Sử Trung Quốc
Nguyễn Hiến Lê
---------- Thông Tin Về eBook ---------Website: www.thuvien-ebook.com
Tên sách: Sử Trung Quốc
Biên Sọan: Nguyễn Hiến Lê
Nhà Xuất Bản: Văn Hóa
Năm Xuất Bản: 1997
Nguồn: Việt Nam Thư Quán
Mục Lục
Lời Nói Đầu
PHẦN I Thời Nguyên Thủy Và Thời
Phong Kiến
Chương I Khối Trung Hoa
Chương II Nguồn Gốc
Chương III Nhà Thương
Chương IV Nhà Chu
Chương V Nhà Tần (221 - 206 Trước
CN) (Thời của pháp gia)
Chương VI Tư Tưởng Trung Hoa
Thời Tiền Tần
PHẦN II Thời Quân Chủ
Chương I Nhà Hán (-206 - +220)
Chương II Thời Tan Giã Đầu Tiên
Của Đế Quốc
Chương III Thống Nhất Trở Lại ( 580
- 906)
Chương IV Tan Giã Lần Thứ Nhì
(906- 960)
Chương V Thống Nhất Và Phân Chia
Lần Thứ III
PHẦN III Thời Quân Chủ (Tiếp)
Chương I Dưới Sự Thống Trị Của
Mông Cổ: Nhà Nguyên ( 1277 -1367 )
Chương II Nhà Minh ( 1368 - 1644 )
Chương III Dưới Sự Thống Trị Của
Mãn Châu (1644-1911)
Phần IV Thời Dân Chủ
Chương 1 Những Năm Đầu Của Chế
Độ Cộng Hòa
Chương 2 Trung Hoa Dân Quốc
Chương 3 Trung Hoa Cộng Sản
Chương Kết
PHỤ LỤC Bảng Các Triều Đại
Lời Nói Đầu
Năm 1979, viết xong cuốn “Kinh
Dịch, một tổng hợp Trung triết thời Tiên
Tần”, tôi tính chấm dứt công việc biên
khảo để viết hồi ký, rồi nghỉ ngơi: đã gần
thất tuần rồi.
Năm 1981, bộ Hồi ký viết xong, tôi sắp
đặt lại các tủ sách ở Sài Gòn và Long
Xuyên, không ngờ có tới non năm chục
cuốn về lịch sử, văn minh Trung Hoa. Tôi
lấy ra đọc lại hết, mượn thêm được của
bạn 6 -7 cuốn nữa; và cũng như trên ba
chục năm trước khi tìm hiểu văn học Trung
Quốc, tôi vừa đọc vừa ghi chép, và rốt
cuộc viết thành bộ sử này, ngoài dự định
của tôi.
Trung Hoa ngày nay lớn gần bằng cả châu
Âu, dân số trên một tỉ (1 phần 5 dân số thế
giới), có truyền thống trọng sử, từ thế kỷ
thứ VIII trước Tây Lịch (đời Tuyên Vương
nhà Chu) đã có tín sử, và từ đó đời nào
cũng có những sử quan chép sử kỹ lưỡng,
có công tâm, cho nên tài liệu về sử của họ
nhiều vô cùng, rất có giá trị. Bốn năm chục
cuốn tôi được đọc, chỉ như một bụi cây
trong một khu rừng rộng, có thấm gì đâu,
cho nên tôi phải hạn chế sự tìm hiểu của
tôi.
Tôi cho lịch sử Trung Hoa là lịch sử
của một nền văn minh vô cùng độc đặc
(infiniment originale: Guillermaz), tuy ra
đời sau vài nền văn minh khác: Ai Cập,
Lưỡng Hà... nhưng tồn tại lâu nhất. Khoảng
3.000 năm trước, nó xuất hiện từ miền
trung du sông Hoàng Hà. Trong khi các bộ
lạc chung quanh đều bán khai thì nhà Ân
(cuối nhà Thương) và nhà Chu đã giỏi về
nông tang, đồ đồng, có một tổ chức xã hội
chặt chẽ, một tôn giáo có tính cách xã hội
(thờ Thượng đế, thần xã tắc, cha mẹ...), rất
ít mê tín, một vũ trụ quan duy vật (thuyết
âm dương) và một lối chữ tượng hình, hội
ý mà một số nhà ngôn ngữ học hiện nay
khen là có thể dùng làm lối chữ quốc tế
được; mà sự thực trong non 3.000 năm, nó
đã đóng vai trò ngôn ngữ quốc tế trong
“thế giới” của Trung Hoa gồm cả chục dân
tộc ở Đông Á.
Văn minh đó truyền bá lần lần ra các
miền chung quanh mà không phải dùng tới
võ lực; nó thu phục rồi khai hóa, đồng hóa
nhiều bộ lạc dã man, và cuối thời Chiến
Quốc nó đã lan rộng ra gần hết lưu vực hai
con sông lớn nhất của Trung Quốc: Hoàng
Hà và Dương Tử giang. Rồi nhà Tần thống
nhất Trung Quốc, chấm dứt chế độ phong
kiến, lại mở mang thêm đất đai tới hạ lưu
sông Tây Giang (Quảng Đông ngày nay).
Phía đông là biển. Phía tây và phía
bắc là những cánh đồng cỏ, những sa mạc
mênh mông, bạt ngàn, từ đó, các dân tộc
du mục hết lớp này tới lớp khác, đột nhập
vào đất Trung Hoa, cướp phá mùa màng,
súc vật..., người Trung Hoa phải xây
trường thành để chặn họ; từ nhà hán phải
chiến đấu với họ, dồn họ về các cánh đồng
cỏ, mới đầu có lẽ chỉ là để tự vệ, sau nhân
đó mà mở mang thêm bờ cõi, thành một
cuộc tranh dành đất đai suốt hai ngàn năm,
tới cuối nhà Thanh. Hễ Hán (Trung Hoa)
thịnh thì Hồ (du mục) lùi về phương Bắc
để đợi thời Hán suy để vượt trường thành
vào chiếm đất: mới đầu họ chiếm được
một phần miền Hoa bắc (các tỉnh Thiểm
Tây, Sơn Tây...), lần lần họ mạnh lên,
chiếm trọn được Hoa bắc, tới bờ sông
Dương Tử, sau cùng, đời Nguyên, Thanh,
có thời họ làm chủ hoàn toàn non sông của
người Hán hai lần: lần đầu một thế kỷ
(Nguyên), lần sau hai thế kỷ rưỡi (Thanh).
Họ chiếm đất, cai trị dân tộc Hán, dùng
văn tự, ngôn ngữ Hán, chỉ trong vài thế hệ
Hán hóa, thành người Hán, và khi người
Hán dành lại được chủ quyền, thì đất đai
của Hồ thành đất đai của Hán, con dân Hồ
cũng thành con dân Hán, nhờ vậy mà sau
thời Nam Bắc triều dân tộc Hán thêm
được dòng máu Tiên Ti, Tây Tạng, Thác
Bạt, sau thời Ngũ Đại, thêm được dòng
máu Sa Đà; sau thời Thanh thêm được
dòng máu Mãn, Mông, Hồi Hột và đế quốc
của họ rộng hơn tất cả các đời trước, trừ
đời Nguyên. Hiện tượng đó có thể nói là
độc nhất trong lịch sử nhân loại.
Hơn nữa, họ tiếp thu các văn minh
khác, một cách có “sáng tác” - theo ngôn
ngữ ngày nay - như tiếp thu đạo Phật của
Ấn mà làm giàu cho triết học của họ, cho
cả triết học Ấn nữa. Ngày nay họ đương
tiếp thu văn minh phương Tây và đã có ý
muốn sửa đổi chính sách của Nga: họ còn
dò dẫm, ta chờ xem họ có thành công hay
không.
Một điểm nữa tôi muốn nhấn mạnh:
ảnh hưởng của Khổng Tử tới lịch sử Trung
Hoa. Ông chủ trương vua phải là người có
tài, đức; ngôi vua không truyền cho con mà
truyền cho người hiền như Nghiêu truyền
cho Thuấn, Thuấn cho Vũ; nhưng thời ông,
sự truyền tử đã có từ lâu đời, không thể bỏ
được; ông chỉ có thể cải thiện chế độ, đào
tạo những kẻ sĩ có tài, để giúp bọn quý tộc
và lần lần thay họ mà trị nước. Những kẻ
sĩ đó đều được tuyển trong dân chúng, và
từ Hán, Đường trở đi, chế độ quân chủ
Trung Hoa có tính cách sĩ trị, không còn
giai cấp quý tộc cha truyền con nối nắm
hết các chức vụ lớn ở trong triều, ngoài
quận nữa. Đó là một tiến bộ rất lớn, người
phương Tây phải khen.
Ông lại giảm bớt quyền chuyên chế của
vua bằng cách đề cao nhiệm vụ, tư cách
của sử quan, gián quan; dạy cho vua, quan,
kẻ sĩ và thường dân rằng vua phải thương
dân như con, phải tôn trọng nguyện vọng
của dân ...; phải chăm lo cho dân đủ ăn, tài
sản trong nước phải quân bình, đừng có kẻ
nghèo quá, kẻ giàu quá. Suốt thời quân
chủ, ông vua sáng lập một triều đại nào
cũng nghĩ ngay đến vấn đề quân điền, chia
đất cho dân cày trước hết. Ngày nay Tôn
Văn và Mao Trạch Đông cũng theo chính
sách đó.
Sau cùng Khổng Tử có tinh thần
nhân bản rất cao. Ông hiếu hoàn trọng
trung dung, rất ghét sự tàn bạo, và đa số
các vua chúa Trung Hoa theo ông. Học
thuyết của Thương Ưởng, Hàn Phi làm cho
Tần mạnh lên, thống nhất được Trung
Quốc, nhưng khi thống nhất rồi, dân tộc
Trung Hoa không dùng nó nữa, từ Hán tới
Tống, trên 1.500 năm, không có một bạo
chúa nào như Tần Thủy Hoàng. Khi đạo
Khổng suy rồi, nhà Minh mới theo nhà
Nguyên (Mông Cổ) dùng chính sách độc
tài; nhà Thanh (Mãn Châu) cũng vậy, và
gần đây, còn tệ hơn nữa, Mao Trạch Đông
đã tự hào rằng đã giết kẻ sĩ gấp trăm lần
Tần Thủy Hoàng! Nhưng ông ta chưa chết
thì “cách mạng văn hóa” của ông ta đã
phải dẹp bỏ.
Về việc phân chia thời đại, tôi
không theo cách của đa số học giả phương
Tây (và học giả Trung Hoa bắt chước họ),
chia thành thời Thượng Cổ, Trung Cổ, Cận
Cổ, Cận Đại, Hiện Đại. Những danh từ đó
mượn của phương Tây, không áp dụng vào
lịch sử Trung Hoa được, trừ hai danh từ
Thượng Cổ và hiện đại. Vì lịch sử Trung
Hoa từ Hán cho tới cuối Thanh, tiến đều
đều, không thay đổi gì nhiều như lịch sử
phương Tây, không làm sao phân biệt
được tới đau là hết thời Trung Cổ, tới đâu
hết thời Cận cổ, rồi Cận cổ với Cận đại
khác nhau ra sao. Vả lại những danh từ đó
không cho ta một ý niệm gì rõ rệt, mỗi
người một khác. Chẳng hạn danh từ thời
Cận đại (Temps moderne), người thì cho
bắt đầu từ thời Nguyên (Eberhard), người
lại cho từ cách mạng 1911 (Dubarbier)
khác nhau 632 năm, còn gì vô lý bằng!
Tôi chỉ chia làm ba thời đại thôi:
- Thời Nguyên thủy và thời Phong kiến tôi
gom làm một (phần 1) vì không biết chắc
tới đâu hết thời phong kiến; vả lại thời
nguyên thủy không có gì đáng chép, chỉ có
8 - 9 trang, không tiện đặt riêng vào một
phần.
- Thời Quân chủ từ nhà Hán tới cách mạng
Tân Hợi (1911). Thời này dài nhất - trên
21 thế kỷ - tôi tách làm hai:
+ Từ Hán tới cuối Nam Tống, thời thịnh
nhất của văn hóa (Phần II).
+ Từ Nguyên tới cuối Thanh, thời suy cỷa
dân tộc Hán (Phần III).
- Thời Dân chủ từ cách mạng 1911 tới
ngày nay (Phần IV)
Tôi nghĩ như vậy vừa gọn vừa sáng,
chỉ đọc tên thời đại chúng ta cũng hiểu
ngay đặc điểm của nó và biết nó bắt đầu từ
thế kỷ nào, chấm dứt ở thế kỷ nào.
Nguyễn Hiến Lê
Long Xuyên, ngày 15 tháng 5 năm
1983
Đọc và sửa tại Sài Gòn, ngày 15 tháng
10 năm 1983
- Xem thêm -