hình thức, nội dung và nhiệm vụ của Nhà nước.
Theo Lênin: " Chế độ Xô viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công
nhân và nông dân; đồng thời nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt chế độ dân chủ tư
sản và sự xuất hiện trong lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là
chế độ dân chủ vô sản hay là chuyên chính vô sản"[20, tr.184]
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông
Nam Á được thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê trở thành người
làm chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1945, miền
Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), nhân dân trở thành chủ thể của mọi
quyền lực. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân cả nước trở
thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước, hệ thống chính trị XHCN được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ
đó đến nay nền dân chủ XHCN đã và đang được xây dựng và ngày càng phát
huy vai trò to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước.
10
Với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con người dân chủ đã
lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và thể chế hoá
thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các thiết chế chính
trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã tồn tại cho đến nay thì
chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ XHCN - mới thực sự là chế độ dân
chủ của đa số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
1.1.2.Dân chủ cơ sở
Nền dân chủ XHCN là một nền dân chủ toàn diện và triệt để nhất trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; tạo mọi điều kiện cho
con người phát triển toàn diện về mọi mặt. Đây chính là mục tiêu mà CNXH
phải phấn đấu để thực hiện được nhằm khẳng định nền dân chủ XHCN "cao
gấp triệu lần dân chủ tư sản" (Lênin ).
Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình bằng hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Ở hình thức
gián tiếp nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua bầu cử các cơ
quan, tổ chức, cá nhân đại diện tham gia vào các quyết định của Nhà nước. Ở
hình thức dân chủ trực tiếp mỗi người dân có quyền tham gia trực tiếp vào các
quyết định của Nhà nước trên cơ sở dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Với dân chủ gián tiếp, ý nghĩa thật sự của nền dân chủ (nhân dân quyết định
công việc nhà nước) phụ thuộc hoàn toàn vào mối quan hệ thực tế giữa người
đại diện, chính quyền, người dân, và chỉ đạt tới lí tưởng một khi quan hệ đó
mang bản chất dân chủ trực tiếp - đích phấn đấu của mọi nhà nước dân chủ trên
thế giới ngày nay. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp dân chủ trực tiếp có
những yếu điểm mà dân chủ gián tiếp không có được. Dân chủ trực tiếp có khả
năng thể hiện một cách khách quan ý chí, nguyện vọng của nhân dân không
cần thông qua một hình thức trung gian nào. Chính vì thế Lênin đã chỉ ra rằng:
11
" Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc lệnh về dân chủ là đủ,
không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho " những người
đại diện " nhân dân trong những cơ quan đại diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế
độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự
tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có
"sự giám sát" từ trên, không có quan lại" [18, tr.336 - 337]
Việc đề cao dân chủ trực tiếp là xuất phát từ bản chất của chế độ
XHCN. Theo Lênin: ''Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn ...đó là
một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội"
[19, tr 97]
Dân chủ là một thành quả to lớn của sự phát triển lịch sử của nhân loại,
vì vậy phát huy dân chủ trong quá trình đổi mới ở nước ta là đòi hỏi tất yếu của
sự phát triển. Đảng ta coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không
chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN
mà còn là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển công
cuộc đổi mới của xã hội ta, khâu quan trọng cấp bách hiện nay là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh ( thành
phố trực thuộc), huyện ( thị xã, quận) và xã ( phường), các cấp này đều vận
hành theo nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN - nguyên tắc tập trung
dân chủ. Có thể nói việc đẩy mạnh phát huy dân chủ ở cơ sở là xuất phát từ
nhu cầu tất yếu khách quan của thực tiễn xã hội. Đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không tuỳ thuộc chủ yếu vào sự
quán triệt và thực hiện như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan,
doanh nghiệp.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
12
Nhà nước, là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động sản xuất, học tập và công
tác, là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với
các cấp uỷ Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức... Chính vì vậy
mà nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết
những vấn đề đặt ra ở cơ sở đồng thời có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động
hàng ngày của cấp uỷ, chính quyền và cán bộ lãnh đạo.
Triết lí cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thiết kế và tổ chức xây
dựng một chế độ chính trị cách mạng đầu tiên ở nước ta được tóm tắt trong
hai từ dân chủ. Lý tưởng cốt yếu của Người về chế độ dân chủ là: mọi quyền
lực đều ở nơi dân; dân là chủ nhân của đất nước; dân là chủ thể tối cao của
mọi thứ quyền lực trong xã hội. Theo Người, dân chủ nghĩa là dân là chủ và
dân làm chủ nhà nước.
Người khẳng định bản chất nền dân chủ XHCN, là đỉnh cao của nền
dân chủ. Hồ Chí Minh thấy rất rõ rằng: '' Có lực lượng dân chúng việc to tát
mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì làm gì cũng không xong.
Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy
đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [25,
tr. 295 ].
Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ sở,
từng cán bộ, từng người dân, từng công việc cụ thể. Vận động tất cả lực lượng
của mỗi một người dân, phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ
của mình trong vị thế của người làm chủ. Vì vậy, Người yêu cầu: '' Bất cứ
việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với
dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương" [25, tr.216 ]
Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa
phương, cơ sở mình họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm
cụ thể một cách tự giác. Và theo Hồ Chí Minh,việc kiểm tra, rút kinh nghiệm
13
sau khi thi hành một công việc xong, là vô cùng quan trọng. Dân kiểm tra cán
bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động." Lề lối
làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp
dưới phải phê bình cấp trên [26, tr. 9 ].
Ngày nay, phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' là
thể hiện tư tưởng đó của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương
thực hiện có nề nếp phương châm này. Và thực tế khách quan đã kiểm chứng
sự cần thiết của việc phải đưa phương châm đó vào cuộc sống. Và Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ( tháng
6/1997) đã khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Để phát huy sâu rộng quyền làm chủ của nhân dân, ngày 18 - 2 - 1998,
Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở và Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là những văn bản có tính
chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và
thực hành dân chủ.
Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, là hình thức
nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện
ý chí, nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính
quyền ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở được tiến hành từ cấp xã, phường trở xuống
đến cấp thôn xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp theo phương châm
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở: Trưng cầu dân
ý; bầu và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết
định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội,
14
trật tự an ninh ở cơ sở; tố cáo, khiếu nại; xây dựng quy định, quy ước tự quản
v.v...Cơ sở ở đây là xã, phường; là cơ quan, đơn vị, trong đó có trường học.
1.1.3. Dân chủ trong trường học
Trường học là nơi giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển các phẩm
chất và năng lực về ý tưởng và đạo đức, tri thức khoa học và kỹ năng...cho
công dân.Giáo dục nhà trường là con đường cơ bản nhất để hình thành những
người lao động có kỹ thuật, có kỷ luật cao đáp ứng những yêu cầu của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Nhờ có giáo dục và đào tạo mà trình độ học vấn của
nhân dân được nâng cao, có khả năng nắm bắt và sử dụng những thành tựu
khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại.
Mác và Ăngghen xác định, tri thức khoa học chính là động lực của
phong trào cách mạng. Theo các ông, công nhân đã có một trong những yếu
tố của thành công là số lượng, nhưng số lượng chỉ giải quyết được vấn đề khi
quần chúng được tổ chức lại và được tri thức chỉ đạo.
Là người kế tục Mác và Ăngghen, Lênin cũng đặc biệt coi trọng học
tập. Lênin khẳng định: " Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải
cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba
là học tập và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên
giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa, phải làm sao cho học thức thật sự ăn
sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của
cuộc sống chúng ta.'' [21, tr.444].
Tiếp thu và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , Hồ Chí
Minh dày công tìm kiếm phát hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến
bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động. Đó là nền giáo dục
Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả.
Trong nền giáo dục ấy, việc phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục ở
nhà trường luôn là tiền đề cần thiết đảm bảo cho sự phát triển toàn diện những
15
năng lực sẵn có của con người; là nền giáo dục mà theo Người: ''Dạy và học
cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước''( trong bài: Nói chuyện tại
Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc, ngày 23/3/1956, Báo Nhân dân, số
753, ngày 26/3/1956). Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công
nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân,
số 5299, ngày 16/10/1968, Hồ Chí Minh viết: ''Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa''.
Chính vì lẽ đó nên Hồ Chí Minh cho rằng, trong trường học cần phải có
dân chủ, cần phải thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Đối với mọi
vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu.
Đồng thời, thầy và trò cần giúp đỡ anh em phục vụ cho nhà trường. Các anh
chị em nhân viên thì nên thi đua để cho cơm lành canh ngọt để học sinh ăn no,
học tốt. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: ''Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ XHCN, xây dựng quan hệ thật tốt,
đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau,
giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ đó''.[28, tr.403]
Cũng theo Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ không chỉ bó hẹp trong nhà
trường mà ngoài ra cần có mở rộng ra trong gia đình và ngoài xã hội để giúp
cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Hồ Chí Minh viết: ''Tôi
cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo
dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng
hái giúp ích nhân dân''[ 27, tr, 81].
Trong công cuộc xây dựng CNXH, Đảng ta đã xác định: Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế.
Sự nghiệp giáo dục có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung thành
với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh vượt qua mọi khó
16
- Xem thêm -