Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can...

Tài liệu Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can

.DOC
53
6160
106

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp và coi đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiều tư tưởng, quan điểm định hướng về cải cách tư pháp trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị Quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó có giai đoạn điều tra. Đây là giai đoạn ban đầu với mục đích chính là thu thập chứng cứ, chứng minh hành vi tội phạm. Hỏi cung bị can là một trong những biện pháp điều tra chính nhằm mục đích thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can. Do đó, nếu hoạt động hỏi cung bị can đạt hiệu quả cao sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động điều tra nói riêng và quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng và thuận lợi. Mặt khác, trên thực tế vẫn còn hiện tượng một số điều tra viên sử dụng nhục hình, bức cung đối với bị can gây oan sai. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Đồng thời, trong hoạt động hỏi cung các điều tra viên nên sử dụng tác động tâm lý đến bị can. Mục đích của việc sử dụng phương pháp này là điều tra viên tạo ra trạng thái tâm lý tích cực nhất để bị can có thể khai về các tình tiết của vụ án. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này còn chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều điều tra viên còn chưa có một hiểu một cách có hệ thống về các phương pháp này. Đồng thời, cũng chưa có một công trình nghiên cứu về đề tài này một cách cụ thể và kĩ lưỡng. Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can” là một yêu cầu cấp bách và cần thiết không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn 1 2. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ vai trò của những tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, các phương pháp tác động tâm lý hay được điều tra viên sử dụng, qui trình thực hiện tác động tâm lý đến bị can. Từ thực tế áp dụng, chúng tôi đề cập đến một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can - Đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can 4. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận về tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can: Khái niệm, mục đích, nguyên tắc tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. Đặc điểm tâm lý của các chủ thể trong quá trình thực hiện tác động cũng như những phương pháp tác động tâm lý thường xuyên được sử dụng trong hoạt động hỏi cung bị can. Đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động hỏi cung. Bản khoá luận không nghiên cứu hỏi cung bị can như là một chiến thuật và phương pháp trong hoạt động hỏi cung bị can của khoa học điều tra hình sự, đồng thời cũng không nghiên cứu hỏi cung bị can theo góc độ của khoa học luật tố tụng hình sự. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu hồ sơ là chủ yếu. Phương pháp này bao gồm các giai đoạn như phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá và khái quát hoá những lý thuyết, những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến tác động tâm lý. Nghiên cứu hồ sơ: Đây là phương pháp hỗ trợ giúp chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. Chúng tôi tiến hành 2 nghiên cứu 20 biên bản hỏi cung bị can của Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Nam Định đã tiến hành năm 2006 và năm 2007. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có 3 chương: - Chương I: Khái niệm, mục đích, nguyên tắc của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can - Chương II: Cơ sở của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can - Chương III: Thực trạng của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can và một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. 3 CHƯƠNG I KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC CỦA TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Khái niệm tác động Trong xã hội loài người, mỗi cá nhân không thể tồn tại được nếu như không có những tác động đến cá nhân khác hay đến cộng đồng của mình. Sự tác động này diễn ra cũng rất đa dạng, trên nhiều lĩnh vực và bằng những cách thức khác nhau. Tác động tâm lý là một hình thức trong vô số các hình thức tác động qua lại giữa các cá nhân trong quá trình sống và hoạt động của họ. Hoạt động này được tồn tại cụ thể như thế nào, điều đó được qui định bởi những hình thức, phương tiện giao lưu và còn phụ thuộc vào từng giai đoạn tác động. Trong từ điển Tiếng Việt, tác động đựơc hiểu là làm cho một đối tượng nào đó có những biến đổi nhất định [11, tr.851]. Vậy tác động là một khái niệm rộng, bao trùm lên nhiều lĩnh vực, chỉ cần một sự kích thích nào đó gây ra sự biến đổi (nội dung, hình thức,…) đều có thể được coi là tác động, trong đó tác động đến con người là hình thức phức tạp nhất. Còn trong Từ điển Tâm lý học do A.V.Petơrovxki và M.G. Iarosevxki chủ biên định nghĩa: “Tác động là sự chuyển dịch có định hướng các vận động hoặc thông tin từ thành viên này đến các thành viên khác tham gia tương tác” [9, tr.58]. Như vậy, con người là chủ thể mang ý thức nên mọi tác động từ bên ngoài đều phải thông qua ý thức chủ quan mới gây ra ở họ những biến đổi nhất định. Tức là, những tác động vào con người không phải theo con đường trực tiếp một cách máy móc, mà theo con đường gián tiếp qua hoạt động của não, thông qua sự nhận thức và sự quyết định lựa chọn của người bị tác động. 1.2. Khái niệm tác động tâm lý Tác động tâm lý là một trong các hình thức tác động phức tạp. Xung quanh khái niệm này còn có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi một tác giả đưa ra 4 khái niệm tác động tâm lý đã nhìn nhận, nghiên cứu nó ở những góc độ khác nhau. Chẳng hạn: Tác giả L.V.Petrenco cho rằng: “Tác động tâm lý được hiểu là một quá trình, một hoạt động, chứ không đơn thuần chỉ là một vài cử chỉ, tác động đơn điệu. Hoạt động ấy thể hiện bằng các hành động và cách thức tác động với mục đích cụ thể khác nhau…” [10, tr.89]. Còn theo tác giả Trương Công Am, tác động tâm lý là hoạt động tích cực và chủ động của con người, biểu thị phương thức tác động của cá nhân hay của một bộ phận khác trên phương diện tâm lý nhằm làm chuyển biến, hình thành hay xóa bỏ những đặc điểm nào đó trong đời sống tâm lý của họ [2, tr.12]. Theo tác giả Đặng Thanh Nga thì tác động tâm lý được hiểu là sự tác động có tổ chức, kế hoạch, hệ thống của cá nhân hay một bộ phận người này đến một cá nhân hay một bộ phận người khác nhằm làm thay đổi, hình thành hay xoá bỏ những đặc điểm tâm lý nào đó của họ, để đạt được mục đích nhất định [8, tr.26]. Trên cơ sở các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi cho rằng: Tác động tâm lý là tác động vào tinh thần của người bị tác động, kết quả làm chuyển biến đời sống tâm lý của họ, thay đổi nhận thức dẫn đến thay đổi hành vi của người bị tác động, dẫn đến làm biến đổi phẩm chất tâm lý của con người. Tác động tâm lý khác với việc tạo ra áp lực hoặc gây ra sức ép về mặt tâm lý đối với người bị tác động. Tác động tâm lý cũng không giống như các hình thức tác động bằng các phương pháp bất hợp pháp như: Tra tấn, đánh đập, nhục hình,…Tác động tâm lý luôn có giới hạn trong phạm vi của sự giao tiếp tự giác. Bởi tác động tâm lý có một sức mạnh to lớn biến một con người từ thái cực này đến thái cực khác của cuộc sống. Bởi vậy, tác động tâm lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt, trong hoạt động bảo vệ pháp luật, tác động tâm lý được sử dụng trong nhiều giai đoạn điều tra mà điển hình là hoạt động hỏi cung bị can. 5 1.3. Khái niệm hỏi cung bị can Khi tiến hành giải quyết một vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành rất nhiều các hoạt động khác nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, mà hoạt động hỏi cung bị can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng. Hoạt động hỏi cung bị can có mục đích thu thập tin tức, tài liệu về vụ án, giúp cơ quan điều tra xác minh có hay không có sự kiện phạm tội, nếu có thì tính chất và mức độ như thế nào. Theo Điều 1 bản “Chế độ công tác xét hỏi bị can” thì hoạt động hỏi cung được hiểu là một biện pháp công khai, trực diện đối với bị can nhằm làm rõ toàn bộ sự thật về hành vi phạm tội của họ và đồng bọn; hoặc những vấn đề khác mà họ biết [20, tr.3]. Trong Từ điển Luật học, hỏi cung bị can được hiểu là hoạt động tố tụng do điều tra viên tiến hành khi có quyết định khởi tố bị can để lấy lời khai của người này về các tình tiết của các hành vi phạm tội [17, tr.371]. Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự do tác giả Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên có viết: “Hỏi cung là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can” [11, tr.295]. Theo quan điểm của tác giả Trương Công Am, thì hỏi cung bị can là hoạt động điều tra hình sự, do điều tra viên tiến hành bằng cách tác động trực tiếp vào tâm lý bị can nhằm mục đích thu được lời khai trung thực, đúng đắn và đầy đủ về hành vi của bị can và đồng bọn cũng như những tin tức cần thiết khác góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án [1, tr.11]. Theo tác giả Nguyễn Huy Thuật thì hoạt động hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra do những người theo luật định tiến hành nhằm mục đích thu thập, mô tả theo trình tự tố tụng hình sự lời khai của bị can về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và đồng phạm về những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm [13, tr.152]. Còn theo quan điểm của tác giả Bùi Kiên Điện thì hỏi cung bị can là biện pháp điều tra được tiến hành nhằm thu thập lời khai của bị can về các tình tiết có 6 liên quan đến vụ án, phục vụ công tác điều tra và xử lý đối với vụ án đó [4, tr.103]. Trong giáo trình Tâm lý học tư pháp do tác giả Đặng Thanh Nga chủ biên có viết: “Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử dụng các phương pháp tác động tâm lý đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương tiện biểu cảm khác như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa điều tra viên với bị can nhằm thu thập chứng cứ do họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự” [8, tr.162]. Trên thực tế, hoạt động hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bị can và điều tra viên trong khuôn khổ pháp luật. Theo Điều 19 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội”. Dưới góc độ tâm lý học, hỏi cung bị can được hiểu là quá trình nhận thức gián tiếp của cơ quan điều tra, điều tra viên về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp [16, tr.105]. Nói cách khác, hoạt động hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập tương đối. Quá trình khai thác thông tin và quá trình nhận thức đánh giá thông tin của đỉều tra viên [32, tr.46]. Như vậy, hỏi cung bị can là quá trình giao tiếp đặc biệt, ở đó diễn ra sự tương tác giữa điều tra viên và bị can, mà hai chủ thể tâm lý này có vị trí và quyền lợi trái ngược nhau. Tuy nhiên, với trọng trách chứng minh tội phạm của mình, điều tra viên có ưu thế chủ động sử dụng các phương pháp tác động tâm lý để bị can có sự nhận thức đúng đắn, từ đó có những lời khai trung thực, chính xác. 1.4. Khái niệm tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can Trong hoạt động hỏi cung bị can, việc huy động các nhân tố cần thiết để tác động tới bị can, giúp bị can vượt qua mọi trở ngại, khai báo đầy đủ, trung thực hành vi phạm tội của mình là nhiệm vụ cơ bản của các điều tra viên - được gọi là hoạt động tác động tâm lý bị can. 7 Tuy nhiên, tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can là một quá trình mà ở đó các điều tra viên đã lên kế hoạch, sử dụng đồng bộ các phương pháp, chiến thuật tác động tới bị can nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Do đó, nó không phải là những hoạt động tự phát, đơn lẻ mà là một quá trình đồng bộ, có sự phối hợp giữa các phương pháp và thủ thuật. Khi tiến hành tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên cần dựa vào hệ thống các kích thích và không có một khuôn mẫu chung nào cho từng bị can. Như vậy, tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can là hệ thống các tác động theo kế hoạch của cơ quan điều tra đối với bị can nhằm làm chuyển biến và dẫn đến thay đổi những hiện tượng tâm lý nào đó ở bị can, giúp bị can khai báo trung thực, đầy đủ và chính xác về sự việc phạm tội. [1, tr.129]. 2. Mục đích của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can 2.1. Tác động tâm lý nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu không chỉ ở trong giai đoạn điều tra mà trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với một vụ án hình sự. Cùng với các vật chứng, kết luận giám định, biên bản đối chất… thì lời khai của bị can là một nguồn chứng cứ quan trọng. Khi tiến hành tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên cần sử dụng các phương pháp tác động phù hợp với từng bị can nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Bởi vì, có bị can vì biết rõ hành vi phạm tội của mình nên đã sử dụng những thủ đoạn xảo quyệt nhằm lừa dối điều tra viên. Mặt khác, việc dựng lại nội dung sự việc phạm tội, các quan hệ phạm tội là một quá trình phức tạp của tư duy bị can. Bằng các tác động tâm lý tới bị can để tái lập chân lý về những sự kiện quá khứ, về quan hệ nhân quả và các mối liên hệ khác mà sự liên hệ này có thể giúp cho các quá trình tâm lý trở nên tích cực và đảm bảo sự đầy đủ, đúng đắn hơn. Nên khi xem xét lời khai của bị can, các điều tra viên cần thận trọng, khách quan. Và nếu điều tra viên sử dụng phương pháp tác động tâm lý tới bị can thích hợp, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu nhận thông tin đầy đủ và chính xác về các sự kiện cần thiết từ bị can. Ví dụ: Trong vụ án Năm Cam và đồng bọn thực hiện 8 hành vi phạm tội có tổ chức. Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, với nhiều bị can rất ngoan cố và liều lĩnh. Bị can Hải “bánh” là một trong số những bị can đó. Trong suốt 5 tháng 24 ngày ở trại tạm giam, Hải không hề khai báo gì. Hải biết với việc bị truy tố về tội gây rối trật tự công cộng thì thời hạn tạm giam không quá 6 tháng và không được gia hạn thêm. Bởi vậy, các điều tra quyết định tận dụng 6 ngày còn lại để buộc hắn phải khai. Mặc dù kế hoạch xét hỏi được xây dựng tỷ mỉ, nhưng qua 2 ngày trực diện với Hải "bánh", các điều tra viên vẫn phải đối mặt với thái độ "không nghe, không thấy, không biết gì về vụ giết Dung Hà…" của Hải “bánh”. Đến khi vận dụng tổng hợp các biện pháp nghiệp vụ để đấu tranh thì hắn kêu mệt và giả bệnh không thể làm việc được. Đây là trò “câu giờ” giết thời gian tạm giam mà Hải "bánh" cố tình gây ra. Do nắm bắt được diễn biến tâm lý của Hải “bánh” nên thiếu tá Nguyễn Văn Nên đã quyết định đẩy mạnh khâu cảm hóa giáo dục, đồng thời đột phá vào những mâu thuẫn của Hải "bánh" trong vụ giết Dung Hà. Nhớ lại lần tiếp nhận Hải "bánh", anh phát hiện ở dưới bụng của hắn có xăm hình phụ nữ lõa thể nằm sõng soài với một mũi tên xuyên qua ngực. Vì hình xăm là hình màu, đường nét khá công phu, tinh xảo nên chắc chắn bức hình ẩn chứa những điều uẩn khúc. Hơn nữa, từ khi về Trại Tiền Giang, Hải "bánh" chỉ có một bộ quần áo, không hề có đồ dùng cá nhân, trong buồng giam lại không có ai giúp đỡ nên Hải tỏ ra đơn độc. Qua nghiên cứu lai lịch, Thiếu tá Nên cùng cộng sự phát hiện Hải "bánh" là người rất thương con. Được sự đồng ý của lãnh đạo, ngay buổi sáng thứ 3 (kể từ khi Hải "bánh" chuyển về Trại tạm giam Tiền Giang), Thiếu tá Nên đã mang cho Hải 2 bộ quần áo, chăn màn, kem, bàn chải đánh răng và cho tiền mua thức ăn thêm. Khi thấy người cán bộ tặng quà cho mình, Hải "bánh" vội quỳ xuống đón nhận, hai tay run run và mắt ngấn lệ. Hải "bánh" cảm động thực sự trước sự đối xử nhân đạo, đầy tình người của cán bộ điều tra. Theo đúng luật, chỉ còn 72 tiếng đồng hồ nữa là phải trả tự do cho Hải "bánh". Điều đó càng hối thúc các điều tra viên phải ra sức đấu trí với Hải…Và cuối cùng, bị can đã quyết định khai báo về hành vi giết Dung Hà và hành vi phạm tội của đồng bọn. Đây là một chứng cứ 9 quan trọng để từ đó các điều tra viên mở rộng vụ án, thu thập chứng cứ về những hành vi phạm tội của Năm Cam và đồng bọn [29]. 2.2. Tác động tâm lý nhằm khắc phục những động cơ tiêu cực, khơi dậy những động cơ tích cực ở bị can tạo điều kiện cho việc xác lập chứng cứ được nhanh chóng, đúng đắn và khách quan Trong hoạt động hỏi cung bị can, giữa điều tra viên và bị can có sự đối lập về vị trí và quyền lợi. Điều tra viên là người đại diện cho pháp luật, có trách nhiệm chứng minh tội phạm nên muốn biết rõ về sự thật khách quan của vụ án. Còn bị can lại thường có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, có những bị can có thái độ thành khẩn khai báo nhưng không thể nhớ hết được các chi tiết của sự việc hoặc nhớ nhầm. Chính vì vậy, việc tác động tâm lý tới bị can trong những trường hợp này là vô cùng cần thiết để điều tra viên có thể thu thập được những thông tin khách quan, toàn diện về vụ án. 2.3. Tác động tâm lý kích thích sự tích cực hoạt động của bị can, giúp cho quá trình xác lập chứng cứ về sự việc phạm tội được chính xác đúng pháp luật Khi tiến hành điều tra một vụ án, hoạt động hỏi cung là hoạt động quan trọng và cơ bản. Hoạt động này là cần thiết và có thể tiến hành được với phần lớn các loại bị can. Do đó, trong quá trình hỏi cung, các điều tra viên cần sử dụng phương pháp tác động tâm lý tới bị can để họ có sự tích cực hoạt động, hạn chế những cảm xúc hay hoạt động tiêu cực trong quá trình hỏi cung. Từ đó, bị can có trạng thái tâm lý tích cực, bình tĩnh suy nghĩ, nhớ lại những tình tiết có liên quan đến vụ án, đến hành vi phạm tội của mình hay của đồng bọn. Đồng thời, việc sử dụng những biện pháp này sẽ tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng từ những tình tiết đã thu thập được. 3. Nguyên tắc của tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can 3.1. Tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật Đây là nguyên tắc cơ bản mà tất cả các hoạt động tố tụng phải tuân theo, gồm cả hoạt động tác động tâm lý trong hỏi cung bị can. Trước hết, tác động 10 tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Theo qui định tại Điều 6 Bộ luật tố tụng hình sự 2003: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”. Và khoản 4 Điều 131 Bộ luật này đã qui định: “Điều tra viên và kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo qui định tại Điều 298 và Điều 299 Bộ luật hình sự”. Đồng thời, nguyên tắc này cũng được qui định tại Điều 3 của Chế độ công tác xét hỏi bị can là: “Nghiêm cấm bức cung, mớm cung, dụ cung và mọi hình thức nhục hình, kể cả biến tướng”. Như vậy, trong hệ thống pháp luật hình sự đã có những điều khoản qui định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn của điều tra viên trong hoạt động hỏi cung bị can cũng như trong hoạt động tác động tâm lý bị can. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của điều tra viên, đồng thời cũng là để bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của bị can. 3.2. Chú ý tới đặc điểm tâm lý bị can Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng mà điều tra viên phải nắm vững khi tác động tâm lý tới bị can. Bởi vì, mỗi bị can có một đặc điểm tâm lý riêng biệt và đặc điểm tâm lý này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Tính cách, hoàn cảnh phạm tội, điều kiện phạm tội,…Do đó, khi thực hiện tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên cần phải sử dụng các phương pháp tác động tâm lý hết sức linh hoạt và đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Các phương pháp tác động tâm lý chỉ có hiệu quả khi áp dụng chúng điều tra viên phải thường xuyên tính đến mọi thay đổi của các phẩm chất nhân cách nói chung và các trạng thái tâm lý của bị can trong thời điểm bị tác động nói riêng [ 3, tr.109]. Do vậy, các điều tra viên cần nắm vững những động cơ tâm lý cản trở sự hợp tác và những yếu tâm lý tích cực có thể khai thác khi áp dụng tác động tâm lý đến bị can. 3.3. Đảm bảo tính tích cực tâm lý ở bị can Tính tích cực, tự giác của bị can luôn được coi là một yếu tố cần thiết, một điều kiện đặc biệt đảm bảo cho sự tác động tâm lý đạt hiệu quả cao. Khi 11 tiến hành tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, không những điều tra viên phải chủ động, mà bị can cũng phải có sự tích cực hoạt động tâm lý mới đảm bảo cho sự thu nhận các thông tin, phân tích đánh giá được tốt. Khi tác động tâm lý trong hỏi cung bị can, các điều tra viên tạo điều kiện, hướng dẫn bị can tích cực lựa chọn mục đích và phương thức hành động, giúp họ thấy được sự cần thiết phải làm thế này mà không nên làm thế khác. Tác giả A.V. Đulôp chỉ ra rằng: “Khi tiến hành tác động tâm lý, điều tra viên không chỉ chú ý phát hiện các trạng thái tâm lý của đối tượng, mà còn phải cố gắng khêu gợi cho được những trạng thái tâm lý tích cực” [5, tr.84]. Mặt khác, nguyên tắc này còn đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình hỏi cung bị can để thúc đẩy tạo ra các trạng thái hưng phấn của bị can trước những tác động của điều tra viên. 3.4. Nội dung và phương pháp tác động tâm lý phải phù hợp với từng bị can Nội dung của tác động tâm lý là những thông tin cần tác động đến nhận thức, tình cảm, ý chí… của bị can. Đó là những thông tin về vụ án, về hoạt động tội phạm của đối tượng và đồng bọn, những tài liệu cần thiết về nhân thân, về quan hệ gia đình, xã hội,…. những thông tin về dư luận xã hội, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, nội dung tác động phải phù hợp với từng bị can. Nghĩa là, những thông tin dùng để tác động tới bị can phải là những vấn đề mà bị can đang quan tâm. Khi bị can tiếp nhận được những thông tin này, họ sẽ phải suy nghĩ mà thay đổi nhận thức hay quan điểm, thay đổi trạng thái tâm lý hoặc có sự nỗ lực nhất định trong việc khai báo, trình bày với điều tra viên. Bên cạnh đó, điều tra viên phải sử dụng lượng thông tin đúng mức, không quá ít hoặc nhiều cả về nội dung và phương pháp tác động. Đồng thời, điều tra viên phải theo dõi, nắm bắt các phản ứng ngược chiều của bị can để từ đó có những điều chỉnh phù hợp. Khi tiến hành tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên có thể sử dụng nhiều phương pháp tác động khác nhau. Các phương pháp cơ bản và thường hay được sử dụng như: Phương pháp thuyết phục; Phương pháp truyền đạt thông tin; Phương pháp ám thị gián tiếp…Mỗi phương pháp tác động có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, áp dụng phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Để có 12 thể sử dụng các phương pháp tác động tâm lý đến bị can đạt hiệu quả cao, điều tra viên phải nắm vững nội dung, điều kiện, hoàn cảnh áp dụng cho mỗi phương pháp, đồng thời hiểu được các đặc điểm tâm lý của bị can. Ở mỗi giai đoạn trong quá trình tác động, điều tra viên cần xem xét, đánh giá tác dụng của từng phương pháp nhằm điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến tâm lý ở từng bị can. 3.5. Chú ý những điều kiện, hoàn cảnh tiến hành tác động tâm lý Điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài luôn luôn là cơ sở kích thích sự hưng phấn của quá trình nhận thức ở bị can. Những yếu tố này có thể tạo ra thuận lợi hay cản trở việc tác động của cơ quan điều tra cũng như khả năng tiếp thu thông tin của bị can. Điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài có ảnh hưởng tới tác động tâm lý trong quá trình điều tra vụ án bao gồm: Thời gian; Chế độ giam giữ; Số lượng người tham gia trong quá trình tác động tâm lý….Các yếu tố này có thể tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình tiến hành tác động tâm lý tới bị can. Vì vậy, trong quá trình điều tra vụ án, đặc biệt là trong khi hỏi cung bị can, điều tra viên cần phân tích và chủ động khai thác các yếu tố có lợi, hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố bất lợi làm giảm hiệu quả của tác động tâm lý tới bị can. 3.6. Điều tra viên là người có phẩm chất chính trị tư tưởng, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ Điều tra viên là người đóng vai trò chủ đạo, điều khiển trong quá trình tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. Hoạt động này thành công hay thất bại, có được hiệu quả cao hay không là phụ thuộc rất nhiều vào điều tra viên. Do đó, để thực hiện được hoạt động này có kết quả thì đòi hỏi điều tra viên có kiến thức sâu rộng không chỉ ở lĩnh vực chuyên môn, mà cần có bản lĩnh vững vàng, có sự hiểu biết xã hội và đặc biệt có khả năng sử dụng các phương pháp tác động tâm lý một cách hợp lý. 13 CHƯƠNG II CƠ SỞ CỦA TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN 1. Đặc điểm tâm lý của điều tra viên và đặc điểm tâm lý của bị can trong tác động tâm lý 1.1. Đặc điểm tâm lý của điều tra viên Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can được thực hiện chủ yếu bởi điều tra viên. Trong hoạt động này, điều tra viên nắm vai trò chủ đạo, quyết định tới sự thành công hay thất bại. Tuy nhiên với tư cách là một chủ thể cụ thể, điều tra viên thường có một số đặc điểm khi tiến hành tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can. Những đặc điểm tâm lý đó là: - Điều tra viên thường có trạng thái tâm lý căng thẳng. Đây là một đặc điểm tâm lý thường thấy ở các điều tra viên khi tiến hành hỏi cung bị can nói riêng, trong khi giải quyết vụ án nói chung. Bởi vì, trong mỗi buổi hỏi cung thực sự là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa điều tra viên và bị can. Điều tra viên có mục đích tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm thông qua lời khai của bị can. Còn bị can lại ngoan cố che giấu hành vi phạm tội của mình. Đồng thời, trong quá trình hỏi cung, điều tra viên luôn phải huy động tối đa khả năng tri giác, trí nhớ, ý chí, … của mình để thu thập khối lượng thông tin lớn về vụ án. Mặt khác, trong quá trình tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên cần phải quan sát đánh giá thái độ của bị can để có thể điều chỉnh được phương pháp tác động cho phù hợp. - Khi hỏi cung bị can, điều tra viên thường có trạng thái bão hoà cảm xúc. Đây là trạng thái tâm lý của con người bị mất tính nhạy cảm đối với kích thích, mất khả năng phản ứng linh hoạt. Nguyên nhân của sự bão hoà cảm xúc này ở điều tra viên là do: + Điều tra viên có sự căng thẳng tâm lý. Điều tra viên phải giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ có liên quan đến việc tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tiếp xúc với bị can như đánh giá lời khai, sàng lọc tài liệu hay nhanh chóng 14 ra quyết định có liên quan tới hoạt động ngăn chặn, bắt giữ…Do đó, điều tra viên luôn ở trong tình trạng nỗ lực ý chí cao nhất với tinh thần trách nhiệm cao. + Điều tra viên thường xuyên tiếp xúc đối với các sự kiện phạm tội, tiếp xúc với người phạm tội. Đó có thể là những người lưu manh, xảo quyệt, côn đồ, hung hãn…. Hay do điều tra viên thường xuyên tri giác hậu quả của tội phạm như sự đau đớn về thể xác của nạn nhân, trạng thái tinh thần bị hoảng loạn của họ. Nếu điều tra viên gặp phải trạng thái bão hoà cảm xúc, thì họ sẽ làm việc máy móc, không hưng phấn. Bởi vậy, tất yếu là trạng thái tâm lý này của điều tra viên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động hỏi cung bị can cũng như hoạt động nhận thức của điều tra viên đối với vụ án. Vì vậy, trong trường hợp này, điều tra viên cần được nghỉ ngơi, thay đổi công việc để vượt lên kiểm soát hoạt động của bản thân, trở lại trạng thái cân bằng tâm lý. - Điều tra viên thường có tâm thế định hướng vào những thông tin phù hợp với dự kiến và mong muốn của mình trong quá trình điều tra vụ án. Với những thông tin ban đầu thu thập được về sự kiện phạm tội, các điều tra viên thường xây dựng mô hình tâm lý (bằng hình ảnh, bằng biểu tượng,…) về diễn biến của hành vi phạm tội cũng như những thông tin cần phải thu thập. Chính vì vậy, trước mỗi buổi hỏi cung, điều tra viên thường có kế hoạch giải quyết một nhiệm vụ, một vấn đề nào đó liên quan đến vụ án. Từ đó, điều tra viên có thể chủ động sàng lọc các thông tin thu được, xây dựng hệ thống các câu hỏi để bị can khó có thể khai nhỏ giọt, dài dòng. Tuy nhiên, tâm thế này của điều tra viên có thể dẫn đến những hạn chế sau: + Điều tra viên có thể kém tinh nhạy với những thông tin mới bị can khai, mà những thông tin này không liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, những thông tin này có thể có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án. + Tâm thế này của điều tra viên có thể ảnh hưởng đến không khí của buổi hỏi cung. Khi bị tâm thế này chi phối, điều tra viên thường có xu hướng chờ đợi những thông tin mình mong muốn. Tuy nhiên bị can lại nói tới những thông tin mà điều tra viên không quan tâm hay không quan trọng. Do đó, điều tra viên có 15 thể có những hành động hay cử chỉ làm cho bị can sợ sệt, hẫng hụt hay tỏ ra ngang bướng trong buổi hỏi cung. Ngược lại, nếu điều tra viên nhận được thông tin mà mình mong muốn, thì thường có thái độ hài lòng, thoả mãn. Nếu bị can nhận thấy được thái độ này của điều tra viên, thì họ sẽ có sự tính toán trong lời khai nhằm dẫn dắt tư duy của điều tra viên. Do vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can, điều tra viên tuyệt đối không để lộ thái độ của mình cho bị can nhận thấy. - Điều tra viên có tâm thế khai thác thông tin buộc tội bị can. Điều tra viên thường có tâm thế này là do: + Bị can là người đã bị cơ quan điều tra khởi tố. Việc làm này của cơ quan điều tra là có cơ sở. Bởi vậy, điều tra viên thường có ý nghĩ rằng hỏi cung bị can là hỏi cung người có tội. + Khi hỏi cung bị can, giữa điều tra viên và bị can có sự trái ngược nhau về quyền lợi và vị thế. Điều tra viên là đại diện của pháp luật, có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Còn bị can lại thường có thái độ che giấu hành vi phạm tội của mình. Xuất phát từ cơ sở đó, điều tra viên thường hay có tâm thế hướng vào việc khai thác những thông tin buộc tội bị can. Do đó, những thông tin có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm của bị can thường ít được điều tra viên quan tâm. 1.2. Đặc điểm tâm lý của bị can Theo Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự thì “Bị can là người đã bị khởi tố về mặt hình sự”. Đó là những người có hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến khách thể nào đó được pháp luật hình sự bảo vệ, bị cơ quan điều tra khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết để tiến hành điều tra. Tuy nhiên, bị can cũng là con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý nhất định. Và những đặc điểm tâm lý này cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Những yếu tố chi phối tới đặc điểm tâm lý của bị can gồm: - Tính chất của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị can thường để lại hậu quả nhất định. Hành vi phạm tội của bị can xâm hại đến khách thể nào, với lỗi cố ý hay vô ý, …đều được ghi dấu trong tâm lý cũng như ảnh hưởng đến thái độ, trạng thái tâm lý của họ. Bị can sẽ thành khẩn khai báo nếu họ phạm tội 16 trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, với lỗi vô ý, khung hình phạt thấp, …vì họ nhận thức được rằng họ có cơ hội được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Ngược lại, nếu bị can thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng,…thì bị can sẽ ngoan cố, nhất định không chịu khai báo. Thực tế cho thấy, hỏi cung bị can trong các vụ án buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý thường gặp khó khăn. Bởi vì, khung hình phạt của loại tội này rất nghiêm khắc nên bị can thường khai báo ngoan cố, nhỏ giọt. Ví dụ, trong vụ án bị can Trịnh Nguyên Thuỷ và đồng bọn phạm tội sản xuất và buôn bán trái phép chất ma tuý thì nếu tính cả giai đoạn thứ nhất của vụ án, thì đây đã là ngày thứ mấy trăm các anh phải "lặn ngụp" với các đối tượng ma túy - những người vốn dĩ liều lĩnh, ngoan cố và có không ít thủ đoạn đối phó như chối tội, gạ gẫm hối lộ, "câu giờ" hỏi cung, nghe ngóng…[30]. Hay đối với những vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, do tính chất nghiêm trọng của khách thể thì 81,3% bị can ngoan cố không chịu khai báo [2, tr.94]. Bởi vậy, khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can, các điều tra viên phải linh hoạt, xác định được những yếu tố chi phối đến đặc điểm tâm lý tiêu cực của bị can. - Tình huống bị bắt và bị giam giữ. Đây là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến tâm lý của bị can. Bị can bị bắt ở đâu, vào thời điểm nào, lúc đó bị can đang thực hiện tội phạm hay đã thực hiện xong…Sau khi bị bắt, bị can bị giam giữ ở đâu, chế độ giam giữ ra sao, …tất cả đều tác động tới tâm lý của bị can. Những bị can bị bắt trong trường hợp quả tang, bị bắt trong trường hợp truy nã, …đều có đặc điểm tâm lý đặc trưng. Bởi vì, những yếu tố này đều là những biến cố lớn trong cuộc đời bị can. - Những chứng cứ chứng minh hoạt động tội phạm của bị can mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Những chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được về hành vi pham tội của bị can cũng có tác động rất lớn đến tâm lý của bị can. Trong hoạt động điều tra nói chung và trong hoạt động hỏi cung nói riêng, trách nhiệm của điều tra viên là thu thập chứng cứ, chứng minh hoạt động tội phạm của bị can. Tuy nhiên, nếu bị can nhận thức được rằng tiến trình điều tra của các 17 điều tra viên đang gặp khó khăn thì sẽ không chịu khai báo hoặc khai báo nhỏ giọt. Nhưng ngược lại, nếu điều tra viên đã thu thập được đầy đủ chứng cứ buộc tội bị can thì họ sẽ thành khẩn khai báo. Ví dụ, trong vụ án phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý của Nguyễn Văn Tám và đồng bọn. Bị can Nguyễn Văn Quyết biết rằng, cơ quan điều tra còn thiếu thông tin về hành vi phạm tội của mình nên suốt hai tháng đầu đã thách thức và trả lời với điều tra viên rằng: “Các ông bắt tôi mà không có căn cứ, đố các ông làm gì được tôi. Còn những lời khai của đứa khác, tôi không tin” [24]. - Các chỗ dựa bên ngoài của bị can. Đây là một trong những yểu tố chi phối sâu sắc tới đặc điểm tâm lý của bị can. Đó là những mối quan hệ cá nhân được hình thành trước đây khi bị can còn tự do ngoài xã hội: Quan hệ gia đình, thân quen, ô dù, cũng có thể không có mối quan hệ nào nhưng bị can vẫn hi vọng có thể mua chuộc điều tra viên hoặc cán bộ có quyền để họ can thiệp. Đặc điểm này đặc biệt được thể hiện rõ ở các bị can phạm tội tham nhũng, phạm tội kinh tế, …Ví dụ, trong vụ án Năm Cam, trong suốt thời gian gần 7 tháng, bị can Hải “bánh” luôn tin vào lời hứa của Năm Cam trước đó: “Nếu có chuyện gì dính dáng đến pháp luật anh Năm sẽ lo”, nên Hải “bánh” kiên quyết không khai báo. Nhưng sau đó, Hải biết rằng, anh Năm không lo cho mình được, mà còn nói rằng : “Anh không dính dáng gì đến việc này, chú mày làm được thì chú mày tự lo”. Lúc này, Hải hết hi vọng vào sự trợ giúp của các thế lực bên ngoài. Lợi dụng tình thế lúc này, điều tra viên đã tiến hành tác động tâm lý đến Hải và làm cho Hải chuyển đổi thái độ khai báo [29]. Chính vì vậy, khi tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, điều tra viên cần đập tan thái độ ảo tưởng, hi vọng của bị can vào những mối quan hệ bên ngoài. Đồng thời, trong từng trường hợp cụ thể, điều tra viên có thể sử dụng các mối quan hệ cá nhân tích cực của bị can để tác động đến họ làm chuyển biến thái độ khai báo của bị can. - Đặc điểm nhân cách của bị can. Hệ thống các quan niệm, lí tưởng sống, khí chất, tính cách, và cảm xúc của bị can cũng có ảnh hưởng tới đặc điểm tâm 18 lý của họ. Mỗi bị can có đặc điểm nhân cách khác nhau. Có bị can có khí chất ưu tư thì thường có tâm trạng lo sợ, thất vọng cho rằng mình không còn tương lai, cuộc đời như vậy là chấm dứt. Kết quả điều tra cho thấy 25,8 % các bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia khai báo tốt do khêu gợi tình cảm đối với những người thân trong gia đình và 31,5% số bị can không khai báo là do động cơ này chi phối [2, tr.207]. Trong vụ án phạm tội ma tuý của Nguyễn Văn Tám và đồng bọn, bị can Đinh Thị Dung là người đặc biệt cứng rắn, nhất định không khai báo sợ liên lụy đến gia đình. Nhưng bị can là người rất thương con. Hiểu được điều này, nên điều tra viên đã nói với bị can Đinh Thị Dung: “Chị có thương ba con của chị, thương bố mẹ hai bên không? Tôi xin phổ biến để chị biết, hành vi mua bán vận chuyển hêrôin của chị, nếu chị ra toà thuộc khung hình phạt nào chắc chị đã rõ. Vì thế chị nên nghĩ đến các con mà thành khẩn khai báo để sớm về nuôi các cháu…”. Không ngờ ngay sau khi nghe điều tra viên nói thế, Đinh Thị Dung bưng mặt khóc to, gọi tên các con và buổi chiều hôm ấy Dung bắt đầu khai ra hành vi buôn bán 31 bánh hêrôin bằng 10,850g. - Kinh nghiệm tiếp xúc với cơ quan điều tra. Thực tế cho thấy những bị can có tiền án, tiền sự, những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, thường có thái độ bàng quan, trâng tráo thậm chí là thách thức điều tra viên. Còn những đối tượng phạm tội lần đầu, thường không làm chủ được hành vi của mình nên dễ dàng khai báo hơn. - Thái độ, phong cách, năng lực hỏi cung bị can của điều tra viên. Trong điều kiện bị giam giữ, bị can luôn ở trong tâm thế cảnh giác. Khi tiếp xúc với điều tra viên, bị can luôn ở trong tình trạng quan sát, tìm hiểu đánh giá phong cách và trình độ của điều tra viên. Từ đó, bị can có thể điều chỉnh được thái độ cũng như lời khai của họ. Do đó, các điều tra viên cần rèn luyện cho mình phong cách đàng hoàng, thái độ xét hỏi nghiêm túc, trôi chảy, đưa ra chứng cứ đúng lúc và phù hợp với trình độ của bị can. Theo số liệu khảo sát thực tế cho thấy, đối 19 với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì có tới 18,3 % số bị can khai báo thiếu tích cực do cảm thấy bị xúc phạm trong khi hỏi cung [2, tr.208]. Do các yếu tố trên đã chi phối rất nhiều đến tâm lý của bị can nên trong nhiều trường hợp khi tiếp xúc với điều tra viên, bị can thường có đặc điểm tâm lý sau đây: - Bị can thường có tâm trạng hoang mang, lo lắng, tâm lý không ổn định. Theo kết quả trưng cầu ý kiến của 103 điều tra viên thì có 76,4 % số điều tra viên được hỏi cho rằng, biểu hiện này là phổ biến nhất [16, tr.111]. Ở những bị can có trình độ, phạm tội lần đầu, phạm tội với lỗi vô ý,… thường nhận thức được sai lầm của họ nên họ cảm thấy rất ân hận và mong muốn được sửa chữa sai lầm của mình. Nhưng cũng có không ít bị can lại bi quan, chán nản cho rằng mình không có tương lai, nên họ có thái độ bất cần, phó mặc cho số phận. Trong hoàn cảnh khó khăn, mọi suy nghĩ, hành động của bị can luôn diễn ra trong trạng thái tâm lý tiêu cực. Dù rơi vào trạng thái nào, bị can cũng đều bị mất ổn định về tâm lý, giảm sút khả năng tự kiểm soát thái độ và hành vi của mình. Các trạng thái tâm lý tiêu cực này cũng gây ra nhiều trở ngại cho việc tiếp xúc tâm lý giữa điều tra viên và bị can trong quá trình hỏi cung, làm giảm hiệu quả của các biện pháp tác động tâm lý mà điều tra viên áp dụng đối với họ. Ví dụ: Khi tiến hành hỏi cung bị can Nguyễn Văn Tám, phạm tội mua bán trái phép các chất ma tuý, các điều tra viên cho biết có hai giai đoạn vất vả nhất. Giai đoạn lúc Tám bị bắt khoảng 1 tháng, tư tưởng Tám lúc đó rất nặng nề. Sau một thời gian dài kiên quyết không khai, một hôm trong buổi hỏi cung Tám lại khai rất nhiều. Bằng linh cảm nghề nghiệp, ngay lập tức điều tra viên trở lại phòng giam. Khi tới nơi thì phát hiện Tám đã xé áo bện thành dây treo lên song sắt cửa sổ định tự sát [24]. Trong quá trình tác động tâm lý tới bị can, điều tra viên cần chú ý, xem xét ảnh hưởng của các trạng thái tâm lý tiêu cực này đến hành động khai báo của bị can. Một mặt, điều tra viên nên lợi dụng sự hoang mang dao động, thúc đẩy bị can nhanh chóng đi đến quyết định khai báo. Mặt khác, điều tra viên cần tìm cách để tác động tâm lý tới bị can đạt hiệu quả nhất, tạo cho bị can trạng thái 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan