Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động của yếu tố phương tây đến cuộc minh trị duy tân ở nhật bản...

Tài liệu Tác động của yếu tố phương tây đến cuộc minh trị duy tân ở nhật bản

.DOCX
122
182
60

Mô tả:

Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN SP. LỊCH SỬ ------ Đề tài TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ PHƯƠNG TÂY ĐẾN CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN Ở NHẬT BẢN Luận văn tốt nghiệp Nghành: SƯ PHẠM LỊCH SỬ Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Ths. Trần Minh Thuận Phan Văn Bình Mã số SV: 6095912 Lớp: Sư phạm Lịch Sử Cần Thơ, tháng 5/2013 Luận văn tốt nghiệp 1 SVTH: Phan Văn Bình KKeett-nnooii..ccoomm kkhhoo ttaaii lliiee Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản LỜI CẢM ƠN Đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thành là thành quả của không chỉ cá nhân tôi. Mà nó là sự giúp đỡ đóng góp ý kiến từ nhiều người. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến những người sau: Trước tiên là thầy Trần Minh Thuận, người trực tiếp hướng dẫn tôi, giúp tôi những tài liệu cần thiết để hoàn thiện bản đề cương chi tiết và đánh giá sửa chửa toàn bộ đề tài của tôi. Thứ 2 là cô Phạm Thị Phượng Linh, người đã giúp tôi rất nhiều trong việc đưa ra ý tưởng tên đề tài nghiên cứu, chỉ cho tôi những hướng đi chủ yếu để viết đề tài. Thứ 3 là bạn Đặng Minh Hoàng, người đã có những nhận xét và góp ý rất hay khi đọc bản thảo đề tài nghiên cứu của tôi. Thứ 4 là quý thầy cô trong Hội đồng phản biện đề tài, những người nhận xét đánh giá và góp ý cuối cùng giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Cuối cùng là các cán bộ Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ, đã giúp tôi về mặt tài liệu để hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu. Chân thành cảm ơn tất cả! Luận văn tốt nghiệp 2 SVTH: Phan Văn Bình MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU TRANG 1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................................4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................................7 3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................................10 4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................. 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................8 6. Bố cục đề tài...........................................................................................................................8 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Khái quát về Minh Trị Duy tân 1. Về thuật ngữ Minh Trị Duy Tân.........................................................................................11 2. Vấn đề phân kỳ của Minh Trị Duy Tân.............................................................................15 3. Các giai đoạn của Minh Trị Duy Tân................................................................................18 3.1. Giai đoạn 1: Từ “Tôn vương nhương di” đến “Tôn vương đảo Mạc”.....................18 3.1.1. Về chính trị.....................................................................................................19 3.1.2. Về mặt kinh tế - xã hội...................................................................................19 3.2. Giai đoạn 2: Tiến hành các cuộc cải cách, phá bỏ cái cũ, xác lập cái mới...............21 3.2.1. Về chính trị.....................................................................................................22 3.2.2. Về đối ngoại...................................................................................................22 3.2.3. Về mặt kinh tế................................................................................................23 3.2.4. Về văn hóa – xã hội........................................................................................23 3.3. Giai đoạn 3: Hoàn thiện, củng cố cái mới – hoàn thành sự nghiệp Duy tân............24 3.3.1. Về chính trị.....................................................................................................22 3.3.2. Về kinh tế.......................................................................................................24 Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản 3.3.3. Về đối ngoại................................................................................................... 25 Chương 2: Tác động của yếu tố phương tây đến Minh Trị Duy tân 1. Nền tảng tư tưởng cho một cuộc Duy tân.........................................................................25 1.1 Quá trình thoát khỏi hệ tư tưởng cũ của Phương Đông.............................................26 1.2 Tiếp thu văn minh Phương Tây - Sự xuất hiện các hệ tư tưởng mới........................30 1.2.1. Những tiếp xúc đầu tiên với phương Tây......................................................30 1.2.2. sự ra đời của các học thuyết, các hệ phái tư tưởng mới................................31 1.2.2.1. Phái Hà Lan học.........................................................................................29 1.2.2.2. Học thuyết “Tâm học thành thị”..............................................................35 2. Mô hình nhà nước theo kiểu phương Tây.........................................................................36 2.1. Hoàn thiện về mặt tư tưởng.......................................................................................36 2.2. Giới lãnh đạo Nhật Bản.............................................................................................43 2.2.1. Saigo Takamori với Minh Trị Duy tân...........................................................44 2.2.2. Okubo Toshimichi với Minh Trị Duy tân......................................................45 2.2.3. Kido Takayoshi với Minh Trị Duy tân.......................................................... 48 2.3 Mô hình nhà nước tiên tiến theo kiểu Phương Tây................................................... 49 2.3.1. Những cải cách về hành chính.......................................................................49 2.3.2. Hiện đại hóa quân đội theo mô hình phương Tây.........................................53 2.3.3. Phong trào tự do dân quyền và Hiến pháp Minh Trị.....................................54 3. Nền kinh tế - xã hội tiến bộ................................................................................................ 57 3.1 Nền tảng kinh tế..........................................................................................................57 3.1.1. cải cách địa tô.................................................................................................59 3.1.2. Cải cách công nghiệp và tài chính................................................................59 3.2 Xã hội Nhật Bản......................................................................................................... 63 4. Nền văn hóa – giáo dục tiên tiến mang màu sắc phương Tây........................................63 4.1 Các cuộc cải cách........................................................................................................63 4.2 Văn minh khai hoá, học tập Phương Tây...................................................................64 4.3. Vai trò sứ đoàn Iwakura đối với sự nghiệp Duy tân................................................66 4.4. Vai trò chuyên gia nước ngoài với sự nghiệp Duy tân Nhật Bản.............................68 Chương 3: con đường đi tới "phú quốc cường binh" của Nhật Bản 1. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.........................................................72 2. Sửa đổi hiệp ước và tăng cường vị thế châu Á...............................................................74 2.1. Sửa đổi Hiệp ước bất bình đẳng..............................................................................74 2.2. Tăng cường vị thế ở châu Á......................................................................................76 PHẦN 3: KẾT LUẬN 1. Một số nhận xét...........................................................................................................80 1.1 Nguyên nhân của sự thành công...............................................................................81 1.2 Những tích cực và hạn chế của cuộc Minh Trị Duy tân...........................................83 1.2.1. Về mặt tích cực...............................................................................................84 1.2.2. Về mặt hạn chế...............................................................................................87 1.3. Ý nghĩa quốc tế của Minh Trị Duy tân......................................................................90 2. Minh Trị Duy tân trong bối cảnh phong trào Duy tân cải cách ở châu Á nửa cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20...........................................................................................................91 PHỤ LỤC....................................................................................................106 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................111 Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cách đây hơn một trăm năm, dưới tác động của cuộc Minh Trị Duy Tân, Phan Bội Châu đã phát động phong trào Đông Du, dưa thanh niên qua du học ở Nhật, nhằm mục đích cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và “Duy tân” đất nước. Phan Bội Châu viết về Minh Trị Duy Tân như sau: “ Nước Nhật Bản trước khi duy tân, các liệt cường Âu – Mĩ cũng đã từng chú mục vào ba hòn đảo đó. Lúc bấy giờ trong đám chí sĩ Cần Vương, những kẻ ngoan cố cứ một mực chủ trương khóa của không phải là ít. May nhờ có các bậc hiền sĩ như Cát – điền Tùng – lâm (Yoshida Shoin), Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Hậu Đằng Tượng Thứ Lan (Goto Shojiro) lờn tiếng hô to việc thủ xướng học tập phương Tây, cho việc bài xích người Tây là thất sách, cho việc mở mang cửa biển là thức thời. Do đó tân học lên cao, tâm trí thức tiến mạnh, làm thành cái cơ sở cho việc Duy tân, đến nay họ đã phú cường hơn cả Âu – Mĩ…” (1) Đến những năm 1930, cụ Đào Trinh Nhất đã soạn thảo cuốn “Nước Nhựt Bổn – 30 năm Duy tân” với mục đích cỗ vũ Việt Nam học tập Nhật Bản để tự cường và xây dựng đất nước hung mạnh. Ông viết: “ Nhựt Bổn Duy tân tự cường thật là một hiện tượng lạ lùng quái gở ở trong lịch sử thế giới nhơn loại, xưa nay chưa hề thấy có. Cái hiện tượng ấy phát ra một cách không ngờ, một cách đáng sợ, người ta ở đâu xa xôi ngàn muôn dặm, biển cách non ngăn còn phải tìm tòi xem xét cho biết thấy, nữa là mình ở đây gần một bên…. Thiệt vậy, giữa lúc những nước miền Đông nầy, điều mê muội đắm chìm, làm con cá nằm giữa thớt đao chinh phục của Tây phương, duy có một mình Nhựt Bổn vùng dậy quật cường và chống ngăn được làn sống xâm lược đang ào ào từ Tây sang (1)Phan Bội Châu toàn tập, Tập 2, Nxb Thuận Hóa, 1990. Đông, chỉ tràng tới mé biển Trung Quốc và xóm đảo Nam Dương là hết. Mà họ quật cường mau lẹ quá chừng: trên con đường văn minh hiện thời họ dung ruổi vùn vụt như bay, trong ngoài ba bốn chục năm đuổi kịp Âu – Mĩ đã đi ba bốn thế kỷ” (1) Do đâu mà Nhật Bản có được những điều như vừa nói ở trên? Tất cả cũng nhờ việc học tập phưong Tây, tiếp thu văn minh phương Tây như Phan Bội Châu và Đào Trinh Nhất đã nói. Nhưng họ đã học tập như thế nào? tiếp thu như thế nào? yếu tố phương Tây có tác động ra sao đối với sự nghiệp Minh Trị Duy Tân ở Nhât Bản? Theo GS,TS Nguyễn Tiến Lực, trưởng bộ môn Nhật Bản học trường Đại học KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh thì: “Ở Việt Nam, Minh Trị Duy Tân và những vấn đề của nó vẫn chưa được nghiên cứu một cách đúng mức. mặc dù Minh Trị Duy Tân được đề cập trong các bộ giáo trình lịch sử thế giớ bậc đại học, cao đẳng và trong các cuốn lịch sử Nhật Bản nhưng có thể thấy, ở Việt Nam chưa có một công trình nào chuyên (2) nghiên cứu sâu và đầy đủ về Minh Trị Duy Tân cả” . Nhằm góp một phần nhỏ giải quyết những vấn đề nói trên, đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản” cho đề tài nghiên cứu của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Về cuộc Minh Trị Duy Tân, ở Nhật Bản, trên thế gới cũng như ở Việt Nam có rất Nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Ở Nhật Bản, trong chuyên khảo nổi tiếng “Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản”, học giả Michio Morishima có những nhận xét độc đáo về cải cách Minh Trị: “ Ở một mức độ đáng kể, tôi hiểu Cách mạng Minh Trị khác với đa số các sử gia Nhật Bản, nhưng lại giống nhiều với các sử gia phương Tây, mặc dù trọng tâm của sự luận giải có khác nhau. Ở một chừng mực nào đó, các quan điểm được chấp nhận rộng rãi ở Nhật Bản đi theo học thuyết lịch sử Mác, (1) Đào Trinh Nhất, Nhật Bổn Duy tân 30 năm, Nxb. Đắc Lập, Huế, 1936. (2) Nguyễn Tiến Lực, Minh Trị Duy tân và Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2010. Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản nhưng theo tôi, lịch sử Nhật Bản cận đại quá độc đáo nên khó có thể giải thích được một cách thích hợp bằng học thuyết Mác-xit”. Đúng vậy, Minh Trị Duy Tân là một sự độc đáo khó có thể giải thích được. Đó là sự kết hợp độc đáo giữa “Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản”. ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu về Minh Trị Duy Tân và các vấn đề của nó. Ở đây tôi chỉ xin được liệt kê ra để mọi người tìm hiểu (tôi chỉ liệt kê những tác phẩm dược dịch sang tiếng Việt). đó là các tác phẩm như: Fukuzawa Yukichi, Phúc Ông Tự Truyện, Phạm Thu Giang dịch, NXB Thế Giới, 2005. Ishida Kazuyoshi, Nhật Bản Tư Tưởng Sử, tủ sách Kim Văn, Uỷ ban dịch thuật, Sài Gòn, 2005. Mitani Hiroshi, Cuộc Cách Mạng Minh Trị: sự thay đổi cơ cấu, những tổn thất và vai trò của chủ nghĩa dân tộc, nghiên cứu Nhật Bản, số 2, 1996. Nitobe Inazo (Nguyễn Hải Hoành dịch), Võ sĩ đạo – Linh hồn Nhật Bản, NXB Công an Nhân dân, 2008….Và còn nhiều tác phẩm khác. Hiện nay ở Nhật Bản có cả một Minh Trị Duy Tân Sử học hội, tập hợp đông đảo các nhà nghiên cứu từ các trường đại học và viện nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề của Minh Trị Duy Tân. Còn trên thế gới, Minh Trị Duy Tân là một vấn đề được thế giới quan tâm và nghiên cứu rất nhiều. Tuy nhiên, số công trình được dịch sang tiếng Việt còn rất ít, làm trở ngại việc nghiên cứu. Một trong số ít đó có thể kể đến như: R.H.P Manson và J.G Caiger, Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sỹ dịch, NXB Lao Động, Hà Nội, 2003. Đặc biệt, Sterling Seagarve và Peggy Seagarve, Bí mật triều Yamato, Lê Như dịch, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2003. Đây là một khám phá mới về Minh Trị Duy Tân…. Do hạn chế về mặt ngôn ngữ, tôi chỉ liệt kê một số công trình viết bằng tiếng Anh để mọi người có thể tìm hiểu. Điển hình như: Benson John & Matsumura Takao, 2001, Japan 1868 – 1945, from Isolation to Occupation, Longman Press. Burks, Ardath W Umetani Norubo, 1990, The mordenizers, Overseas Student and Meiji Japan , shibunkaku, Tokyo. Lone Steward, 2000, Empire and Politics in Meiji Japan, Mac Millan press. Tanaka Yasuhiro, 1995, Autonomy of the state: the shif – ing nature of the Meiji Bureaucrats, 1868 – 1912, Wiscosin Maidison University Press…. Và còn nhiều tác phẩm khác nửa. Còn ở Việt Nam, ngay từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Minh Trị Duy Tân đã được nhiều học giả và nhiều trí thức đương thời nghiên cứu như: Nguyễn Trường Tộ trong các bản điều trần của mình. Nguyễn Lộ Trạch trong các tác phẩm của mình như: “Thời vụ sách”, “Thiên hạ đại thế luận”. Phan Bội Châu với các trước tác của mình, đặc biệt là Đào Trinh Nhất với tác phẩm “Nước Nhựt Bổn – 30 năm Duy tân” của mình, như tôi đã trình bày ở phần trên. Hiện nay thì ở Việt Nam có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Minh Trị Duy Tân, nhưng như đã nói ở trên, “ Ở Việt Nam, Minh Trị Duy Tân và những vấn đề của nó vẫn chư được nghiên cứu một cách đúng mức. mặc dù Minh Trị Duy Tân được đề cập trong các bộ giáo trình lịch sử thế giớ bậc đại học, cao đẳng và trong các cuốn lịch sử Nhật Bản nhưng có thể thấy, ở Việt Nam chưa có một công trình nào . chuyên nghiên cứu sâu và đầy đủ về Minh Trị Duy Tân cả” Những tác phẩm nổi tiếng phải kể đến như: Lịch sử Nhật Bản của Lê Văn Quang, Lịch sử Nhật Bản của Phan Ngọc Liên, gần đây là cuốn Lịch sử Nhật Bản của Nguyễn Quốc Hùng, chuyên về giai đoạn cận đại có cuốn Nhật Bản Cận Đại Sử của Vĩnh Sính, Minh Trị Duy Tân – Cải cách hay cách mạng, các quan hệ chính trị ở phương Đông: Lịch sử và hiện tại của Hoàng Văn Việt, NXB Đại học Quốc qia TP. Hồ Chí Minh, 2007. Và trong các bộ giáo trình Lịch sử thế giới cận đại như của Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng.... Nói chung các tác giả điều coi Minh Trị Duy Tân như là cuộc cách mạng tư sản không triệt để, hay cuộc cách mạng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, mới đây nhất, tác phẩm Minh Trị Duy Tân và Việt Nam của GS,TS Nguyễn Tiến Lực, được NXB Giáo Dục xuất bản nặm 2010, nó được xem như là quyển sách chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam về Minh Trị Duy Tân và các vấn đề của nó. Nhưng theo tôi, mặc dù tác giả đã trình bày khá đầy đủ các vấn đề của Minh Tri Duy Tân, nhưng tác giả chỉ mới dừng lại ở mức độ tổng Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản quan để người đọc có được cái nhìn khái quát, chứ chưa đi vào chuyên sâu phân tích một cách chi tiết. Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các nhà sử học, nhà nghiên cứu nổi tiếng được đăng trên các báo và tạp chí như: Nghiên cứu Đông Bắc Á, Nghiên Cứu Nhật Bản, Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu văn học, Thời Đại Mới,…. Và còn nhiều đề tài nghiên cứu ở các trường Đại học lớn như ở Khoa Đông Phương học, trường Đại học KHXH&NV thuộc Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh. Đó là những nguồn tư liệu quan trọng sẽ giúp tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình. 3. Đối tượng nghiên cứu Sự Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản. 4. Phạm vi nghiên cứu Cuộc Minh Trị Duy Tân diễn ra ở Nhật Bản vào giữa cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. 5. Phương pháp nghiên cứu Ngoài hai phương pháp nghiên cứu chính trong lịch sử là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, tôi kết hợp với một số phuơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh,…. Để sử dụng cho đề tài nghiên cứu của mình. 6. Bố cục đề tài Ngoài lời cảm ơn ra, thì đề tài được chia ra làm 3 phần chính, bao gồm: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong phần nội dung được chia ra làm những phần chính sau: Chương 1: Khái quát về Minh Trị Duy tân Trình bày một cách tổng quan về toàn bộ quá trình cũng như nội dung của cuộc Minh Trị Duy Tân. Chương 2: Tác động của yếu tố phương tây đến Minh Trị Duy tân Trình bày sự tác động của yếu tố phương Tây đến Minh Trị Duy tân như thế nào? Chương 3: con đường đi tới "phú quốc cường binh" của Nhật Bản Trình bày quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước sau cải cáchvà việc sửa đổi hiệp ước và tăng cường vị thế châu Á, tiến tới “Phú quốc cường binh”. PHẦN 3: KẾT LUẬN Trình bày một số nhận xét về nguyên nhân của sự thành công, những tích cực và hạn chế của cuộc Minh Trị Duy tân, ý nghĩa quốc tế của Minh Trị Duy tân; liên hệ so sánh cuộc Minh Trị Duy tân trong bối cảnh phong trào Duy tân cải cách ở châu Á cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. PHỤ LỤC Những hình ảnh về cuộc Minh Trị Duy tân. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Khái quát về Minh Trị Duy tân Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản 1. Về thuật ngữ Minh Trị Duy Tân Theo định nghĩa của từ điển Wikipedia: Cải cách Minh Trị, hay Cách mạng Minh Trị, hay Minh Trị Duy tân, là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách mạng dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản. đó là sự chuyển biến trên phạm vi rộng lớn từ chế độ hành chính, pháp luật, triều đình, chế độ đẳng cấp, hành chính địa phương, tiền tệ, lưu thông, sản nghiệp, kinh tế, giáo dục, ngoại giao, chính sách tôn giáo… cũng như việc biến đổi sang quốc gia cận đại có thể chế quốc gia theo kiểu phương Tây đầu tiên ở châu Á (1) Khái niệm Minh Trị Duy tân và những vấn đề của nó vẫn còn nhiều tranh luận. Minh Trị Duy tân là thuật ngữ dịch từ cụm từ Meiji Ishin trong tiếng Nhật. Minh Trị là niên hiệu của Thiên Hoàng Mutsuhito, vị Thiên Hoàng thứ 122 của Nhật, trị vì từ năm 1868 đến năm 1912. “Duy” trong chữ Hán có nghĩa là ràng buộc, duy trì, là bảo vệ, ủng hộ. “Tân” là mới. Duy tân là ủng hộ cái mới, bảo vệ cái mới, thực thi cái mới. Các nước trong khu vực “Hán hoá” hiểu nghĩa Duy tân giống nhau. Nhưng khi dịch từ Ishin ra tiếng Anh thì không có từ nào phản ánh đúng và đầy đủ nội dung của từ Ishin trong tiếng Nhật. Các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đề nghị giữ nguyên cách viết Meiji Ishin. Và nó được dùng phổ biến từ những năm 1980 đến nay. Về tính chất của Minh Trị Duy tân có ít nhất là 4 trường phái lớn. Trường phái thứ nhất coi Minh Trị Duy tân là phục cổ, là sự thiết lập nền chuyên chế tuyệt đối của Thiên Hoàng. Tác phẩm tiêu biểu cho trường phái này là bộ Lịch sử Minh Trị gồm 6 cuốn do Khoa Sử, Đại học Đế quốc Tokyo (nay là Đại học Tokyo) biên soạn. Bộ sách này viết về Lịch sử Minh Trị từ năm 1848 đến năm 1871 và coi Minh Trị Duy tân là sự nghiệp “Vương chính phục cổ”. Inoue Kiyoshi và Hattori Shiso điều cho rằng Minh Trị Duy tân là nền chuyên chế tuyệt đối của Thiên Hoàng. Inoue gọi đó là “chính quyền chuyên chế tuyệt đối”, còn Hattori coi Minh Trị Duy tân (1) http: //wikipedia.org-Minh Trị Duy tân. là quá trình chuyển biến từ “một chế độ phong kiến thuần túy” sang “chế độ chuyên chế tuyệt đối” (1) . Trường phái thứ hai coi Minh Trị Duy tân là cuộc cách mạng. Tuy nhiên, khi xét về tính chất cách mạng lại có nhiều ý kiến khác nhau. Các học giả Âu – Mỹ như W.G. Beasley coi Minh Tri Duy tân không là cách mạng tư sản cũng không là nền chuyên chế tuyệt đối mà là cuộc cách mạng dân tộc. F. B. Gibney coi đây không chỉ là cuộc cách mạng về chính trị mà là cuộc cách mạng văn hóa nguyên hình và là cuộc cách mạng toàn diện đầu tiên. Về điểm này, Minh Trị Duy (2) tân là sự thể nghiệm đầu tiên của cuộc cách mạng toàn diện thời cận đại . Còn các học giả Liên Xô (cũ) như nhà Đông phương học Igor Latishev coi Minh Trị Duy tân là cuộc cách mạng tư sản chưa hoàn thành. Ở Nhật, Tanaka Akira cũng đồng ý như vậy. Còn Piotr Fedoseev, Viện Hàn Lâm Khoa học Liên Xô (cũ) nhấn mạnh đây là cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn (3) hóa, giáo dục . Ở Trung Quốc, vào những năm 1950, nhiều người chịu ảnh từ các nhà nghiên cứu Liên Xô cũng coi Minh Trị Duy tân là cuộc cách mạng tư sản chưa hoàn thành. Sang những năm 1960 có sự thay đổi, xuất hiện quan điểm coi Minh Trị Duy tân là cách mạng tư sản không triệt để. Ở Việt Nam, trong các giáo trình lịch sử thế giới cận đại hay các cuốn về Lịch sử Nhật Bản, nhìn chung các tác giả điều coi Minh Trị Duy tân là cuộc cách mạng tư sản không triệt để hay cách mạng còn nhiều hạn chế. Như Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng trong Lịch sử thế giới cận đại (2) , Lê Văn Quang trong cuốn Lịch sử Nhật (2) bản của mình . (1) Nguyễn Tiến Lực, Minh Trị Duy tân và Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2010. (2) Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 15, 16. (3) Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 17. (1) Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế giới cận đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr. 309. Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản Trường phái thứ ba coi Minh trị Duy tân là chuỗi cải cách. Quan điểm này chiếm ưu thế ở Nhật từ những năm 1980 trở lại đây. Tiêu biểu cho quan điểm này có Toyama Shigeki, Ishii Kanji, Tanaka Akira, Nakamura Satoru,… họ cho rằng Minh Trị Duy Tân là “Vương chính phục cổ” kết hợp với một chuỗi cải cách thành “phú quốc (3) cường binh” . Ở Việt Nam, GS Hoàng Văn Việt cho rằng “Minh Trị Duy tân không là cuộc (4) cách mạng xã hội mà là cuộc cải cách toàn diện hay cách mạng từ trên” . Trường phái thứ tư coi Minh Trị Duy tân vừa là cách mạng vừa là cải cách. Trước tiên là cách mạng lật đổ chế độ Bakufu và sau đó là chuỗi cải cách nhằm biến Nhật Bản từ một nước Phong kiến sang một nước tư bản chủ nghĩa. (5) Tiêu biểu như Sasaki Hiroshi ở Nhật, Lữ Vạn Hòa ở Trung Quốc và Lê Văn Quang ở Việt Nam. Tôi đồng ý với quan điểm của trường phái thứ ba coi Minh Trị Duy tân là “Vương chính phục cổ” kết hợp với một chuỗi cải cách thành “phú quốc cường binh”. Và cũng xin được giả thích thêm: Lật lại lịch sử Nhật Bản, nếu tính từ thế kỷ thứ 4, trong suốt kỷ nguyên lịch sử khoảng 1650 năm kể từ ba thế kỷ trước khi có hiến pháp 17 điều khoảng của Shotuku (6) Taishi vào năm 604 . Gia đình Hoàng đế tiếp tục là gia đình cai trị Nhật Bản trong suốt thời kỳ này, nhưng không quá 1/3 toàn bộ thời kỳ này Hoàng đế mới là người cai trị trên thực tế cũng như trên danh nghĩa, tức là Hoàng đế nắm quyền chuyên chế tuyệt đối. Khoảng thời gian còn lại thì quyền lực kiểm soát trên thực tế nằm trong tay các quan nhiếp chính (Sesho hay Shikken), các cố vấn nhiếp chính (Kanpaku), các hoàng đế nghỉ hưu (Hoo), các tướng quân (Shogun) và những người khác, Hoàng đế chỉ là (2) Lê Văn Quang, Lịch sử Nhật Bản, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 168 (3) Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 18. (4) Hoàng Văn Việt, Các quan hệ chính trị ở Phương Đông: Lịch sử và hiện tại, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 52 và 57. (5) Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 19. (6) Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1991, tr. 23. một “con rối”, chỉ là người cai trị trên danh nghĩa. Mãi đến thời kỳ Minh Trị Duy tân, thì quyền lực mới phục hồi về tay Thiên Hoàng, lúc này Thiên hoàng mới là người cai trị trực tiếp đất nước. điều này có nghĩa là trong suốt 2/3 kỷ nguyên lịch sử Nhật Bản là những năm của sự điều hành kép, có lúc là sự điều hành của ba bộ phận, Hoàng đế chỉ là hư danh. Trừ thời cổ đại và những năm thời kỳ Minh Trị, chỉ có rất ít năm trong đó tồn tại sự điều hành đơn nhất dưới sự cai trị trực tiếp của Hoàng đế, tức là Hoàng đế nắm trong tay quyền chuyên chế tuyệt đối. Đây là sự chuyển biến từ “một chế độ phong kiến thuần túy” sang “chế độ chuyên chế tuyệt đối”. Vì thế, Theo tôi trước tiên Minh Trị Duy Tân là “Vương chính phục cổ”. Không những thế, sau đó kết hợp với một loạt các chuỗi cải cách đã đưa Nhật Bản trở thành một nước “phú quốc cường binh”, ngang hàng với các nước phương Tây. Vấn đề này, tôi sẽ biện giải kỹ hơn ở phần sau. 2. Vấn đề phân kỳ của Minh Trị Duy Tân Trong vấn đề phân kỳ Minh Trị Duy tân cũng diễn ra sự tranh luận quyết liệt giữa các nhà nghiên cứu ở Nhật và trên thế giới. Nhìn chung, về thời điểm khởi đầu, có hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng Minh Trị Duy tân bắt đầu bằng cải cách thời Tempo (Thiên Bảo) và quan điểm thứ hai cho rằng bắt đầu bằng việc Nhật Bản mở cửa vào năm 1853. Còn về thời điểm kết thúc có rất nhiều quan điểm khác nhau kéo dài từ thời kỳ “phế Han lập Ken” (1) cho đến chiến tranh Nhật – Thanh 1994 – 1995. Đó là quan điểm lấy các mốc năm Minh Trị thứ 4 (1871), Minh Trị thứ 6 (1873), Minh Trị thứ 10 (1877), Minh Trị thứ 12 (1889), Minh Trị thứ 14 (1881), Minh Trị thứ 17 (1884), Minh Trị thứ 22 – 23 (1889 – 1890), và Minh Trị thứ 27 – 28 (1894 (2) – 1895) làm mốc kết thúc của Minh Trị Duy tân . (1) Han (Phiên) là đơn vị hành chính thời Edo, giống như lãnh địa phong kiến; Ken (Huyện) là đơn vị hành chính thời Minh Trị đến nay, tương đươg với tỉnh của Việt Nam. (1) Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 20. Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản Các nhà nghiên cứu nổi tiếng như Inoue, Toyama, Horie, Nakamura, Ishii có chung quan điểm lấy cải cách Tempo làm móc khởi đầu, nhưng lại có quan điểm khác nhau về thời điểm kết thúc. Inoue lấy mốc năm 1871, sau khi phế Han lập Ken làm thời điểm kết thúc. Toyama thì cho rằng Minh Trị Duy tân kết thúc bằng chiến tranh Tây Nam 1877. Horie thì lấy thời điểm kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa Chichibu. Nakamura và Ishii thì lại cho rằng Minh Trị Duy tân kết thúc bằng việc ban hành Hiến pháp và triệu tập Quốc hội, tức vào khoảng năm 1889 – 1890. Một quan điểm khác là của nhà nghiên cứu Minh Trị Duy tân nổi tiếng hiện nay Tanaka Akira, ông cho rằng năm 1853 là thời điểm thống nhất những yếu tố tất nhiên của những điều kiện trong nước và những nguyên nhân có tính quốc tế từ bên ngoài nên được coi là thời điểm mở đầu cho Minh Trị Duy tân và thời điểm kết thúc là năm 1879 khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu (Lưu Cầu) vào lãnh thổ Nhật Bản, “đó là thời điểm cuối cùng của quá trình hình thành quốc gia thống nhất theo chế độ tư bản chủ nghĩa của Nhật Bản”. Ngoài ra, chúng ta cần phải kể đến một quan điểm rất đáng chú ý của Lữ Vạn Hòa . Ông coi Minh Trị Duy tân là cuộc cách mạng tư sản không triệt để là “toàn bộ quá trình chuyển biến từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản chủ nghĩa ở Nhật”, khởi điểm từ khi chiến hạm của Perry đến Nhật (1853 – 1854), làm dấy lên phong trào “nhương Di”, “đảo Mạc” và đến năm 1894 – 1895, khi “Hiệp ước thương mại và hang hải Nhật – Anh” được ký kết và sau đó là chiến tranh Nhật – Thanh làm thời điểm kết thúc Minh Trị Duy tân. Nhà nghiên cứu người Nhật Sasaki Hiroshi và Lê Văn Quang của Việt Nam cũng có cùng quan điểm phân chia như vậy. Tôi đồng ý với quan điểm này và cũng xin được giải thích thêm: Việc phân chia Minh Trị Duy tân có thể không chung nhất, sẽ có nhiều quan điểm khác nhau tùy theo cách nhìn nhận của mọi người. nhưng dù khác nhau đi nữa, chúng ta phải công nhận một điều là thông qua Minh Trị Duy tân mà xã hội Nhật Bản chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở sự thật lịch sử này, theo tôi, phải hiểu Minh Trị Duy tân theo nghĩa rộng, xem xét toàn bộ quá trình chuyển biến của Nhật Bản từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản chủ nghĩa, chứ không đơn thuần chỉ xem nó như là một cuộc cách mạng (cách mạng từ trên hay cách mạng tư sản không triệt để…) hay chỉ là một cuộc cải cách. Khác với các nước phương Tây, khi tiến hành Duy tân, ở Nhật Bản yếu tố TBCN vừa ít lại vừa yếu, giai cấp tư sản chưa hình thành, nên khi giành chính quyền từ Tokugawa Bakufu và trong những năm đầu của chính quyền MinhTrị, quá trình Duy tân vẫn chưa hoàn toàn chưa kết thúc. Xem xét kỹ những biến đổi trong và ngoài nước thì khởi điểm của quá trình đó là năm 1853 khi chiến hạm của Perry đến Nhật làm dấy lên phong trào “Tôn Vương nhương Di” và sau đó phát triển thành phong trào “Tôn Vương đảo Mạc” và kết thúc vào năm 1895 với cuộc chiến tranh Nhật – Thanh. Nếu lấy mốc khởi đầu từ 1830 – 1840, tức thời Tempo là không thỏa đáng. Lý do là cải cách Tempo không làm cải biến căn bản xã hội Nhật Bản. Còn vào năm 1853, khi các chiến hạm của Mỹ đến Nhật Bản, bắt Nhật Bản phải mở cửa, đưa Nhật vào hệ thống TBCN thế giới thì xã hội Nhật Bản mới có sự thay đổi căn bản. Từ đó ngoài mâu thuẫn cố hữu của xã hội Nhật Bản là mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến với nhân dân, đã nẩy sinh thêm một mâu thuẫn mới là mâu thuẫn dân tộc giữa chủ nghĩa thực dân phương Tây và dân tộc Nhật Bản. Và nói như cụ Đào Trinh Nhất: “thiệt sự, tới năm 1853, Nhựt-bổn đang đóng cửa ngủ ngon, giữ chặt thói cũ, chính tự đề-đốc Perry đem một đoàn tàu Mỹ lại thị oai mà làm cho họ giật mình tỉnh giấc, phát phẩn tự cường ; (1) Nhựt-bổn bước vào kỷ nguyên mới, bắt đầu từ đó” . Toàn bộ quá trình Duy tân có hai mặt: xóa bỏ cái cũ và thiết lập cái mới. xóa bỏ cái cũ là đánh đổ chế độ Bakufu và những cơ sở của nó. Việc bỏ cái cũ thông qua “Vương chính phục cổ”(1867) và chiến tranh Mậu Thìn (1868) và thông qua một chuỗi (1) Đào Trinh Nhất, Nhật Bổn Duy tân 30 năm, Nxb Đắc Lập, Huế, 1936. Tác động của yếu tố phương Tây đến cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản cải cách kéo dài đến 1878. còn việc thiết lập cái mới thì diễn ra đến những năm 1890, khi Nhật Bản đạt những kết quả lớn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa các mặt đời sống xã hội. và năm 1889 công bố Hiến pháp, thể chế chính trị - xã hội mới được củng cố vững chắc. Đến đây những mục tiêu của sự nghiệp Duy tân gần như đã đạt được. Tuy nhiên, mặt dù đạt những thành tựu lớn, nhưng vị thế quốc tế của Nhật vẫn còn thấp, các nước phương Tây vân chưa chịu sửa đổi các hiệp ước bất bình đẳng và nguy cơ Nhật Bản bị các nước phương Tây nô dịch vẫn còn. Chỉ khi việc đạt được với Anh “Hiệp ước thương mại và hàng hải Nhật – Anh” vào năm 1894 và sau đó giành được thắng lợi vang dội trong cuộc chiến tranh Nhật – Thanh năm 1895 thì Nhật Bản mới thực sự trở thành một cường quốc, nguy cơ dân tộc của Nhật Bản mới không còn nửa. Những mâu thuẫn cơ bản bản của Nhật Bản đến đây được giải quyết. Và như vậy nhiệm vụ Duy tân coi như hoàn thành. Việc lấy mốc 1894 – 1895 làm mốc kết thúc Minh Trị Duy tân là thỏa đáng hơn cả. 3. Các giai đoạn của Minh Trị Duy Tân Nếu chúng ta coi Minh Trị Duy tân bắt đầu từ năm 1853 và kết thúc vào năm 1895 thì toàn bộ quá trình đó có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ 1 từ năm 1853 đến năm 1868, nội dung chủ yếu là phong trào “Tôn Vương nhương Di” và “Tôn Vương đảo Mạc”, tức là giai đoạn đấu tranh lật đổ chính quyền Tokugawa, thiết lập chính quyền Minh Trị. Giai đoạn thứ 2 từ năm 1869 đến năm 1878, là giai đoạn cải cách, phá bỏ cái cũ, xác lập cái mới. Giai đoạn thứ 3 từ năm 1878 đến năm 1895, đây là giai đoạn hoàn thiện, củng cố cái mới – hoàn thành sự nghiệp Duy tân. Nói đúng hơn thì giai đoạn 1 là giai đoạn tiền Duy tân và giai đoạn thứ 2 và thứ 3 là giai đoạn Duy tân. 3.1. Giai đoạn 1: Từ “Tôn Vương nhương Di” đến “Tôn Vương đảo Mạc” Giai đoạn này tính từ khi chiến hạm của Đô đốc Perry đến Nhật (1853) và sau đó là Nhật Bản mở của (1854) cho đến “Vương chính phục cổ” (1867), chiến tranh Mậu Thìn (1868). 3.1.1. về chính trị Trong giai đoạn này, về chính trị, xung quanh ý thức về nguy cơ dân tộc rất nghiêm trọng đã diễn ra sự đối lập kịch liệt trong các tầng lớp thống trị trong nội bộ chế độ Bakufu. Vào thời điểm này, chính quyền Shogun đã rơi vào tình trạng suy yếu khủng hoảng trầm trọng trên tất cả các mặt, từ đó dẫn tới quá trình vận động cách mạng từ “Tôn Vương nhương Di” đến “Tôn Vương đảo Mạc”, lật đổ chế độ Baku Han cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ Minh Trị. 3.1.2. Về mặt kinh tế - xã hội. Về mặt kinh tế, đây quá trình tan rã của chế độ lãnh chủ và lưu thông hàng hóa kiểu thể chế Baku Han, việc thi hành chính sách mở của đã đưa tới những biến động kinh tế dữ dội và làm nổi lên những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội. Tháng 7 – 1853, Mỹ phái một chiến hạm gồm 4 tàu hải quân do Đô đốc Mathew Perry chỉ huy tiến vào vịnh Edo dùng áp lực quân sự ép Nhật mở của, thông thương. Trước áp lực quân sự, gần 1 năm sau, ngày 31 – 3 – 1854, chính quyền Bakufu buộc phải ký “hiệp ước Kanagawa” với Mỹ. Sau đó, tháng 7 – 1858, Mỹ tiếp tục ép chính quyền Bakufu ký hiệp ước “Nhật – Mỹ tu hiếu thông thương điều ước”, với những (1) điều khoảng nặng nề hơn . Hai bản hiệp ước trên thể hiện sự bất lực của chính quyền Tokugawa về khả năng giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại, là tiếng chuông báo cho sự cáo chung của nó. Phong trào đấu tranh chóng Tokugawa Bakufu bùng nổ khắp nơi trong thập niên 60 của thế kỷ 19 với sự lãnh đạo các Daimyo lấy cớ Bakufu để cho đất nước rơi vào cảnh giống như nhà Thanh, liền nổi dậy chóng lại Shogun. Shogun phần vì không (1) Về nội dung của hai bản hiệp ước này, xin tham khảo thêm trong Nguyễn Tiến Lực, sđd, tr. 44 và 45.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan