TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Khái niệm biến đổi khí hậu
Theo công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu. Biến đổi khí
hậu (BĐKH) là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh
quyển, thạch quyển do tác động trực tiếp hay gián tiếp của các hoạt động con
người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu, bên cạnh sự biến động của
khí hậu tự nhiên, đã được quan sát trong một thời kì nhất định.
Có thể hiểu tóm tắt: Biến đổi khí hậu là biến đổi trạng thái của khí hậu so
với trung bình nhiều năm.
1.2. Nguyên nhân gây ra BĐKH
1.2.1. Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên:
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm: Thay đổi cường độ sáng
của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa,
thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của trái đất.
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng
chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi
tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên
hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi
cường độ sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
Theo nghiên cứu của Na Sa, với sự xuất hiện các Sunspots làm cho cường độ
tia bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống
mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí quyển
một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro vào bầu
khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong nhiều
năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa, các sol khí phản
chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì vậy chúng có tác
dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống
khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi
trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hâ ̣u thông qua chuyển đô ̣ng
của CO2 vào trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với một
quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo quay
trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ có thể tính
đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn đến BĐKH.
Có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên đóng
góp một phần rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện nay.
Tuy nhiên, theo một số kết quả nghiên cứu và công bố từ Ủy Ban Liên Chính Phủ
về BĐKH thì nguyên nhân gây ra BĐKH chủ yếu là do các hoạt động của con
người.
1.2.2. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hâ ̣u do hoat đđ ̣ng con ngươi:
Theo một số nghiên cứu chuyên sâu chứng minh rằng nhiệt độ bề mặt Trái đất
tăng lên nhanh chóng hơn nửa thế kỷ qua chủ yếu là do hoạt động của con người.
Ví dụ như việc đốt các nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ, vv) phục vụ các hoạt
động công nghiệp, giao thông vận tải, vv... và thay đổi mục đích sử dụng đất bao
gồm thay đổi trong nông nghiệp và nạn phá rừng. Ngoài ra còn một số hoạt động
khác như đốt sinh khối, sản phẩm sau thu hoạch.
Các khám phá liên quan đến nguyên nhân gây ra BĐKH do hoạt động của
con người do Ủy Ban Liên Chính Phủ về BĐKH công bố đã cải thiện qua các năm
như sau: Theo báo cáo của IPCC 1995, hoạt động con người đóng góp vào 50%
nguyên nhân gây ra BĐKH. Hay kết quả báo cáo IPCC 2001 hoạt động của con
người đóng góp vào 67% nguyên nhân gây ra BĐKH. Cho đến năm 2007, hàng
loạt các nghiên cứu về BĐKH được thực hiện và đưa ra kết quả trong báo cáo của
IPCC rằng hoạt động của con người đóng góp vào 90% nguyên nhân gây ra
BĐKH.
1.3. Các biểu hiện của BĐKH
Theo công ước bảo vệ thực vật quốc tế (IPPC, 2007). Các biểu hiện của BĐKH
bao gồm:
Nhiệt độ trung bình của toàn cầu tăng lên do sự nóng lên của bầu khí quyển
toàn cầu.
Sự dâng cao của mực nước biển vì sự giãn nở và băng tan.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển.
Sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau trên trái đất.
Sự thay đổi quá trình hoạt động của quá trình hoàn lưu, chu trình tuần hoàn
nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa, hóa khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của hệ sinh thái, chất lượng và thành phần
của thủy quyển, sinh quyển và địa quyển.
Tuy nhiên sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực nước biển dâng thường
được xem là hai biểu hiện chính của BĐKH.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA BĐKH ĐẾN NÔNG NGHIỆP
2.1. Ảnh hưởng của BĐKH đến nđng nghiệp trên thế giới
BĐKH có tác động cả về mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực đến nền nông nghiệp
thế giới.
Tác động lớn nhất có thể nhìn thấy là tần suất và cường độ của các hiện
tượng thời tiết cực đoan tăng lên đáng kể. Sự biến đổi khí hậu là nguyên nhân
chính dẫn đến sự biến động ngắn hạn của việc sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào
mưa ở vùng hạ sahara thuộc châu Phi, ở Nam á và các khu vực chậm phát triển
khác. Mà hình thức biểu hiện nguy hại nhất chính là hạn hán, khi lượng mưa giảm
xuống dưới mức trung bình hàng năm và thiếu hụt ở những thời điểm quan trọng
trong sự phát triển cây trồng. Những thiếu hụt về nguồn nước này có thể làm giảm
đáng kể sản lượng nông sản tại vùng chịu tác động (Hulme và cộng sự , 1999). .
Mặc dù các vùng đất khô cằn và thấp hơn mặt nước biển thường được chú
trọng trong nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu. Nhưng chính các nơi có
lượng ẩm dồi dào cũng dễ bị ảnh hưởng BĐKH. BĐKH làm cho thay đổi thời gian
mùa vụ (Wilkie và cộng sự, 1999) và tạo ra các sự kiện thời tiết cực đoan đặc biệt
là bão, lũ…. Những thảm hoạ này ngắn và có tính cục bộ hơn thảm hoạ hạn hán và
những biến đổi khí hậu khác và do đó có ít người có thể bị ảnh hưởng hơn. Tuy
nhiên, những hậu quả đối với an ninh lương thực của chúng có thể rất nghiêm
trọng. Không chỉ làm mất mùa màng, họ có thể mất thực phẩm, nhà ở và tài sản
của họ, bao gồm cơ sở hạ tầng tưới tiêu, chăn nuôi và dụng cụ, để hậu quả tiêu cực
đến an ninh lương thực trong vài năm sau thiên tai. Mặt khác, vì những sự kiện cực
đoan này tương đối đồng nhất, các vùng sản xuất cây trồng khác trong cùng một
quốc gia thường có thể cung cấp lương thực cần thiết cho các vùng bị ảnh hưởng.
Nghiên cứu gần đây cho thấy một số tác động của biến đổi khí hậu đang diễn ra
nhanh hơn dự đoán trước đó (IPCC, 2001c). Tác động sẽ chủ yếu từ:
Nhiệt độ khu vực tăng lên ở vĩ độ cao ở phía Bắc và ở trung tâm của một số
lục địa;
Tăng áp suất nóng lên cây trồng và gia súc, ví dụ như nhiệt độ ban đêm cao
hơn, có thể ảnh hưởng xấu đến sự hình thành hạt và các khía cạnh khác của
phát triển cây trồng;
Có thể giảm lượng mưa ở một số khu vực không an toàn lương thực, chẳng
hạn như Nam Phi và khu vực phía bắc của Mỹ Latinh, mặc dù các tác động
chính sẽ xảy ra sau năm 2030;
Tăng tỷ lệ bốc hơi do nhiệt độ cao hơn, làm giảm độ ẩm của đất;
Nồng độ mưa vào một số lượng nhỏ các sự kiện mưa với sự gia tăng số ngày
có mưa lớn, tăng xói mòn và nguy cơ lũ lụt - một xu hướng đã rõ ràng
(Easterling và cộng sự, 2000);
Sự thay đổi trong lượng mưa theo mùa, ít đi mùa trồng chính;
Mực nước biển dâng cao, trầm trọng thêm do sụt lún ở các vùng của một số
nước lũ lụt có đông dân cư;
Sản xuất lương thực và gián đoạn cung cấp thông qua các sự kiện cực kỳ
thường xuyên và nghiêm trọng.
2.1.1. Tác động trực tiếp khi thay đổi nhiệt độ và lượng mưa
Sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa sẽ làm thay đổi sự phù hợp của đất và
sự tăng trưởng của cây trồng. Hiệu quả ròng dự kiến sẽ là sự gia tăng diện tích đất
ở các vĩ độ cao phù hợp với sản xuất cây trồng do thời tiết mùa đông ôn hòa và
ngắn hơn, nhưng sự suy giảm đất đai phù hợp ở vùng khô cằn và bán khô hạn.
Những thay đổi này sẽ mang tính định tính và định lượng. Tại vùng cao nguyên
Đông Phi, nhiệt độ cao hơn có thể làm đất trở nên không phù hợp với lúa mì nhưng
phù hợp hơn cho các loại ngũ cốc khác. Các ảnh hưởng đối với năng suất tiềm
năng sẽ theo cùng một mô hình với sự phù hợp của đất đai, với năng suất tăng ở vĩ
độ trung bình và cao hơn và tổn thất ở các vĩ độ thấp hơn. Có thể có một số tăng ở
vùng cao nguyên nhiệt đới, nơi hiện tại có những hạn chế về nhiệt độ lạnh.
Tác động tổng thể của sự thay đổi về đất đai và sự phù hợp của năng suất và năng
suất của vụ mùa là nhỏ so với những ảnh hưởng từ tăng trưởng kinh tế và công
nghệ. Vào năm 2020, sản xuất ngũ cốc thế giới chỉ có thể thấp hơn 0,5% so với
những gì nó đã đạt được nếu không có sự thay đổi khí hậu (IPCC, 2001c, Parry et
al ., 1999), mặc dù mức giảm này có thể tăng lên nhiều hơn vào năm 2050 hoặc
cao hơn. Giảm khu vực lớn nhất là ở Châu Phi, nơi sản lượng ngũ cốc dự kiến sẽ
giảm 2-3%.
Sự gia tăng nồng độ CO2 trong khí quyển không chỉ làm tăng sự nóng lên
toàn cầu mà còn là một nhân tố tích cực trong tăng trưởng cây trồng và cây trồng
và sản xuất sinh khối. Nó kích thích quang hợp (gọi là hiệu ứng phân bón CO 2 )
và cải thiện hiệu quả sử dụng nước (Bazzaz và Sombroek, 1996). Đến năm 2030
hiệu ứng này có thể bù đắp cho phần lớn hoặc toàn bộ sự giảm năng suất do nhiệt
độ và lượng mưa thay đổi. Các nghiên cứu gần đây cho Hoa Kỳ cho thấy những lợi
ích từ việc tăng hiệu quả sử dụng nước của CO 2 có thể tiếp tục cho đến năm 2095
(Rosenberg et al ., 2001).
2.1.2. Các tác động trực tiếp khi nước biển dâng
Sự gia tăng mực nước biển gây ra bởi sự nóng lên toàn cầu có thể dẫn đến
mất đất do lũ lụt và xâm mặn, và làm hư hại đầm lầy ngập mặn và bãi đẻ. Mực
nước biển đang tăng lên khoảng một nửa cm / năm, và có thể sẽ tiếp tục ở mức này
trong vài thập kỷ thậm chí nếu có sự triển khai nhanh chóng các hiệp định quốc tế
để hạn chế sự thay đổi khí hậu. Do đó mực nước biển có thể cao hơn 15-20 cm vào
năm 2030 và 50 cm vào năm 2100 (IPCC, 2001b), làm tăng nguy cơ lũ lụt ở phần
lớn khu vực Nam và Đông Á và đặt dân số và nông nghiệp vào tình trạng nguy cơ
(Gommes et al ., 1998) . Ba hệ thống sản xuất có giá trị sẽ bị ảnh hưởng nhiều
nhất: sản xuất rau có xu hướng được tưới và tập trung nhiều ở các khu vực đô thị bị
đe doạ bởi sự xâm nhập của nước mặn; các hệ thống nuôi trồng thủy sản nằm ở các
khu vực ở hoặc dưới mực nước biển; và nghề cá ven biển phụ thuộc vào các bãi đẻ
ở đầm lầy ngập mặn và các vùng đất ngập nước ven biển khác bị đe doạ bởi mực
nước biển dâng, mặc dù một số điều chỉnh có thể xảy ra do lắng đọng trầm tích và
tích tụ chất hữu cơ.
Do các cơn lốc xoáy nhiệt đới sẽ gia tăng về tần suất và cường độ, sẽ có
nhiều sự kiện nước cao hơn và các cơn bão mạnh hơn thâm nhập vào nội địa
(IPCC, 2001a, Nicholls, Hoozemans và Marchand, 1999). Mặc dù hầu hết các đánh
giá tác động đã được tăng mực nước biển dần dần, những đợt sóng biển này có thể
gây nguy cơ lớn nhất cho an ninh lương thực. Nicholls, Hoozemans và Marchand
(1999) kết luận rằng vào năm 2080, số người dễ bị ngập lụt do sóng biển trong một
năm điển hình sẽ cao hơn năm lần so với những người dễ bị nước biển dâng.Các
nghiên cứu trước đây cho thấy 90 phần trăm những người dễ bị tổn thương này sẽ
phải chịu lũ lụt hàng năm (Baarse, 1995). Di cư đến các vùng ven biển vì cơ hội
việc làm tốt hơn gắn liền với đô thị hóa và công nghiệp hóa và việc khai thác quá
mức nước ngầm ở các khu đô thị sẽ làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn. Ví dụ ở
Băng-cốc, những xu hướng này đã dẫn tới sự sụt lún rõ rệt (lên đến vài mét trong
thế kỷ trước).
Ngay cả khi không có biến đổi khí hậu, tăng trưởng dân số và đô thị hóa sẽ
làm tăng số người có nguy cơ bị ngập lụt ở bờ biển, có thể từ khoảng 200 triệu năm
1990 đến gần 500 triệu vào năm 2030 (Nicholls, Hoozemans và Marchand, 1999).
Nước biển dâng sẽ không tăng đáng kể vào năm 2030, nhưng những sự phát triển
dự kiến khác, liên quan đến những tương tác nghiêm trọng giữa lũ lụt sông và nước
biển dâng, có thể làm như vậy. Chúng bao gồm dòng chảy sông lớn vì lượng mưa
trong nước tăng lên, giảm chiều rộng của sông thông qua bồi lắng và phát triển đô
thị và công nghiệp, và sự gia tăng dông bão xâm nhập vào nội địa (Arnell, 1999).
2.1.3. Tác động gián tiếp
Tác động gián tiếp hoạt động chủ yếu thông qua các ảnh hưởng đến nguồn
tài nguyên sẵn có, đặc biệt là nguồn nước và các hệ sinh thái khi chúng đáp ứng
với sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa; và thông qua việc mất đa dạng sinh học,
mặc dù sau này sẽ có ít tác động vào năm 2030.
Những thay đổi lớn được dự đoán của tài nguyên nước do giảm lượng nước
chảy và nước ngầm. Sự suy giảm đáng kể được dự báo cho Australia, Ấn Độ, Nam
Phi, Cận Đông / Bắc Phi, phần lớn châu Mỹ Latinh và các bộ phận của châu Âu
(Trung tâm Hadley, 1999). Sự suy giảm chính sẽ là sau năm 2030 nhưng có thể có
những tác động tiêu cực đến thủy lợi trong thời gian ngắn hơn. Hơn nữa, tần suất
hạn hán mùa hè cao hơn ở bên trong các lục địa ở giữa vĩ độ có thể tăng tần suất
cháy rừng.
Sẽ có những thay đổi trong phân bố và động lực của các loài sâu bệnh
chính. Mặc dù chỉ có những thay đổi nhiệt độ trung bình nhỏ được dự báo đến năm
2030, nhưng chúng vẫn đủ lớn để mang lại những thay đổi đáng kể. Ngoài ra, ít khí
lạnh và ngày băng giá có thể mở rộng phạm vi của một số loài dịch hại và dịch
bệnh, và giúp cho sự gia tăng nhanh chóng của quần thể của chúng để làm tổn hại
đến các đối tượng nông nghiệp.
Phần lớn khu vực miền Trung và Bắc Âu có thể trở nên dễ bị tổn thương
trước các sâu bệnh hại quan trọng như bọ cánh cứng Colorado khoai tây và lúa mì
Karnal (Baker et al ., 1999) khi chúng mở rộng phạm vi lên phía bắc. Mặc dù các
biện pháp kiểm soát được biết đến đối với những bệnh này sẽ vẫn có một số tổn
thất năng suất và chi phí đầu vào sản xuất và môi trường. Tuy nhiên, điều này
không chỉ là vấn đề đối với các vùng ôn đới. Ở nhiệt đới cận nhiệt đới Úc tăng lên
đến 2 ° C có thể làm tăng sự phát triển của sản lượng phi lê của Queensland và sản
xuất lực lượng chuyển sang phía nam (Sutherst, Collyer và Yonow, 1999).
Những thay đổi quan trọng trong động lực dịch hại là sự gia tăng dịch
chuyển dịch hại (đặc biệt là overwintering ở các vùng ôn đới) và động lực dân số,
vì các chu kỳ sống của một số loài sâu bệnh chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt độ
(Gommes và Fresco, 1998). Nhiệt độ cao hơn có thể thúc đẩy các quần thể dịch hại
lớn hơn, và có thể mở rộng tầm với của các loài vi khuẩn gây bệnh trong thực vật,
như trong trường hợp rầy có chứa các vi khuẩn ngũ cốc, hiện đang được kiểm soát
bởi nhiệt độ thấp hoặc mùa đông. Không có nỗ lực nào để định lượng những thiệt
hại này nhưng chúng có thể đáng kể về sản lượng thấp hơn và chi phí sản xuất cao
hơn.
Cuối cùng, nhiệt độ cao hơn dường như có thể làm tăng tốc độ gió, và có thể
có sự gia tăng của sự xuất hiện của cơn bão. Điều này sẽ gây ra thiệt hại cơ học lớn
hơn đối với đất, thực vật và động vật; ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng do
sự xói mòn của gió và thiệt hại cát; và đuối nước của gia súc. Các quyết định về
quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cả trang trại và ở cấp quốc gia có thể làm giảm
hoặc tăng cường tác động của các yếu tố này đối với an ninh lương thực. Ví dụ, các
nỗ lực phối hợp để thúc đẩy IPM có thể làm giảm tác động của dịch bệnh dịch và
dịch bệnh. Ngược lại, thực tiễn quản lý đất nghèo và sự bảo vệ không đầy đủ đối
với sự đa dạng và ổn định của hệ sinh thái có thể làm trầm trọng thêm sự xói mòn
đất và các thiệt hại khác.
2.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nđng nghiệp ở Việt Nam
Việt nam là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống bằng nông nghiệp
và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Trong nhiều năm qua sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn chiếm 25-40% tổng sản phẩm trong nước và đạt trên 40% tổng
giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên nước ta là 1 trong 5 nước chịu tác động nặng nề của
biến đổi khí hậu do:
- Nằm ở vùng Châu Á Thái bình dương, một trong năm vùng bão của thế giới
- Là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa
- Bờ biển dài 3260 km
- Là nước đang phát triển
- Dân số tăng nhanh
- Chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hiện tượng băng tan ở Hymalay(Tài liệu tập huấn
khuyến nông năm 2016).
Ảnh hưởng của BĐKH đến sản xuất nông nghiê ̣p của Viê ̣t Nam đã và đang
trở thành thách thức lớn nhất. Theo số liê ̣u của Tổng cục Thống kê, lần đầu tiên
sau nhiều năm GDP nông nghiê ̣p giảm 0,78%, trong khi lâm nghiê ̣p, thủy sản vẫn
tăng (lần lượt là 5,75 và 1,25%) làm cho GDP toàn ngành nông nghiệp 6 tháng đầu
năm 2016 giảm 0,18% (trong khi đó GDP cùng kỳ 2015 tăng 2,36%; năm 2014
tăng 2,96% và năm 2013 tăng 2,14%). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụt giảm
giá trị sản xuất trong nông nghiê ̣p là do ảnh hưởng của BĐKH và các điều kiê ̣n liên
quan đến thời tiết cực đoan bất thường. Tính đến cuối tháng 6/2016, hạn hán và
xâm nhâ ̣p mă ̣n kéo dài đã làm thiê ̣t hại gần 250.000 ha lúa, 19.203 ha hoa màu,
37.369 ha cây ăn quả tập trung, 163.768 ha cây lâu năm… với tổng giá trị lên đến
hơn 142.000 tỷ đồng. Tại miền Bắc, trong 10 ngày cuối tháng 1/2016 đã phải hứng
chịu một đợt không khí lạnh sâu, nhiệt độ nhiều vùng xuống thấp nhất trong lịch sử
quan trắc và gây ra một đợt rét đậm, rét hại trên diện rộng làm thiệt hại gần 70.000
ha lúa và cây rau màu các loại (cục trồng trọt ,2016).
So với cùng kỳ năm 2015, diê ̣n tích gieo cấy lúa vụ đông xuân cả nước năm
2016 giảm 31,1 nghìn ha, năng suất giảm 3,6 tạ/ha, sản lượng giảm 1,326 triê ̣u tấn
(6,4%) và chủ yếu giảm ở ĐBSCL (phía Bắc sản lượng tăng 14,4 ngàn tấn;
ĐBSCL giảm 1,14 triê ̣u tấn, Tây Nguyên giảm 64 ngàn tấn và Duyên hải miền
Trung giảm 122 ngàn tấn) ( nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2016) .
2.2.1. Nước biển dâng
BĐKH chủ yếu liên quan đến nhiệt độ tăng và NBD. Tại Viê ̣t Nam, dự thảo
kịch bản BĐKH (phiên bản dự thảo 2016) (Viện khoa học khí tượng thủy văn,
2016) cho thấy, nhiệt độ trung bình năm trên phạm vi toàn quốc tăng khoảng
0,62°C trong giai đoạn 1958-2014 và tăng dần theo thời gian. Nếu so với giai đoạn
1981-1990, nhiệt độ trung bình năm trong 20 năm 1995-2014 tăng khoảng 0,38°C
thì trong 10 năm gần đây (2005-2014) đã tăng 0,42°C. Chúng ta biết rằng, khi
nhiệt độ tăng thêm 1°C, năng suất lúa sẽ giảm 10%, năng suất ngô giảm 5-20% và
sản lượng cây lương thực giảm trung bình 15%.
Dự báo theo kịch bản RCP4.55, vào giữa thế kỷ này, nhiệt độ trung bình năm
của cả nước tăng 1,3-1,7°C. Đến cuối thế kỷ, ở phía Bắc nhiệt độ tăng 1,9-2,4°C và
ở phía Nam 1,7-1,9°C. Còn theo kịch bản RCP8.5, vào giữa thế kỷ, nhiệt độ trung
bình năm trên toàn quốc tăng 1,8-2,3°C. Đến cuối thế kỷ, nhiệt độ ở phía Bắc tăng
3,3-4,0°C và ở phía Nam tăng 3,0-3,5°C.
BĐKH không chỉ làm tăng nhiê ̣t đô ̣ trung bình mà còn tăng nhiê ̣t đô ̣ tối cao
và tối thấp. Theo số liệu quan trắc thời kỳ 1961-2014, nhiệt độ ngày cao nhất (Tx)
và thấp nhất (Tmin) tăng 1°C/10 năm. Số ngày nóng (số ngày có Tx ≥ 35°C) có xu
thế tăng ở hầu hết các khu vực của cả nước với mức tăng phổ biến 2-3 ngày/thập
kỷ. Nhiệt độ tối cao trung bình năm tăng sẽ có ảnh hưởng lớn đến sản xuất lúa gạo
nói riêng và các cây trồng khác nói chung.
NBD cũng là thách thức lớn cho sản xuất nông nghiê ̣p, đă ̣c biê ̣t là lúa gạo và
nuôi trồng thủy sản. Dự báo, vào cuối thế kỷ XIXII, mực NBD ở khu vực Biển Đông
như sau: i) Theo kịch bản RCP2.6, mực NBD khoảng 46 cm (28-70 cm);
ii) Theo RCP4.5, mực NBD khoảng 55 cm (33-75 cm);
iii) Theo RCP6.0, mực NBD khoảng 59 cm (38-84 cm) và theo RCP8.5, mực
NBD khoảng 77 cm (51-106 cm).
Kịch bản NBD 100 cm tại các tỉnh sản xuất lúa chủ lực làm cho Hâ ̣u Giang
và Kiên Giang là 2 tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất (80,6 và77% diện tích), trong khi
đó các tỉnh Thái Bình, Nam Định. Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau có diê ̣n tích ngâ ̣p
trên 50%. Các tỉnh sản xuất lúa khác như Hải Phòng, Ninh Bình, Tiền Giang, Bến
Tre cũng có tỷ lê ̣ ngâ ̣p trên 20%. Như vâ ̣y nhìn chung, mực NBD tại các tỉnh phía
Nam cao hơn khu vực phía Bắc. Còn tính trên toàn vùng là 16,8% diện tích ở
ĐBSH và 38,9% diện tích ở ĐBSCL có nguy cơ ngập.Đây là những vựa lúa chủ
lực của cả nước và với kịch bản NBD như trên thì sản lượng lúa gạo có thể giảm
30-35%.
2.2.2. Xâm nhâp mặn
Ngoài việc chịu ảnh hưởng của việc mất một phần lớn diện tích đất canh tác
do NBD. BDKH còn gây ra bão nhiệt đới, lượng mưa lớn và hay thay đổi nên các
vùng ven biển Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu
gây ra. Hiện tượng hạn hán, bão, lũ lụt, xói lở bờ biển và xâm nhập mặn sẽ
xuất hiện thường xuyên hơn. Dải ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng - sông
Thái Bình và đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng kinh tế trọng điểm của Việt
Nam, có mật độ dân cư cao và tập trung, địa hình bằng phẳng và thấp. Trong
những năm gần đây tại đồng bằng sông Cửu Long nước mă nâ xâm nhâ pâ sớm và
lâu hơn, lấn sâu vào nội đồng theo hệ thống sông kênh rạch với những diễn biến
phức tạp. Mực nước biển dâng sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản của các vùng ven biển Việt Nam và đã trở thành một
trong những vấn đề nan giải tại nhiều địa phương ven biển. Đặc biệt khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng có diện tích đất nhiễm mặn lớn. Nước
mặn xâm lấn vào sâu, các vùng nước ngọt giảm dẫn đến tình trạng thiếu nước cho
sản xuất nông nghiệp trong vụ đông xuân, thiếu nước cho sinh hoạt và nuôi trồng
thủy sản. Do đó, tình hình xâm nhập mặn ở các sông cũng diễn biến phức tạp theo
thời gian, chưa tuân theo một quy luật nhất định. Độ mặn và mức độ xâm nhập
mặn vào các sông phụ thuộc phần lớn vào thuỷ triều, độ mặn nước biển, chế độ
thuỷ lực dòng chảy trong sông, quá trình khai thác nước ngầm nước mặt và địa
hình
lòng
dẫn
Đồng bằng sông Cửu Long: là hạ lưu của sông Mê Kông (Mê Kông là một
trong ba châu thổ dễ bị tổn thương nhất trên thế giới). Do mùa mưa năm 2015 đến
muộn và kết thúc sớm, dòng chảy thượng nguồn sông Mê Kông bị thiếu hụt, mực
nước thấp nhất trong vòng 90 năm qua nên xâm nhập mặn đã xuất hiện sớm hơn
so với cùng kỳ hàng năm gần 2 tháng, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Cụ
thể, tình
trạng
xâm
nhập
mặn
hiện
nay
như
sau:
- Khu vực sông Vàm Cỏ: Độ mặn lớn nhất đạt 8,120,3 g/l, cao hơn TBNN từ
5,9 - 6,2 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l (mức bắt đầu ảnh
hưởng đến cây lúa) lớn nhất 90 - 93 km, sâu hơn TBNN 10 - 15 km.
- Khu vực các cửa sông thuộc sông Tiền: Độ mặn lớn nhất đạt 14,6 - 31,2 g/l,
cao hơn TBNN từ 3,2 - 12,4 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l
lớn nhất
4.565
km,
sâu
hơn
TBNN
20
25
km.
- Khu vực các cửa sông thuộc sông Hậu: Độ mặn lớn nhất đạt 16,5 - 20,5 g/l,
cao hơn TBNN từ 5,9 - 9,3 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l
lớn
nhất
55
60
km,
sâu
hơn
TBNN
15
20
km.
- Khu vực ven biển Tây (trên sông Cái Lớn): Độ mặn lớn nhất đạt 11,0 - 23,8
g/l, cao hơn TBNN từ 5,1 - 8,4 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l
lớn nhất 60 - 65 km, sâu hơn TBNN 5 - 10 km.
Trong thời gian tới, mặn tiếp tục xâm nhập, ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp, khả năng kéo dài đến đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 5/2016). Cụ thể,
như
sau:
- Các vùng cách biển đến 45 km: Nguồn nước ngọt xuất hiện rất ít và gần
như không có khả năng lấy nước ngọt từ cửa sông, gây ra tình trạng thiếu nước
cho sản xuất và nước sinh hoạt.
Do ảnh hưởng của xâm nhập mặn, từ cuối năm 2015 đến nay nhiều diện tích
cây trồng đã bị ảnh hưởng. ở vụ mùa . ở vụ mùa thu dông 2015, có khoảng 90.000
ha lúa bị ảnh hưởng dến năng suất, trong đó thiệt hại nặng khoảng 50.000 ha (kiên
giang 34.000 ha, Sóc trăng 6.300 ha, bạc liêu 5.800 ha…). Vụ đông xuân 20162016, có 104.000 ha lúa bị ảnh hưởng đế năng suất(chiếm 11% diện tích deo
trông). Dự kiến trong hời gian tới, diện tích bị ảnh hưởng khoảng 340.000 ha
(chiếm 35,5%diện tích).
Khu vực duyên hải miền trung: là nơi có khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả
nước
Năm 2013 Khu vực nam trung bộ có 17.277 ha cây trồng thiếu nước và xâm
nhập mặn trong đó chỉ riêng diện tích lúa là 15.637 ha. (Tổng cục thủy lợi, 2016).
Vùng lưu vực sông Hồng những năm gần đây lưu lượng nước lien tục xuống thấp
so với trung bình nhiều năm. Hang năm vùng ven biển đồng bằng song Hồng có
khoảng 10 đến 20% diện tích đất nông nghiệp vụ xuân bị hạn hán hoặc khó khan
về nguồn nước tưới. kết quả quan trắc cho thấy vào mùa kiệt nước phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp ở Hải Phòng, Thái Bình, nam Định Ninh Bình có độ mặn vượt
quá nồng độ cho phép, sông Hồng, sông Đáy, sông Văn Khúc, Sông Thái Bình
nước mặn đã lấn sâu vào 30km. (viện khoa học thủy lợi việt nam ,2015)
2.2.3. Tình Lụt bão
Theo Ban Chỉ Đạo chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn .Thiên tai gây ra những thiệt hại to lớn đối với
nền kinh tế của nước ta. Bão gây thiệt hại cho ngư dân đánh bắt cá trên biển, tàn
phá các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản, tàn phá hệ thống đê ngăn mặn đưa nước mặn
xâm nhập vào đồng ruộng và các khu vực dân cư ven biển, gió mạnh của bão gây
thiệt hại về nhà cửa, công trình, cây trái và mùa màng nhất là vùng đồng bằng sông
Hồng và Miền Trung. Trong những năm gần đây bão ảnh hưởng đến những vùng
vĩ độ thấp, đặc biệt là cơn bão số 5 đổ bộ vào vào Nam bộ đầu tháng 11 năm 1997
đã gây nhiều thiệt hại cho ngư dân vùng ngư trường rộng lớn phía Nam, nơi trước
đây ít chịu ảnh hưởng của bão.
Lũ trong các sông lớn luôn là sứp ép đối với trên 3000 km đê sông ở miền Trung,
đe doạ ngập lụt, tàn phá các khu dân cư, các vùng kinh tế quan trọng của đất nước.
Trên hệ thống đê sông Hồng ở Bắc Bộ và sông Cửu Long ở nam Bộ lũ đe doạ gây
ngập lụt hàng triệu ha đất canh tác, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người
dân. Những trận lụt năm 1945, 1969, 1971, 1986, 1996 ở trên hệ thống sông Hồng,
các năm 1961, 1966, 1978, 1984, 1995, 1996 ở đồng bằng sông Cửu Long thực sự
là các thiên tai mang tính quốc gia. Những thiệt hại do bão, lũ gây ra ở Việt Nam
trong hơn hai thập kỷ qua (theo tài liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn). Thực tế cho thấy thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay là do bão, lũ gây ra
năm 1996, sau đó là năm 1994 , 1986 và năm 1995, 1998, 2000 ( hầu hết những
năm này đều thiệt hại trên 100 triệu USD.
Kết qủa thống kê số lượng bão tăng qua các năm, nhưng điều đáng chú ý hơn là
bão giai đoạn 1990-2008 thường đến muộn hơn. Nếu như giai đoạn 1950-1960,
bão thường đổ bộ vào Việt nam vào tháng 8 thì giai đoạn 1990-2000 bão lại
thường xuất hiện tháng 10, 11 Kết quả thống kê cũng cho thấy, cường độ bão ngày
càng mạnh hơn và kéo theo nhiều hiểm họa sau bão. Nếu những năm trước thập kỷ
90, bão mạnh nhất chỉ ở cấp 12, giật trên cấp 12, nhưng những năm gần đây đã
xuất hiện siêu bão cấp 13 và giật tới cấp 15. Kết hợp với các thiên tai khác, hàng
năm ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung chịu thiệt hại nặng nề
do hậu quả của bão và hiện tượng thời tiết cực đoan.
Bảng 2.2.3.1 Thiệt hại do thiên tai đối với nông nghiệp tại Việt Nam (1995-2007)
Lĩnh vực nông nghiệp
Tất cả các lĩnh vực
Năm
(%)[1]
Triệu
Triệu
Triệu đồng
Triệu đồng
US$
US$
1995
58.369,0
4,2
1.,129.434,0
82,1
5,2
1996
2.463.861,0 178,5
7.798.410,0
565,1
31,6
1997
1.729.283,0 124,4
7.730.047,0
556,1
22,4
1998
285.216,0
20,4
1.797.249,0
128,4
15,9
1999
564.119,0
40,3
5.427.139,0
387,7
10,4
2000
468,239.0
32,2
5.098.371,0
350,2
9,2
2001
79.485,0
5,5
3.370.222,0
231,5
2,4
2006
954.690,0
61,2
18.565.661,0 1.190,1
5,1
2007
432.615,0
27,7
11.513.916,0
738,1
3,8
Thiệt hại TB/năm
781.764,11
54,9
6.936.716,6
469,9
11,6
Cơ cấu thiệt hại trong
0.67
1.24
GDP (%)
Nguồn: Tổng hợp từ nguồn của MARD, 1995-2007
Kết quả Bảng 2.2.3.1 cho thấy thiệt hại do thiên tai của ngành nông nghiệp nước ta
trung bình năm trong giai đoạn 1995-2007 là 781.74 tỷ đồng tương đương 54,9 triệu
đô la Mỹ. Thiệt hại do thiên tai trung bình năm đối với sản xuất nông nghiệp chiếm
0.67% giá trị GDP ngành, trong khi tổng thiệt hại tất cả các ngành chiếm 1,24%. Kết
quả này cho thấy cơ cấu thiệt hại do thiên tai trong giá trị ngành nông nghiệp thấp
hơn so với cơ cấu tổng thiệt hại trong GDP. Tuy nhiên, do giá trị nông nghiệp chiếm
tỷ trọng thấp trong GDP và lại là nguồn sống của trên 71, 41% dân số, do vậy bất cứ
thiệt hại nào do thiên tai đối với nông nghiệp sẽ mang tổn thương nhiều hơn đối với
nông dân nghèo và khả năng phục hồi sẽ khó khăn vì cần có thời gian dài hơn.
Cơ cấu thiệt hại trong nông nghiệp đối với tổng thiệt hại do thiên tai của tất cả các
ngành có xu hướng giảm trong giai đoạn 1996-2007. Kết quả phân tích tại Hình 2.1
cho thấy thiệt hại thiên tai cho tất cả các lĩnh vực ngày càng tăng nhưng thiệt hại
đối với nông nghiệp có xu hướng giảm. Ví dụ năm 1996, thiệt hại của ngành nông
nghiệp tương đương 2.463 tỷ đồng (31.6% tổng thiệt hại) thì đến năm 2007 chỉ còn
432 tỷ đồng tương đương 3.8%. Kết quả này cho thấy đây là dấu hiệu đáng mừng
của ngành nông nghiệp trong việc duy trì và áp dụng các biện pháp phòng chống
thiên tai bởi lẽ cơ cấu của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế chỉ giảm nhẹ,
22.27% năm 1995 xuống 18,14% năm 2008 (giảm 0,6% năm).
Hình 2.1. Diễn biến thiệt hại do thiên tai của ngành nông nghiệp giai đoạn 19932007
Tài Liệu Tham Khảo
Tài liệu trong nước
Cđng ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.
http://vea.gov.vn/vn/hoptacquocte/conguoc/Pages/conguocbiendoikhihauUN1992.
aspx
Ban Chỉ Đao chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu ngành
nđng nghiệp và phát triển nđng thđn. http://occa.mard.gov.vn/T%C3%A1c%C4%91%E1%BB%99ng-B%C4%90KH/catid/24/item/2823/danh-gia-thiethai-do-tac-dong-cua-bdkh-den-nong-n#
viện khoa học thủy lợi việt nam ,2015 báo cáo tổng kết nhiệm vụ "đánh giá ảnh
hưởng xâm nhập mặn đến sinh kế cộng đồng dân cư duyên hải bắc bộ, đề xuất giải
pháp thích ứng”.
Tổng cục thủy lợi, 2016 XIâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long
http://www.tongcucthuyloi.gov.vn/Tin-tuc-Su-kien/Tin-tuc-su-kien-tonghop/catid/12/item/2670/xam-nhap-man-vung-dong-bang-song-cuu-long--2015--2016---han-han-o-mien-trung--tay-nguyen-va-giai-phap-khac-phuc
Cục trồng trọt ,2016
Bộ nđng nghiệp và phát triển nđng thđn, 2016
Viện khoa học khí tượng thủy văn, 2016
tài liệu nước ngoài
IPCC, 1995: Climate Change 1995, The IPCC Second Assessment Synthesis of
Scientific-Technical Information Relevant to Interpreting Article 2 of the UN
Framework Convention on Climate Change
IPCC. 2001. Climate Change 2001: Synthesis Report, by R. Watson & Core
Writing Group, eds. Cambridge, UK, Cambridge University Press.
IPCC. 2001 b. Third Assessment Report: Working Group Report I. Cambridge,
UK, Cambridge University Press
IPCC. 2001c. Climate change in 2001, impact, adaptation and vulnerability. Third
Assessment Report: Working Group Report II.Cambridge, UK, Cambridge
University Press.
Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC)(2007), Climate Change
2007: The Scientific Basis. Contribution of Working Group I to the Fourth
Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, edited
by S. Solomon et al., Cambridge Univ. Press, New York.
IPMEurope website. 2002. http://www.nri.org/IPMEurope/homepage.htm/
Hulme, M., Barrow, E., Arnell, N., Harrison, P., Johns, T. and Downing, T.
1999. The relative impacts of human-induced climate change and climate change.
natural Nature, 397: 688-691
Wilkie, G.S., Shermoen, A.W., O'Farrell, P.H., Davis, I. (1999). Transcribed
genes are localized according to chromosomal position within polarized
Drosophila embryonic nuclei
Parry, M., Rosenzweig, C., Iglesias, A., Fischer, G. and Livermore, M. 1999.
Climate Change and World Food Security: A New Assessment. Global
environmental change, 9: 51-67.
Easterling, G. Meehl, S. Changnon, C. Parmesan, T.R. Karl, L.O.2000. Mearns
Climate extremes: observations, modeling, and impacts Science, 289 (2000),
pp. 2068-2074
Patterson, L. & Josling, T. 2001. Biotech Regulatory Policy in the United States
and the European Union: Origin of Transatlantic Trade Conflicts or Opportunities
for Collaboration? Report on the European Forum. Stanford University, Institute
for International Studies.
Bazzaz, F. & Sombroek, W., ed. 1996. Global Climate Change and Agricultural
Production: Direct and Indirect Effects of Changing Physiological, Hydrological
and Plant Processes. Rome, FAO and Chichester, UK, John Wiley
Rosenberg, N., Izaurralde, C., Brown, R. Thomson, A. 2001. Changes in
Agriculture and the Environment: How Greenhouse Gases and CO2 Emissions
May Affect Water Supply and irrigation in the United States. In promoting global
innovation in agricultural science and technology for sustainable agricultural
development. Proceedings of the International Conference on Agricultural Science
and Technology, 7-9 November 2001, Beijing, China
Gommes R. & Fresco, L. 1998. People Complain about Climate. What can
agricultural science and CGIAR do about it? Rome, FAO.
Gommes, R., du Guerny, J., Nachtergaele, F. & Brinkman, R. 1998. Potential
Implications of Sea Level Rise in Population and Agriculture. Rome, FAO.
Goulding, K. 2000. Treatment of Nitrate from Crop and Gardening. Land use and
management,16:145-151
Nicholls, R., Hoozemans, M. & amp; Marchand, M. 1999. Increased risk of
flooding and loss of wetland due to sea level rise: regional and global analysis.
Changing
the
Global
Environment,
9:
69-87
Baarse, G. 1995. Developing a Global Vulnerability Assessment Tool (GVA):
updating the number of people at risk from rising sea levels and the probability of
flooding. CZM-Center Publication No. 3, Ministry of Transport, Works and Water
Management,
Netherlands,
Netherlands
Arnell, N. 1999. Climate change and water resources. Changing the Global
Environment, 9: 31-49.
Hadley Center. 1999. Climate change and its impact. (http://www.metoffice.gov.uk/sec5/CR_div/COP5/)
Sutherst, R., Collyer, B. and Yonow, T. 1999. Vulnerability of Australian
agriculture to pests caused by climate change. Paper for GCTE Focus 3 on Food
and Forestry: Global Change and Global Challenges, 20-23 September, University
of
Reading,
UK
Gommes R. & Fresco, L. 1998. People Complain about Climate. What can
agricultural science and CGIAR do about it? Rome, FAO.
- Xem thêm -