Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự tiếp biến tư tưởng nho, phật, lão trong tiểu thuyết hồ biểu chánh...

Tài liệu Sự tiếp biến tư tưởng nho, phật, lão trong tiểu thuyết hồ biểu chánh

.PDF
97
199
114

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN LÊ THỊ HUYỀN TRANG SỰ TIẾP BIẾN TƯ TƯỞNG NHO, PHẬT, LÃO TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Sư phạm Ngữ Văn Giáo viên hướng dẫn: HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG Cần Thơ, 5-2013 1 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được đề tài này, ngoài sự cố gắng và sự nỗ lực của bản thân. Tôi còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều người. Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Huỳnh Thị Lan Phương đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô của trường Đại học Cần Thơ nói chung và quý thầy cô đang công tác tại Khoa Sư phạm, quý thầy cô tham gia giảng dạy lớp Sư phạm Ngữ văn khóa 35 nói riêng đã tận tâm truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt những năm qua và những kinh nghiệm sống quý báu trong khoảng thời gian tôi học tập tại trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện khoa Sư phạm, Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ đã cung cấp cho tôi những tài liệu quý giá để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã nhiệt tình quan tâm, động viên, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận văn. 2 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích, yêu cầu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. Những vấn đề chung 1.1 Khái niệm về tư tưởng Nho, Phật, Lão 1.1.1 Khái niệm về tư tưởng Nho giáo 1.1.2 Khái niệm về tư tưởng Phật giáo 1.1.3 Khái niệm về tư tưởng Lão giáo 1.2 Vấn đề chuyển biến tư tưởng ở giai đoạn đầu thế kỉ XX 1.3 Vài nét về Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 1.3.1 Vài nét về Hồ Biểu Chánh 1. 3.1.1 Cuộc đời 1.3.1.2 Sự nghiệp sáng tác 1.3.2 Vái nét về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 1.3.2.1 Đặc điểm nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 1.3.2.2 Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Chương 2. Sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong quan niệm về cuộc đời ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 2.1 Cuộc đời với hạnh phúc và đau khổ trong xã hội luân thường đạo lí 2.1.1 Cuộc đời với nhiều hạnh phúc khi xã hội có kỉ cương, đạo đức 2.1.2 Cuộc đời với bao khổ đau khi xã hội mất kỉ cương, đạo đức 2.2 Cuộc đời là vô thường, là chốn phù du Chương 3. Sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong quan niệm về con người ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 3.1 Con người bổn phận hành động theo lẽ phải 3.2 Con người lánh đời để giữ tâm sáng 3.3 Con người thoát tục để tìm cách thoát khổ C. PHẦN KẾT LUẬN Tài liệu tham khảo Mục lục 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam đã trải qua bao gian nan, đau thương nhưng rất là anh hùng, kiên cường, bất khuất. Lịch sử nước nhà trải qua bao nhiêu chặng đường sóng gió là nền văn học dân tộc cũng song hành, chuyển biến cùng lịch sử đất nước bấy nhiêu. Trên mỗi chặng đường văn học lại nổi bật lên những cây bút sáng giá. Trong số đó có nhà văn Hồ Biểu Chánh – Người có công mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Với tài năng và tâm huyết, Hồ Biểu Chánh đã để lại cho kho tàng văn học một khối lượng tác phẩm khá lớn. Không chỉ về số lượng mà còn nổi bật về chất lượng. Sáng tác của ông nói lên giá trị hiện thực và nhân đạo khá sâu sắc, gây sức hấp dẫn, lôi cuốn đối với độc giả nhiều thế hệ. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh luôn sống mãi với thời gian. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ta như đang sống trên vùng đất Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX, giai đoạn giao thời. Giúp ta hiểu hơn về cuộc sống, văn hóa, phong tục của con người Nam Bộ nói riêng và xã hội buổi giao thời nói chung. Sau mỗi tác phẩm là bức thông điệp mà Hồ Biểu Chánh muốn gửi gắm đến bạn đọc. Đó là những bài học đạo lí, những suy tư trăn trở của nhà văn về tình người, tình đời, giúp cho mỗi chúng ta tự suy ngẫm, nhìn nhận lại bản thân và có cách sống sao cho có ý nghĩa cao đẹp. Những năm đầu thế kỷ XX, Nam Bộ cũng như cả nước phải đón nhận nhiều lớn lao của lịch sử, nền văn hóa nước nhà theo đó cũng có nhiều đổi thay dữ dội. Cuộc giao lưu văn hóa đã dẫn đến sự sàng lọc, chọn lựa quyết liệt và không ít phức tạp. Làm thế nào để các yếu tố ngoại lai đi vào đời sống văn hóa người Việt mà vẫn không đánh mất các giá trị truyền thống vốn có của dân tộc - Đó là câu hỏi lớn của những ai nặng lòng với đất nước. Hồ Biểu Chánh cũng đã trăn trở rất nhiều cho vấn đề này. Ông không chỉ dè dặt trước các giá trị văn hóa phương Tây mà còn quan tâm chú ý duyệt xét lại những gì của phương Đông đã đi vào nước ta từ trước nay, để gạn lọc lại các yếu tố phù hợp với cuộc sống mới hiện đại. Chọn nghiên cứu đề tài “Sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh” chúng tôi muốn góp một phần nhỏ công sức vào việc tìm hiểu trong buổi đầu hội nhập văn hóa phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã có hướng giải quyết thế nào để không rời xa các giá trị văn hóa truyền thống, hướng con người đến một lối sống, cách sống tốt đẹp, tích cực nhất, đồng thời giúp tích lũy những kiến thức cần thiết cho bản thân trong quá trình công tác giảng dạy, nghiên cứu sau khi ra trường. Mặt khác, đề tài “Sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết Hồ 4 Biểu Chánh” là công trình nghiên cứu tương đối mới, ít ai đề cập đến vấn đề này và thấy đề tài này hay có ý nghĩa giáo dục cao. Nên trong luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu khám phá về sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, để từ đó lý giải, so sánh, đánh giá một cách khách quan những đóng góp quý báu của Hồ Biểu Chánh trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ở chặng đường hình thành và phát triển. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Giai đoạn trước năm 1945 Đây là thời kỳ tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ thực hiện sứ mệnh mở đường. Văn học quốc ngữ Nam Bộ mới hình thành nên chưa phát triển vững mạnh. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số công trình nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh và sáng tác của ông rất có giá trị. Như: Ba mươi năm văn học (1941) của Mộc Khuê; Nhà Văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan; Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm; Bàn về tiểu thuyết (1929) của Phạm Quỳnh; Lược khảo về tiến hóa của quốc văn trong lối tiểu thuyết (1932) của Trúc Hà, Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn. Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, là công trình đầu tiên nhìn nhận và đánh giá về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Theo Thiếu Sơn: “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đủ sức hấp dẫn để lôi cuốn độc giả Việt Nam ham muốn đọc truyện Tàu trở về đọc truyện ta để nhớ tới thân phận con người Việt Nam đang sống trong xã hội Việt Nam và đương là nạn nhân của chế độ, một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến mà bọn người được ưu đãi là những ông quận, những ông làng, những ông cử con quan và những ông con nhà giàu địa chủ, đặc biệt nhất là tác giả lại về phe những người nghèo hèn, yếu thế, những tá điền và nông dân” [tr. 40]. Thiếu Sơn đã có những nhận xét khá tinh tế về tài quan sát của Hồ Biểu Chánh, nhờ đó mà nhà văn Nam Bộ này đã sáng tạo được các nhân vật đúng với khuôn mẫu người đời. Thiếu Sơn còn ghi nhận: “Hồ Biểu Chánh cũng kể là người có công với văn học nước nhà, nói riêng về lối viết tiểu thuyết” [tr. 49]. Nhà Văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan đã hướng ngòi bút của mình cho mảng văn học chữ quốc ngữ ở Nam Bộ giai đoạn mới hình thành. Ông đã từng nhắc đến: “Nhà tiểu thuyết nổi tiếng đã một thời” – Hồ Biểu Chánh. Ngọc Phan đã giới thiệu đôi nét về cuộc đời, một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh: Cha con nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa,… Bên cạnh đó, ông còn có những nhận định về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong chặng đường phát triển của văn học: “Dù sao, nếu đã học những tiểu thuyết của nhà văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải 5 nhận rằng từ Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết nước ta bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới ngày nay là lúc có thể chia ra nhiều ngã, phân ra nhiều loại” [tr. 336]. Nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Vũ Ngọc Phan đã khéo léo đặt trong mối quan hệ so sánh với Hoàng Ngọc Phách để rồi đưa ra nhận xét tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng, gần gũi và đời thường hơn. 2.2 Giai đoạn 1945 – 1975 * Ở miền Bắc: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1956-1957) của nhóm Lê Qúy Đôn; Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 4 (1962) của Nguyễn Đình Chú; Lược thuật các tác gia Việt Nam (1972) của nhóm Trần Văn Giáp; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) của Phan Cự Đệ; Việt Nam văn học sử trích yếu (1949) của Nghiêm Toản. Lược thuật các tác gia Việt Nam (1972), nhóm Trần Văn Giáp có nhắc đến Hồ Biểu Chánh trong hơn 100 tác giả Việt Nam. Nhóm tác gia chỉ nêu tên tác giả để xem tiểu thuyết Nam Bộ có những tác phẩm nào có trước so với tiểu thuyết miền Bắc. Tác giả viết: “thế thì tiểu thuyết lãng mạn có thể không phải chỉ xuất hiện trước tiên ở miền Bắc từ năm 1921, 1922 với Cành lê điểm tiết, Cuộc tang thương và từ năm 1925 với Tố Tâm mà có lẽ xuất hiện ở miền Nam từ nhiều năm trước thời gian đó (1922). Ở Nam bộ, U tình lục xuất bản năm 1909 hay 1913? Lỗi bước phong tình và Oan kia theo mãi tiếc rằng không biết rõ nội dung nhưng cái tên của nó cũng có nói lên phần nào tính lãng mạn của tiểu thuyết” [tr. 61]. Nhóm tác gia còn ghi nhận về số lượng tác phẩm và giá trị nội dung trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: “Về mặt văn học, Hồ Biểu Chánh viết khá nhiều tiểu thuyết thiên về khuynh hướng hiện thực và đạo lý, có đến 60 tập vừa ngắn vừa dài” [tr. 114]. Từ đây, giúp các nhà nghiên cứu rất nhiều trong việc tiếp cận tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) của Phan Cự Đệ là công trình nghiên cứu khá nhiều về tiểu thuyết Việt Nam. Trong đó có tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, tác giả còn đưa ra nhận xét về những đóng góp, cống hiến của Hồ Biểu Chánh và còn chỉ ra những hạn chế trong tiểu thuyết của ông: “khuynh hướng đạo lý giúp cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh giữ được truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt Nam cổ điển” đồng thời ông cũng nói rằng “khuynh hướng đạo lý đồng thời hạn chế nội dung hiện thực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh” [tr. 33]. * Ở miền Nam: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) của Phạm Thế Ngũ; Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng; Việt Nam văn học sử (1967) của Bùi Đức Tịnh; Những bước đầu tiên của báo chí, tiểu thuyết, thơ mới (1974) của Bùi Đức Tịnh; Lịch sử tiểu thuyết Việt Nam và hàng ngũ các tiểu thuyết gia 6 Việt Nam qua các thời đại (1974) của Lê Huy Oanh; Từ truyện đến tiểu thuyết Việt Nam và một quan điểm văn học (1974) của Doãn Quốc Sĩ; Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974) của Nguyễn Khuê. Khi viết về Hồ Biểu Chánh in trong không gian và khoảnh khắc năm 1968, Huỳnh Phan Anh phát hiện khá nhiều nét nổi bật về giá trị hiện thực, đạo đức, đề tài, ngôn ngữ, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: “Kẻ đi trước mở đầu một truyền thống, có phải cánh cửa đã khép lại sau Hồ Biểu Chánh? Có thể có hơn một trường hợp Hồ Biểu Chánh trong văn chương” [tr. 206]. Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974) của Nguyễn Khuê, đây là công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Biểu Chánh một cách công phu và có hệ thống. Thân thế và sự nghiệp văn chương về báo chí, biên khảo, thơ ca của Hồ Biểu Chánh được trình bày khá đầy đủ. Tác giả đặc biệt quan tâm tiểu thuyết, ông đã phân tích, nghiên cứu và ghi nhận những đóng góp của Hồ Biểu Chánh trong nền văn học nước nhà. Ông đi sâu nghiên cứu 14/64 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Từ những cái nhìn rất riêng của tác phẩm, Nguyễn Khuê đã đi đến khái quát về nội dung và những nét nghệ thuật tiêu biểu trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Tác giả đã khẳng định và ghi nhận công lao của Hồ Biểu Chánh: “Tiểu thuyết Việt Nam từ Hồ Biểu Chánh mới bắt đầu những bước thật vững chắc và ông là nhà tiểu thuyết quan trọng bậc nhất ở giai đoạn 1913 – 1932” [tr. 127]. Nhìn chung sáng tác và tác gia Hồ Biểu Chánh được giới nghiên cứu quan tâm và đánh giá rất cao về vị trí, vai trò đối với nền văn học dân tộc. Nhưng do đất nước lâm vào hoàn cảnh chiến tranh và bị chia cắt điều kiện giao lưu hạn chế nên việc nhận định vai trò, giá trị sáng tác và Hồ Biểu Chánh chưa được đầy đủ. 2.3 Giai đoạn sau 1975 Hơn một thời gian dài, đất nước trải qua kháng chiến trường kì với giặc ngoại xâm, với biết bao mất mác, hy sinh và gian khổ. Nhưng cuối cùng, đất nước cũng được thống nhất, Bắc - Nam đoàn tụ một nhà. Sự thống nhất đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, tìm hiểu và giao lưu văn học dân tộc. Năm 1988, Hội thảo khoa học về Hồ Biểu Chánh tại Tiền Giang, Nhà xuất bản tổng hợp Tiền Giang đã tái bản một số lượng tác phẩm lớn các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. 30 bài tham luận của giới nghiên cứu phê bình, Hoài Anh lược thuật với tựa đề Hội thảo khoa học về Hồ Biểu Chánh in trong phê bình bình luận văn học, soi chiếu nhiều khía cạnh về cuộc đời và văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Trong đó có một số 7 luận điểm được đi sâu như: mối quan hệ giữa con người và tác phẩm Hồ Biểu Chánh, đánh giá sự nghiệp văn chương của Hồ Biểu Chánh, vấn đề công chúng văn học đối với tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vào giảng dạy trong nhà trường. Khi nhận xét về giá trị tư tưởng trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, giáo sư Nguyễn Lộc cho rằng: “Điều Hồ Biểu Chánh quan tâm sâu xa và thể hiện đậm nét trong tác phẩm của mình là: làm thế nào cho xã hội có được phong hóa lành mạnh(…). Thái độ của ông là tìm cách dung hòa cái mới và cái cũ, theo ông cái mới và cái cũ đều có những ưu điểm riêng của nó”. Hay tiến sĩ Lê Ngọc Trà lại nói rằng: “Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó mô phỏng phong tục hay tuyên truyền đạo lí, mà ở chỗ nó thông qua mô tả phong tục, kết hợp tư tưởng là chủ nghĩa hiện thực(…). Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lí đi kèm với nói chuyện đời thường” [tr. 74]. Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Ngọc Hiếu (Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang) nhận xét: “Đọc các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, ta thấy tác giả thường chú trọng nhiều vào những biểu hiện bên ngoài như sắc diện, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,… của nhân vật. Tâm lý nhân vật được bộc lộ chủ yếu từ những biểu hiện bên ngoài ấy” [tr. 74]. Về ngôn ngữ, giáo sư Cù Đình Tú, nhà nghiên cứu Hồng Dân, Trịnh Hoàng Mai đều nhất trí ở chỗ “Hồ Biểu Chánh đã vận dụng khẩu ngữ hàng ngày nâng lên thành ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm, khác với lối văn ước lệ, biền ngẫu trước đó” [tr. 75]. Năm 1988, Trần Đình Hượu - Lê Trí Dũng trong Giáo trình văn học Việt Nam 1900-1930 khẳng định Hồ Biểu Chánh là người viết tiểu thuyết nhiều nhất ở Việt Nam trước 1930. Cũng trong năm 1988, Hoài Anh Thành Nguyên - Hồ Sĩ Hiệp trong sơ thảo Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỉ XIX (1900 - 1954) có nhận xét khái quát về Hồ Biểu Chánh: “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có khuynh hướng luân lý, hầu hết truyện của ông đều dẫn đến một kết cục có hậu, thiện bao giờ cũng thắng ác, nhằm mục đích răn đời”. Cuộc Hội thảo khoa học về Hồ Biểu Chánh đã giúp chúng ta có thể nhìn nhận một cách khoa học, nghiêm túc mang tính đại thể sáng tác và con người nhà văn Hồ Biểu Chánh. Giúp bày tỏ thái độ trân trọng, biết ơn đối với nhà văn miệt vườn Nam bộ. Từ đó, cho ta một số kinh nghiệm trong việc nhận diện giá trị đích thực về các tác giả và tác phẩm của nền văn học trước cách mạng tháng Tám. Trong Từ điển văn học (1983), Nguyễn Huệ Chi cũng đã ghi nhận sự đóng góp của Hồ Biểu Chánh. Năm 1995, trong công trình Mấy vấn đề học thuật Việt Nam, Nguyễn Q.Thắng ghi nhận công lao của Hồ Biểu Chánh với tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Sau khi trình bày về các tác giả và tác phẩm mở đường, tác giả đã đưa ra đánh giá: “Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết gia có nhiều nét đặc thù Nam Bộ” [tr. 27]. Điều đó 8 thể hiện qua thư tịch đồ sộ của Hồ Biểu Chánh để lại và quan trọng là “tiểu thuyết của ông có những nét mới rất thích hợp với cảm thụ nghệ thuật của đồng bào miền Nam nói riêng và hầu hết giới bình dân toàn quốc” [tr. 29]. Theo Nguyễn Q.Thắng, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là “một bức tranh hiện thực, đa dạng, giúp bạn đọc toàn quốc thấy rõ được bộ mặt thật của xã hội “miệt vườn” Nam bộ” [tr. 29]. Lời nhận định đó còn được chứng minh: “Những điều đó được thể hiện qua hàng loạt tác phẩm về mọi giới, mọi người ở miền Nam được ông trình bày bằng một vốn ngôn từ trong sáng, bình dị, khỏe khoắn của người lao động” [tr. 30]. Và tất cả điều đó được thể hiện rõ qua “tình cảm, tâm lí của mỗi nhân vật được thể hiện một cách chân thành mà vẫn duyên dáng của những con người biết yêu sự thật, lẽ phải” [tr. 30] Năm 1998, trong công trình nghiên cứu văn học sử Văn học quốc ngữ ở Nam kì 1865-1930, Bằng Giang phân tích khá kĩ con đường đi đến tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đồng thời tác giả cũng nhận định sở trường tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Ông viết: “Phần lớn sáng tác chính của ông là tiểu thuyết xã hội luân lý phong tục” [67; 253] Năm 1999, trong công trình Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam của Nguyễn Q.Thắng, với 953 tác giả để lại di sản văn minh cho văn hóa sử nước nhà, trong đó có Hồ Biểu Chánh. Tác giả đã khái quát cuộc đời, sự nghiệp văn chương của Hồ Biểu Chánh. Trân trọng và ghi nhận công lao của nhà văn Nam Bộ, tác giả viết: “Phần đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào nền học thuật Việt Nam quả thật vô cùng phong phú. Điều này không một nhà nghiên cứu nào có thể phủ nhận được. Phủ nhận chỉ làm cho văn học thêm nghèo hơn trong một nền văn học thiếu vắng nhiều khuôn mặt như Hồ Biểu Chánh” [tr. 296]. Năm 2000, Trần Hữu Tá, trong bài viết Nghĩ về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam Bộ trong Tạp chí văn học số 10 năm 2000, xem xét sáng tác của Hồ Biểu Chánh trong tiến trình chung của sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ trong ba thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Năm 2001, trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ in trong Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Bích Thu tập trung vào việc Hồ Biểu Chánh tiếp thu, kết hợp tinh hoa của văn học phương Đông và phương Tây vào tác phẩm của mình để tạo ra: “Một bộ từ điển Bách khoa về đời sống xã hội và con người Nam Bộ trong những thập niên đầu thế kỷ XX” [tr. 603]. Và có hai công trình Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945 do Vũ Tuấn Anh - Bích Thu chủ biên và Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Nguyễn Kim Anh chủ biên. 9 Năm 2002, Nguyễn Huệ Chi, trong bài viết Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu in trong Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, xem xét tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình vận động của văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ hơn nửa thế kỉ đầu. Nguyễn Huệ Chi còn nhận xét và phân tích khá kĩ những nét tiến bộ và hạn chế về nghệ thuật của các nhà văn Nam Bộ trong giai đoạn hình thành và phát triển. Hồ Biểu Chánh cũng được nghiên cứu và đánh giá khá đầy đủ: “Về tư duy nghệ thuật họ chưa hề biết đến một dòng trần thuật của người kể chuyện cũng như truyện của họ chưa cho phép người đọc thoát ra khỏi kết cấu cổ điển hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên. Họ chính là thế hệ gối đầu: với các nhà văn của những năm 20 họ hình như mới quá, nhưng với các nhà văn những năm 30 họ lại với tay không kịp. Đó là cái vị trí rất vẻ vang nhưng cũng là chổ hạn chế của họ” [tr. 672]. Năm 2004, công trình nghiên cứu văn học sử Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của nhóm Nguyễn Kim Anh đã phát thảo và tái hiện khá đầy đủ những gương mặt làm nên diện mạo của tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ. Trong 30 gương mặt tiêu biểu, Hồ Biểu Chánh được xem là nhà tiểu thuyết hiện thực. Trong Từ điển văn học bộ mới do Đỗ Đức Hiểu chủ biên và Trần Hữu Tá, Nguyễn Huệ Chi là người biên soạn, ngoài việc tiếp nối những khẳng định về nhà văn Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Huệ Chi còn đưa vào ba mục tác phẩm: Ai làm được, Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền với những tóm tắt tỉ mỉ và nhận định đánh giá các tác phẩm. Hồ Biểu Chánh được các tác giả nhìn nhận với sự trân trọng và được đánh giá một cách toàn diện hơn về những đóng góp của ông trong tiến trình hiện đại hóa văn học nước nhà. Tạo cho người đọc có cái nhìn khái quát và khá sâu sắc về nhà văn Hồ Biểu Chánh. Năm 2006, bài viết “Đời sống văn hóa ở nông thôn Nam Bộ trong một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh” trong tạp chí “Nghiên cứu văn học” số 7 (413), tháng 7 2006 do Huỳnh Thị Lan Phương nghiên cứu đã góp phần làm rõ hơn ý nghĩa sáng tác của Hồ Biểu Chánh ở những khía cạnh cụ thể. Tác giả đã đi sâu phân tích một cách khá toàn diện về đời sống văn hóa ở nông thôn Nam Bộ được hiện lên trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Như nghiên cứu về người nông dân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Huỳnh Thị Lan Phương có bài viết “Cái nhìn của Hồ Biểu Chánh về người nông dân Nam Bộ” in trong Bình luận văn học. Tác giả đã phác thảo cho chúng ta chân dung về những người nông dân ở vùng đất Nam Bộ với những đức tính rất đáng quý. Họ nghèo tiền nghèo bạc chứ không nghèo tình nghèo nghĩa. Sự thẳng thắn và chất phác luôn là điểm sáng tạo nên nét đáng trọng ở những người nông dân. Hy vọng họ sẽ đổi đời, đồng thời: “Ngòi bút hiện thực của ông sắc nhọn, bởi lật từng ngõ ngách của cuộc đời bất công, để phê phán, tố cáo. Nhưng phê phán tố cáo mà không hướng đến mục đích đả kích, lật đổ mà chỉ hướng đến chấn chỉnh, sửa đổi”. Đó là một 10 cách nhìn lạc quan, tin vào viễn cảnh tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Những bài viết trên được phân tích khá chi tiết, với những lập luận chặt chẽ. Tạo cho người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về một tác giả Nam Bộ rất mực nhân đạo. Đặc biệt, với việc xây dựng Website www.hobieuchanh.com đã mở rộng hơn về nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu sáng tác của Hồ Biểu Chánh cho mọi độc giả trong và ngoài nước. Và trong công trình Hồ Biểu Chánh - Người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhóm tác giả Trang Quan Sen - Phan Tấn Tài - Nguyễn Văn Nở đã tập hợp những bài viết về Hồ Biểu Chánh với nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Công trình được xuất bản năm 2006 bởi Nhà sản xuất văn nghệ. Các bài viết tập trung đi sâu vào việc đánh giá giá trị nội dung và tư tưởng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Từ đây, bạn đọc có thể tìm thấy những món ăn tinh thần vô cùng đặc sắc của miền đất Nam Bộ vang bóng một thời. Năm 2007, Nguyễn Q.Thắng, trong Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tiếp tục nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với một cái nhìn mới và có những nhận xét sâu sắc hơn về nội dung và tinh nhạy hơn về nghệ thuật. Ông đã có nhận xét về Hồ Biểu Chánh: “Trong lịch sử văn học, Hồ Biểu Chánh được xem là nhà văn đạo lý. Ông viết văn với ý hướng “văn dĩ tải đạo” nhằm lên án, tố cáo bất công xã hội, đương thời xiểng dương, đề cao nền đạo lý cổ truyền Việt Nam”. Năm 2011, Sự kế thừa và đổi mới quan niệm về con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh được đăng trên tạp chí Khoa học số 17b, 2011, trường Đại học Cần Thơ, của Huỳnh Thị Lan Phương đã góp phần làm rõ hơn quan niệm con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Tác giả cho ta thấy Hồ Biểu Chánh đã có sự tiếp nhận những tư tưởng như Nho, Phật, Lão về quan niệm con người nhưng ông đã có sự tiếp biến và nghiên về Nho giáo nhiều hơn. Ông hòa quyện cả ba tưởng Nho, Phật, Lão cũng nhằm mục đích hướng con người đến điều thiện để có được hạnh phúc chân chính: “Hồ Biểu Chánh vẫn thấy rằng con người biết sống theo bản ngã trong chừng mực nhất định, nếu không quên chức năng phận vị là con người lý tưởng nhất. Hạnh phúc sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và cái tôi. Chính quan niệm trên đã tạo cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng và có sức sống lâu bền trong lòng độc giả” [tr. 14]. Từ đó, ta thấy được tấm lòng yêu thương, trân trọng con người của Hồ Biểu Chánh, ông luôn mong muốn con người có được cuộc sống hạnh phúc trong một xã hội tốt đẹp. Mỗi bài viết là một công trình nghiên cứu, một viên gạch góp phần xây dựng nên bức chân dung của một nhà văn Hồ Biểu Chánh rất đỗi tài hoa và đức độ. Bức chân dung này không chỉ được xây bởi một người mà được kết hợp qua nhiều ngòi bút của các nhà nghiên cứu. Điều đó, chứng minh một sự thật, Hồ Biểu Chánh là một nhà văn có tầm quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà nói chung và văn học Nam Bộ nói riêng. 11 3. Mục đích, yêu cầu Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có nội dung bàn đến nhiều vấn đề liên quan đến cuộc sống con người. Ông là người theo tân học nhưng không xa lạ đối với những gì của phong kiến, thánh hiền. Ông là một nhà văn mang tư tưởng trung hòa, theo mới nhưng không có ý thức đả phá cũ. Những gì của truyền thống có giá trị tích cực ông vẫn ra sức giữ gìn. Đối với tư tưởng của phong kiến Hồ Biểu Chánh không bài bác mà đang muốn duyệt xét lại để chọn lọc phần tiến bộ nhất. Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu những gì đã được Hồ Biểu Chánh chọn lọc và hiểu rõ hơn những trăn trở, giằng co của ông trong quá trình đấu tranh đầy phức tạp để có được những hướng đi phù hợp cho vấn đề lối sống, cách sống ở buổi giao thời. Hiểu rõ vấn đề này, chúng ta càng thấy hết những giá trị của nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Từ đó có những nhận định hợp lí và xác đáng hơn về tiểu thuyết của ông. 4. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng khảo sát của đề tài là một số tiểu thuyết nói về sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão của Hồ Biểu Chánh. Trong đó chúng tôi tập trung khám phá về sự tiếp biến Nho, Phật, Lão trong quan niệm về cuộc đời và con người ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Hồ Biểu Chánh là một nhà văn tài cao đức độ của Nam Bộ với sự nghiệp sáng tác phong phú, ông đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm rất đồ sộ. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và nguồn tư liệu, chúng tôi xin giới hạn đối tượng nghiên cứu của mình mà chỉ tập trung khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến tư tưởng Nho, Phật, Lão. 5. Phương pháp nghiên cứu Khi đến với đề tài này, chúng tôi thực hiện theo từng công đoạn và vận dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lịch sử: Cuộc đời Hồ Biểu Chánh từ lúc thiếu thời cho đến khi trưởng thành, làm quan, hưu trí gắn liền với những biến động lớn lao của lịch sử dân tộc. Do đó, nghiên cứu sự tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không thể tách rời lịch sử, những sự kiện văn học vì hoàn cảnh xã hội đương thời ảnh hưởng không nhỏ đến hành động và tư tưởng sáng tác của ông. - Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp này sử dụng nhằm khảo sát 12 tiến tới cái nhìn toàn diện tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã xây dựng trên cơ sở kế thừa truyền thống và sáng tạo những yếu tố cách tân trong việc tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết của ông. Đó là mối quan hệ tiếp thu - chuyển biến - sáng tạo giữa văn học trung đại và văn học hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: Văn hóa chúng ta chấp nhận hiện tượng tam giáo đồng nguyên nên có sự đan xen giữa Nho, Phật, Lão trong mối quan hệ so sánh với nhau. Thêm vào đó, trong luận văn này, chúng tôi tiến hành so sánh Hồ Biểu Chánh với các nhà văn, nhà thơ trung đại khác cũng chịu ảnh hưởng, chuyển biến tư tưởng Nho, Phật, Lão nhằm tìm ra sự khác biệt của Hồ Biểu Chánh qua sự ảnh hưởng, tiếp biến đó. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này nhằm tìm hiểu, phát hiện những đặc điểm tiếp biến tư tưởng Nho, Phật, Lão trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó tìm ra sự đóng góp tích cực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình hình thành tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX. 13 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Khái niệm về tư tưởng Nho, Phật, Lão 1.1.1 Khái niệm về tư tưởng Nho giáo Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, chữ “Nho” là dùng để chỉ những người có học thức, biết lễ nghi. Nho giáo là hệ thống giáo lý, giáo điều của các nhà Nho đặt ra nhằm mục đích tổ chức xã hội sao cho có hiệu quả cao. Những cở sở của nó được hình thành từ đời Tây Chu, đặc biệt là với sự đóng góp của Chu Công Đán. Đến đời Xuân Thu, xã hội loạn ly, Khổng Tử và các môn đệ (trong đó có Mạnh Tử) mới nghiên cứu sang định, hệ thống hóa lại và phát triển tư tưởng của các bậc thánh hiền thành một hệ thống triết học nhân sinh (hữu vi) để xã hội không còn bị hỗn loạn, luân thường bị đảo ngược và tích cực truyền bá Nho giáo, vì vậy, Khổng Tử được xem là người sáng lập ra Nho giáo. Sách kinh điển của Nho giáo bao gồm hai bộ: Bộ thứ nhất là Lục Kinh gồm sáu cuốn, phần lớn có từ trước thời Khổng Tử; đến Khổng Tử thì ông đã gia công san định, hiệu đính và giải thích. Những cuốn đó là: 1) Kinh Thi là sách sưu tập các thơ ca dân gian. 2) Kinh Thư là sách ghi lại những truyền thuyết và biến cố về các đời vua cổ. 3) Kinh Lễ (vốn gọi là Lễ ký) là sách ghi chép những lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện duy trì và ổn định kỉ cương, trật tự xã hội. 4) Kinh Dịch khởi thủy vốn là một sưu tập những khái niệm âm dương, bát quái… ở dạng ký hiệu. 5) Tác phẩm mà Khổng Tử tâm đắc nhất là kinh Xuân Thu. “Xuân Thu” nguyên là sách sử kí của nước Lỗ quê hương ông, được Khổng Tử bổ sung và sửa chữa. Cuốn thứ sáu là kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính. Nhưng về sau, kinh Nhạc bị thất lạc. Vì vậy, “Lục kinh” thành ra chỉ còn lại Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò Khổng Tử đã tập hợp những lời dạy của thầy lại mà soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Sâm dựa vào lời thầy mà soạn sách Đại học dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Khổng Cấp cháu nội của Khổng Tử, viết ra cuốn Trung dung nhằm phát triển tư tưởng của Khổng Tử về cách sống dung hòa. Đến thời Chiến Quốc, xã hội loạn lạc, các học phái nổi lên 14 như nấm, có Mạnh Tử là người kế tục xuất sắc nhất tư tưởng của Khổng Tử; những lời của ông về sau được học trò biên soạn lại thành sách Mạnh Tử. Thời Hán, “Đại học” và “Trung dung” chỉ là hai thiên trong “Lễ ký”, đến đời Tống, chúng được tách ra cùng với “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” tạo thành bộ sách kinh điển thứ hai của Nho giáo, gọi là Tứ Thư. Tóm lại: “Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng - giai đoạn hình thành Nho giáo. Đó là Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiên Tần (trước thời Tần). Khởi đầu từ Khổng Tử và kết thúc bằng Mạnh Tử nên triết lý Nho giáo nguyên thủy cũng được gọi là tư tưởng Khổng – Mạnh” [tr. 479] Nho giáo đã định ra một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều cốt lỗi là đào tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu - mẫu người lý tưởng đó gọi là Quân Tử. Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tự đào tạo, phải Tu Thân, có ba tiêu chuẩn chính cho việc tu thân: a) Đạt “đạo”. Đạo là con đường, là những mối quan hệ xã hội mà con người phải biết cách ứng xử trong cuộc sống: “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo kết giao bạn bè”. [Trung dung 20]. Năm đạo “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu” đó gọi là ngũ luân. b) Đạt “đức”. Người quân tử, theo Khổng Tử, người có ba điều nhân - trí - dũng thì gọi là đạt đức [Trung dung 20]. Về sau, Mạnh Tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa” nên thành bốn đức: nhân, nghĩa, lễ, trí. (Đến đời Hán thêm “tín” thành năm đức nhân, lễ, nghĩa, trí, tín gọi là ngũ thường). c) Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức” đòi hỏi người quân tử phải có, thì người quân tử còn phải biết thi - thư -lễ - nhạc. Tu Thân rồi, bổn phận của người quân tử là phải ra Hành Đạo, nghĩa là phải ra tay hành động, phải ra làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được thể hiện thành công thức “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong công việc cai trị là hai phương châm: a) Phương châm thứ nhất là nhân trị. Nhân là tình người. Nhân trị là cai trị bằng tình người. Cai trị bằng tình người là yêu người, là coi người như bản thân mình. Khổng Tử chú trọng coi “nhân” là phạm trù cao nhất của luân lý, đạo đức, là gốc của lễ, nhạc. b) Phương châm thứ hai là chính danh. “Chính danh tức là sự vật phải đúng như 15 tên gọi, mọi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong cai trị, như lời Khổng Tử nói với Tề Cảnh Công, là phải làm sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” [Luận ngữ, Nhan Uyên 11]. Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học thuyết Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được những người sáng lập tóm gọn trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và chín chữ ấy, đến lượt mình, thì được thu vào trong hai chữ cai trị mà thôi. Nguồn gốc của Nho giáo: Nho giáo là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, nhưng văn hóa Trung Hoa, như ta đã biết, là sự tổng hợp của văn hóa lưu vực sông Hoàng Hà (vốn được cấu tạo từ văn hóa du mục Tây Bắc và văn hóa nông nghiệp khô Trung Nguyên) với văn hóa nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á. Do vậy, Nho giáo là đứa con tinh thần được ra đời và nuôi dưỡng bởi hai dòng sữa: truyền thống văn hóa du mục phương Bắc và truyền thống văn hóa nông nghiệp phương Nam. Chất du mục phương Bắc mà Nho giáo nguyên thủy đã tiếp thu thể hiện nổi bật ở các điểm sau: Thứ nhất là tham vọng “bình thiên hạ”. Coi trọng cái quốc tế, coi nhẹ cái quốc gia chính là một trong những nét đặc trưng của truyền thống văn hóa gốc du mục. a) Tham vọng “bình thiên hạ” dẫn đến tư tưởng bá truyền, coi khinh những dân tộc miền biên viễn, cho rằng chỉ có mình là trung tâm, còn “tứ di” xung quanh là “bỉ lậu” cả. Tham vọng bành trướng và tư tưởng bá truyền đều là những biểu hiện của tinh thần phi dân chủ. Ngoài thì coi thường nước khác, dân tộc khác; trong thì coi thường dân chúng, coi thường phụ nữ, đối lập “người quân tử” (cai trị) với “kẻ tiểu nhân” (dân chúng). b) Văn hóa gốc du mục vốn có truyền thống trọng sức mạnh. Muốn mạnh thì trước hết phải dũng cảm, không biết sợ. Cái chất “dũng” đó đã được Khổng Tử đưa vào Nho giáo thành một trong ba đức người quân tử đòi hỏi phải có (nhân - trí -dũng). Cái dũng đó mà thiếu nhân, thiếu nghĩa thì rất nguy hiểm, bởi vậy mà Khổng Tử đã hơn một lần cảnh báo: “Kẻ nào mà hiếu dũng mà lại ghét cảnh bần hàn tất sẽ làm loạn” [Luận ngữ, Thái Bá 10]. c) Quan niệm về một xã hội có kỉ cương trật tự ngăn nắp, có tôn ty trên dưới rõ ràng, thể hiện qua thuyết “chính danh” cũng là một sản phẩm của truyền thống văn hóa gốc du mục phương Bắc với nếp sống chặt chẽ, kỷ cương được đảm bảo bằng sức 16 mạnh. Còn chất Nông Nghiệp phương Nam mà Nho giáo nguyên thủy đã tiếp thu thể hiện nổi bật ở các điểm sau: a) Việc đề cao chữ “Nhân” và nguyên lý “Nhân trị” có nguồn gốc từ lối sống trọng tình của người nông nghiệp phương Nam. Lối sống trọng tình khiến cho quan hệ gia đình của người Việt nông nghiệp rất bền chặt. b) Việc coi trọng dân có nguồn gốc từ tinh thần “dân chủ” của văn hóa nông nghiệp phương Nam. Khổng Tử nói: “Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo xong việc dân mới lo đến việc thần” [Xuân Thu, Tả truyện]. Mạnh Tử còn nói rõ hơn: “Dân là quý, thứ đến đất nước, người cai trị thì xem nhẹ”. Các quan hệ trong đạo “ngũ luân” luôn được Nho giáo nguyên thủy lý giải trong tinh thần của một thứ quan hệ hai chiều bình đẳng, tôn trọng con người: Quân minh thần trung (vua sáng suốt, tôi trung thành); Phụ từ tử hiếu (cha hiền lành, con hiếu thảo); Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng); Huynh lương đệ đễ (anh tốt, em nhường); Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau). c) Nho giáo nguyên thủy rất coi trọng văn hóa, đặc biệt là văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc…). Việc trọng văn hơn võ cũng có nguồn gốc từ phương Nam nông nghiệp (khác với truyền thống gốc du mục trọng võ hơn văn). Sự đối lập của hai truyền thống văn hóa gốc du mục và gốc nông nghiệp chưa đâu rõ bằng ở đây: trong khi một bên trọng võ thì bên kia trọng văn; trong khi một bên xây dựng một xã hội có tôn ti, trật tự, kỷ cương rõ ràng thì bên kia xây dựng một xã hội lấy tình cảm làm đầu; trong khi một bên luôn xử sự một cách phi dân chủ thì bên kia ngược lại. Từ sự đối lập trên tác giả nêu ra nhận định:“Việc đồng thời dựa vào hai truyền thống văn hóa đối lập nhau - gốc du mục và gốc nông nghiệp - trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động khiến cho tư tưởng Khổng giáo không tránh khỏi có những giằng co; dẫn đến sự đụng đầu của hai truyền thống trong Nho giáo, khiến cho Nho giáo nguyên thủy chứa đựng đầy Mâu Thuẫn” [tr. 486] 17 Tuy có đầy sự mâu thuẫn nhưng về tư tưởng trong hai truyền thống, Khổng Tử và Nho giáo nguyên thủy đã thiên về truyền thống nông nghiệp phương Nam hơn. Chính chất nông nghiệp phương Nam này là nguyên nhân gây nên tấn Bi Kịch lớn nhất của Nho giáo: Cái Nho giáo mà Khổng Tử tốn bao công lao gây dựng, vừa có thể nói là nó rất thành công, lại vừa có thể nói là nó đã thất bại. Thất Bại, bởi lẽ trong khi các bậc đế vương với truyền thống trọng võ phương Bắc quen cầm quyền theo lối pháp trị và chuyên chế bằng vũ lực thì Khổng Tử lại chịu ảnh hưởng của truyền thống trọng tình phương Nam và khuyên họ nên cầm quyền theo lối nhân trị. Chính vì đi ngược lại xu thế chung như vậy cho nên ngay khi còn sinh thời, Khổng Tử luôn muốn làm quan nhưng hầu như chẳng được ai dùng. Tác giả đã kể lại hoàn cảnh lịch sử của Nho giáo: “Năm 246 trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính dùng vũ lực mà thống trị thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế (xưng là Tần Thủy Hoàng đế), áp dụng một chính sách cai trị bằng pháp luật độc đoán, chuyên quyền vào bậc nhất; nó đối lập hoàn toàn với chủ trương cai trị bằng tình người dân chủ, bình đẳng của Nho gia. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân tất yếu dẫn đến việc nhà Tần tiêu diệt Nho giáo với những hành động tàn bạo đốt sách, chôn Nho nổi tiếng” [tr. 488] Chính vì quá chuyên chế độc tài mà chỉ năm năm sau khi Tần Thủy Hoàng chết, nhà Tần đã suy sụp một cách rất nhanh chóng; nhà Hán lên thay. Hán Cao Tổ Lưu Bang lúc đầu cũng ỷ vào vũ lực, coi thường trí thức, văn hóa. Có lần ông nói với một thầy thuốc: “Ta xuất thân áo vải, tay cầm ba thước kiếm lấy được thiên hạ, đó chẳng phải là mệnh trời sao?” [Tư Mã Thiên 1988: 158]; Nhưng rồi khi bình tĩnh trở lại. Hán Cao Tổ đã biết rút kinh nghiệm của triều Tần, nghe theo lời khuyên của Lục Giả mà thủ tiêu các hình phạt hà khắc, giảm nhẹ sưu thế và trưng dụng trí thức để bảo vệ ngai vàng. Đến nhà Hán thì lần đầu tiên đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo, dùng nó làm công cụ để thống nhất đất nước về tư tưởng. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốt hai ngàn năm lịch sử. Không những thế, nó còn được truyền bá khắp các miền Đông Á. Khổng Tử được tôn lên bậc thánh. Nhìn vào những sự kiện hiển nhiên này, thấy rằng Nho giáo đã rất Thành Công! Thực ra, đây là một sự kiện rất tế nhị. Nó mang tính hai mặt. Xét về hình thức đúng là Nho giáo thắng, nhưng trên thực tế thì chính là đạo Khổng thua. Nguyên nhân của cả việc thắng lẫn việc thua đều ở chất nông nghiệp phương Nam mà Nho giáo 18 nguyên thủy đã tiếp thu! Nhà Hán đã chọn Nho giáo để tôn làm quốc giáo. Chính vì Nho giáo có cái mà các học phái thừa hưởng truyền thống phương Bắc đều thiếu: đó là đường lối nhân trị. Chọn Nho giáo, nhà Hán sẽ tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân - những người bấy nay rên xiết bởi chiến tranh và chế độ pháp trị bạo tàn của nhà Tần. Nhưng lối sống theo tình cảm và dân chủ chỉ thích hợp cho việc quản lý trong quy mô nhỏ hẹp của các làng xã nông nghiệp làm sao mà áp dụng được cho một chế độ Trung Hoa rộng lớn? Để giải quyết mâu thuẫn này, nhà Hán đã áp dụng hai biện pháp: Một mặt, nhà Hán chỉ đề cao Nho giáo về mặt hình thức, còn trên thực tế, họ vẫn cai trị theo lối pháp gia. Họ chủ trương dương đức, âm pháp, hay như sau này có người đặt tên ngoại Nho, nội Pháp [xem Trần Văn Giàu 1973: 81]. Đây là một chính sách hai mặt với mục đích mị dân, lấy “Nho” và “Nhân trị” làm cái bình phong để che đậy cho lối cai trị bằng pháp luật. Mặt khác ngay cả cái Nho giáo hình thức ấy nhà Hán cũng không giữ nguyên. Hán Vũ Đế đã giao cho Lưu Hâm cải tạo, biến đổi nó một cách cơ bản nhằm mục đích dùng Nho giáo để phục vụ cho vương triều. Để làm được điều đó, công việc của nhóm Lưu Hâm thực chất chủ yếu tập trung vào việc loại trừ bớt chất “nông nghiệp phương Nam” trong Nho giáo nguyên thủy. Chất “nông nghiệp phương Nam” thể hiện ở ba điểm chính, cho nên để loại trừ nó, nhóm Lưu Hâm cũng phải làm ba việc: a) Trước hết những người cải cách không dám tấn công thẳng vào chữ “nhân” và chủ trương “nhân trị”, vì đây là cốt lõi của học thuyết Khổng Tử, chính nhờ nó mà Nho giáo được chọn làm công cụ mị dân. Nhưng họ đã tìm cách lờ đi, hạn chế nhắc đến “nhân” và “nhân trị”; thay vào đó họ nói nhiều đến “lễ trị”. “Lễ trị” là một cách cai trị rất khôn ngoan: Về nội dung, nó rất gần với “pháp trị”, cả hai đều đòi hỏi người dân phải tuân theo những phép tắc bắt buộc; nhưng về hình thức xử lý những kẻ vi phạm thì nó lại gần với “nhân trị”: trong khi “pháp trị” xử lý bằng những hình phạt hà khắc thì ở “lễ trị”, kẻ vi phạm chỉ bị dư luận xã hội lên án. Nhưng về mục đích thì “lễ trị “ đạt được hiệu quả cũng chẳng kém gì “pháp trị”: nhiều người chỉ vì bị dư luận xã hội lên án mà không sống nỗi, phải tự vẫn. b) Việc tiếp theo là loại bỏ hai cái hạt nhân dân chủ. Loại bỏ “dân chủ”, các nhà cải cách đã lờ đi, không đề cao dân như Khổng Tử và Mạnh Tử, nhưng cũng không dại gì trắng trợn tuyên bố “vua làm chủ”, thay vào đó họ đã khôn ngoan đề cao Trời, nên ra thuyết thiên mệnh. Trong khi Khổng Tử nói một 19 cách trung thực rằng trời đất quỷ thần không biết có hay không, cho nên tốt nhất là “kính nhi viễn chi”, thì những người cải cách đã xưng xưng tuyên bố mọi việc trên thế gian đều do ý chí của Trời quyết định; mỗi khi có việc gì trái ý, Trời trừng phạt con người bằng cách giáng xuống tai họa như hạn hán, dịch bệnh, nhật thực… Sau khi đề cao Trời công việc tiếp theo là đưa ra thuyết “vương quyền thần phụ” nhằm đồng nhất quyền vua với quyền Trời: Quyền thống trị của vua là theo mệnh Trời, do Trời giao phó. Vua là “Thiên tử”, dân mà không nghe theo vua là đã phản lại Trời. Đó thật là cả sách lược khôn ngoan, tác dụng của nó còn hơn cả lễ trị và pháp trị! Loại bỏ quan niệm dân chủ của Nho giáo nguyên thủy về các quan hệ hai chiều bình đẳng trong Ngũ luân, các nhà cải cách đã tập trung vào ba quan hệ chính, ba giềng mối chủ yếu của xã hội là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, tạo nên thuyết “Tam cương” với quan hệ một chiều duy nhất chỉ đòi hỏi trách nhiệm của kẻ dưới đối với người trên: bề tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối phục tùng cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng. Yêu cầu đặt ra đối với ba quan hệ ấy được gói gọn trong bốn chữ “trung - hiếu - tiết - nghĩa”. Trên cơ sở đó, các nhà cải cách còn đi xa hơn, diễn đạt trách nhiệm của tôi đối với vua, con đối với cha bằng một công thức hết sức phi nhân bản (nhưng lại rất du mục!): Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (Vua bảo tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là con bất hiếu). Còn bổn phận của vợ đối với chồng thì được diễn đạt bằng công thức: Phu xướng phụ tùy, nó còn được mở rộng ra thành trách nhiệm của người phụ nữ đối với giới đàn ông nói chung qua công thức “tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con). c) Từ đời Hán về sau, vai trò của văn hóa cũng bị thu hẹp, nó chỉ giới hạn trong khuôn khổ những gì có lợi cho vương quyền. Kinh Thi được giải thích theo lối cao quý, tao nhã; quan hệ nam nữ bị ngăn cấm, giới hạn một cách quá đáng (nam nữ thụ thụ bất thân); đề cao nam, hạ thấp nữ (dương thiện âm ác; nam tôn nữ ty); những người làm nghề đàn hát bị khinh rẻ là “xướng ca vô loại”. Nho giáo được các nhà cải cách thời Hán biến đổi một cách căn bản như thế gọi là Hán Nho. Để phân biệt với Hán Nho và các biến dạng sau này của Nho giáo, người ta gọi Nho giáo nguyên thủy theo quan niệm của Khổng Tử là Khổng giáo. [tr. 492] Đó mới là cái Nho giáo mà từ nhà Hán đến các triều đại phong kiến sau này ra sức đề cao. Đến Tống Nho, Nho giáo lại tự hoàn thiện thêm một bước nữa bằng cách bổ sung những điểm mạnh của Phật giáo (yếu tố tâm lý, tâm linh) và Đạo giáo (yếu tố 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng