Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người...

Tài liệu Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ở việt nam

.PDF
66
265
139

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI ........................ 7 1.1. Nhân đạo - nguyên tắc cơ bản của chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ....................................................................... 7 1.2. Các lĩnh vực thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi .................................................. 19 Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ĐỐI VỚI NGƯỜI TUỔI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI .............................................. 26 2.1. Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về tội phạm đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ..................................................................... 26 2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ............................................................... 31 Chương 3: SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI .......................................................................................................... 53 3.1. Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn áp dụng chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi .................................. 53 3.2. Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi .............................................................................................................. 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 63 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật hình Sự LHS : Luật Hình Sự NCTN : Người Chưa Thành Niên TNHS : Trách Nhiệm Hình Sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam luôn đặt chiến lược phát triển con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, câu “trẻ em là tương lai của đất nước” được toàn xã hội biết đến như là sự khẳng định một chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Việt Nam là nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia Công ước về quyền trẻ em, nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước được ban hành quy định về các vấn đề liên quan đến trẻ em như vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, lao động... Có một thực tế đáng buồn là sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nhận thức lệch lạc của giới trẻ, tình trạng người chưa thành niên (NCTN) phạm tội đã trở thành mối lo ngại của toàn xã hội. Những năm gần đây, nhà nước đã liên tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào chương trình giảng dạy của nhà trường đã góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho các em, tuy nhiên tình trạng tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do người chưa thành niên vi phạm cũng ngày một nhiều hơn, hành vi phạm tội cũng ngày một tinh vi hơn. Có quan điểm cho rằng, hiện nay loại tội phạm hình sự lứa tuổi vị thành niên ngày càng tăng với tính chất và mức độ ngày một nguy hiểm cho nên cần tính đến việc sửa đổi quy định hạ thấp tuổi xuống còn dưới 17 mới được miễn án tử hình để ngăn ngừa tội phạm. Tuy nhiên, không áp dụng hình phạt tử hình với NCTN phạm tội là giá trị nhân đạo đặc biệt của pháp luật hình sự phổ quát trên toàn thế giới chứ không phải chỉ riêng của pháp luật hình sự nước ta. Đó là vấn đề thuộc về bản chất của pháp luật hình sự. Việc vị thanh niên phạm tội giết người, thậm chí rất tàn ác thì cũng chỉ là những vấn đề 1 thuộc về hiện tượng xã hội. Không thể vì để giải quyết hiện tượng mà phải làm thay đổi cả bản chất của pháp luật hình sự, trong đó những giá trị nhân đạo, đặc biệt nhân đạo với trẻ vị thành niên phạm tội đã được tri thức chung của loài người, xây dựng, đúc kết trở thành những nguyên tắc có giá trị nhân văn từ lâu đời. Vì vậy, về mặt nguyên tắc, không thể sửa đổi luật để tử hình người chưa thành niên phạm tội với mục đích làm giảm cơn đau tức thời của lương tri con người. Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật Hình sự nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nguyên tắc này thể hiện bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện tư tưởng vì con người của định hướng đi lên nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong suốt chiều dài lịch sử cuộc đấu tranh vì quyền con người, nhân đạo xuất hiện như một giá trị đích thực. Nhân đạo là niềm khát vọng cháy bỏng, và ngày càng thực sự trở thành mục tiêu đấu tranh của con người, nhân đạo thể hiện mạnh mẽ, rõ nét nhất trong pháp luật Việt Nam. Nhân đạo vừa là thuộc tính, vừa là nội dung cơ bản của cả hệ thống pháp luật nói chung và của ngành luật hình sự nói riêng. Vì vậy cùng với những giá trị khác như công bằng, bình đẳng, dân chủ...nhân đạo có vai trò to lớn đối với đối với xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và toàn bộ đời sống pháp luật của xã hội. Tuy nhiên trong sách báo nước ta vấn đề nhân đạo chưa được ngiên cứu tương xứng với vai trò và vị trí của nó, tư tưởng nhân đạo chưa được đánh giá thấu đáo và đầy đủ. Hiểu được điều đó để làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn cơ bản về tư tưởng nhân đạo dưới khía cạnh pháp lý và đưa ra các giải pháp hoàn thiện, nâng cao, hiệu quả nên Tôi đã lựa chọn đề tài “sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam là nói đến sự khoan hồng, giảm nhẹ cho (NCTN) để họ còn cơ hội quay trở lại và hòa nhập vào cuộc sống ngay trong những chính sách pháp luật do nhà nước ban hành. Vì vậy ở trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các đề tài của các tác giả Mai Chí Đức “nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự việt nam”, Hà Nội, 2017. “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của một số nước trên thế giới và liên hệ ở Việt Nam” của Hoàng Minh Đức. Tác giả Trần Thu Hằng “tính nhân đạo trong xây dựng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội”, Hà Nội, 2014. Tác giả Giang Văn Quyết “nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở Việt Nam”, Hà Nội, 2013. Ở cấp độ luận án tiến sĩ có các đề tài của các nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Sơn “nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam”. Bên cạnh đó có các bộ luật: Bộ luật hình sự ( BLHS) 1999, BLHS 2015. Trên cơ sở khảo sát tìm hiểu cho thấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự (LHS) của việt nam nhưng các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chứ chưa có công trình nghiên cứu nào làm rõ được sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo này trong ngay chính sách pháp luật hình sự ở nước ta đặc biệt là ở độ tuổi dưới 18 phạm tội. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam ” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là phân tích, đánh giá sự thể hiện nhân đạo trong chính sách pháp LHS ở nước ta dưới khía cạnh lý thuyết và thực tiễn áp dụng chúng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đó, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đưa ra được những vấn đề lý luận về sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phân tích, đánh giá sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự ở nước ta. - Đưa ra các giải pháp hoàn thiện sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đời sống. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích sự thể hiện nhân đạo thông qua chính sách pháp luật hình sự ra sao và những vấn đề có liên quan. 4.2.Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam, và áp dụng những quy định đó vào thực tiễn. Đối tượng chính là NCTN đang hoạt động, sinh sống trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Từ đó vạch ra những đề xuất cho chính sách pháp luật hình sự Việt Nam nhằm hoàn thiện hơn về nguyên tắc nhân đạo của BLHS hiện hành. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với lý luận và thực tiễn. ngoài ra còn sử dụng phương pháp hệ thống và một số phương khác để hoàn thành bài luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1.Ý nghĩa lý luận Việc nghiên cứu luận văn này có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý thuyết, cho người đọc hiểu rõ hơn về chính sách pháp luật hình sự nước ta thể hiện sự khoan hồng nhân đạo đối với người phạm tội, đặc biệt là người chưa thành niên (NCTN) phạm tội. 6.2.Ý nghĩa thực tiễn Khi nghiên cứu luận văn với mong muốn sẽ giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến sự nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự của Việt Nam từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nhằm đảm bảo sự thể hiện nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi 5 Chương 2: Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam đối với người phạm tội dưới 18 tuổi Chương 3: Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI 1.1. Nhân đạo - nguyên tắc cơ bản của chính sách pháp luật hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi Nhân đạo là đạo làm người, đạo làm người thể hiện ở lòng thương yêu, với ý thức tôn trọng các giá trị danh dự, nhân phẩm của con người, không làm đau đớn con người. Vậy nguyên tắc nhân đạo là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con người của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Trong lịch sử phát triển của xã hội nói chung, con người được coi là giá trị cao nhất. Mục đích phát triển xã hội, cố gắng đưa xã hội tiến lên một tầm cao mới cũng chỉ vì lợi ích của con người. Một xã hội muốn phát triển tất cả mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội thì phải được sự đồng thuận của nhân dân. Chính vì thế chủ nghĩa Mác-Lenin tuyên bố yêu cầu thực hiện tính nhân đạo đối với con người, tất cả vì con người, vì lợi ích con người. Vì nhân đạo là phạm trù đạo đức thừa nhận và tôn trọng danh dự, nhân phẩm con người. Nên việt nam chúng ta một đất nước xã hội chủ nghĩa luôn luôn lấy tính nhân đạo của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nòng cốt, đề cao vai trò của con người. thiết lập mối quan hệ nhân từ trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống xã hội. Đặc biệt hơn nữa là tính nhân đạo được đưa vào hệ thống pháp luật nói chung và trong bộ luật hình sự Việt Nam nói riêng. Tư tưởng nhân đạo trong chính sách pháp luật nước ta được coi là nền tảng cho nội dung hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Được thể hiện ở chỗ không phải con người tồn tại vì pháp luật mà 7 ngược lại tính mạng, danh dự, nhân phẩm, lợi ích của con người được khẳng định, được đảm bảo bởi pháp luật. hay nói cách khác là pháp luật được tồn tại vì con người. Trong việc điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội, nhân đạo ảnh hưởng đến các phương pháp điều chỉnh pháp luật, ảnh hưởng đến các hoạt động của các chủ thể tham gia các quan hệ hình sự, vì vậy, nhân đạo trở thành nguyên tắc của hệ thống pháp luật nói chung và của pháp luật hình sự nói riêng. Pháp luật hình sự Việt Nam phản ánh ý thức pháp luật các quan niệm đạo đức của dân tộc ta, có mục đích, nội dung nhân đạo sâu sắc và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp rất nhân đạo. Trước hết, trong LHS Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong các chính sách hình sự của Nhà nước, trong các quy định của BLHS. 1.1.1. Mối quan hệ giữa nhân đạo và pháp luật Nhân đạo chẳng những có mối liên hệ mật thiết, đan xen và xâm nhập lẫn nhau với các giá trị xã hội khác như công bằng, bình đẳng, dân chủ… vốn được coi là những yếu tố không thể thiếu của nhân đạo mà còn có mối liên hệ mật thiết với pháp luật. Pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, được quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự ổn định trong xã hội. Vai trò của pháp luật thể hiện ở các chức năng như chức năng điều chỉnh, chức năng giao tiếp và chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội. Cùng là những giá trị xã hội, nhân đạo và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ đó được lý giải như sau: Thứ nhất, quan hệ sản xuất là nhân tố chi phối cơ bản, nên cả nhân đạo lẫn pháp luật đều có nội dung vật chất do phương thức sản xuất tương ứng quyết định. Chính đặc điểm này cho phép lý giải mối quan hệ bản chất giữa nhân đạo và pháp luật và lý giải vì sao mà pháp luật trước đây không có tính 8 nhân đạo thực sự và vì sao mà pháp luật hiện nay có bản chất nhân đạo thực sự và sâu sắc. Vấn đề là ở chỗ, pháp luật trước đây được xây dựng trên nền tảng của cơ sở kinh tế hạ tầng thấp kém, do vậy tính nhân đạo được thể hiện trong pháp luật cũng thấp hơn ngày nay. Thứ hai, tồn tại trong một xã hội nhất định với tính cách là những nhân tố quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cả nhân đạo và pháp luật đều gắn liền với lợi ích mà trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó. Khi mà lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội phù hợp với lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là phù hợp với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động, thì cả nhân đạo lẫn pháp luật mới trở thành những đại lượng chung cho những trường hợp riêng cụ thể, mới trở thành chuẩn mực chung cho mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy, để xác lập nên hệ tư tưởng nhân đạo, giai cấp thống trị chẳng những phải biểu hiện lợi ích của mình thành lợi ích chung của toàn xã hội mà còn phải gắn cho hệ tư tưởng của mình một hình thức phổ biến. Chính đặc điểm này cho phép lý giải vì sao mà trong những điều kiện xã hội hiện nay, nhân đạo và pháp luật là những phương tiện hữu hiệu điều chỉnh các quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp. Nhìn từ một góc độ khác, bởi là những bộ phận cấu thành của hệ tư tưởng thống trị, cả nhân đạo lẫn pháp luật đều có vai trò tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư duy, tình cảm và hành vi của mọi người trong xã hội. Để thực hiện được đầy đủ vai trò đó, cả nhân đạo lẫn pháp luật phải được dựa trên nền tảng tư tưởng coi con người là giá trị cao nhất, coi mục đích của tiến bộ xã hội là ngày càng thoả mãn nhiều hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người. Thứ hai, tồn tại trong một xã hội nhất định với tính cách là những nhân tố quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cả nhân đạo và pháp luật đều gắn liền với lợi ích mà trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó.Cũng như những cặp phạm 9 trù: thiện – ác, tốt - xấu, công bằng - bất công bằng, bình đẳng - bất bình đẳng, nhân đạo và mặt đối lập của nó là vô nhân đạo, từ lâu đã trở thành những tiêu chí đánh giá hành vi của con người. Khi Nhà nước và pháp luật ra đời, những tiêu chí đó còn được dùng để đánh giá nội dung và bản chất của pháp luật mà nhà nước ban hành. Pháp luật là những quy tắc xử sự đã được chuẩn hoá cho toàn xã hội. Trong khi đó, ngoài phạm vi đã được nâng lên thành luật, nhân đạo còn tồn tại dưới những hình thức khác, vì vậy nó còn khả năng hỗ trợ cho pháp luật trong những trường hợp hay là lĩnh vực không thể hay không cần thiết phải điều chỉnh. Chính sự cùng tồn tại của nhân đạo và pháp luật có tác dụng hỗ trợ cho nhau làm cho các quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp phát triển lành mạnh, có trật tự, có tính người theo hướng và mục đã xác định trước. Thứ tư, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thực hiện nhân đạo có hiệu quả nhất. Pháp luật không thể là hình thức tồn tại duy nhất của nhân đạo. Ngoài pháp luật ra, nhân đạo còn được thể hiện thông qua các hình thức khác như chính trị, đạo đức, tập quán, tôn giáo, văn hoá,… Mỗi hình thức tồn tại của nhân đạo có đặc trưng và phương thức tác động của mình tới các quan hệ xã hội trong sự hỗ trợ lẫn nhau của chúng. Bởi hình thức thể hiện đa dạng (các nguyên tắc pháp lý, hệ thống các quy phạm pháp luật thực định, án lệ,… ), bởi phạm vi thể hiện rộng (qua hoạt động xây dựng pháp luật, qua cơ chế điều chỉnh pháp luật, qua ý thức pháp luật của các chủ thể,…) và bởi những thuộc tính của mình (tính điển hình phổ biến, tính chặt chẽ về hình thức, tính được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước), pháp luật luôn là phương tiện ghi nhận và thực hiện nhân đạo có hiệu quả nhất. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, nhiều giá trị nhân đạo đã mang tính toàn cầu bắt buộc chung. Điều này được thể hiện trong các điều ước quốc tế phổ biến về nhân quyền. Những giá trị nhân đạo đó đã tác động sâu sắc tới pháp luật quốc gia, 10 đặc biệt quốc gia có chuẩn mực nhân đạo thấp hơn chuẩn mực chung. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có những giá trị nhân đạo ở các quốc gia còn khác nhau và thậm chí có điểm trái ngược nhau. Điều này chỉ có thể giải thích được khi chúng ta thấy được rằng cơ sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi quyết định là lực lượng sản xuất của các quốc gia còn rất chênh lệch nhau. Do vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao có quốc gia đã xoá bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, có quốc gia vẫn duy trì nó. Tuy nhiên, chuẩn mực nhân đạo của mỗi quốc gia còn tuỳ thuộc vào tổng thể các yếu tố khác, song cơ sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi là lực lượng sản xuất của quốc gia đó là yếu tố quyết định. 1.1.2. Nhân đạo – nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam Trước hết, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa được thể hiện Bộ luật Hình sự năm 2015 đó là: “Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.” Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người phạm tội mà nhằm tạo điều kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện. 11 Luật hình sự (LHS) Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo)...v.v... Trong hệ thống hình phạt của LHS Việt Nam có nhiều loại hình phạt không tước tự do như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ.. Nhân đạo, như đã nêu là phạm trù đạo đức thừa nhận và tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người, coi con người là giá trị cao nhất, coi mục đích của các quá trình phát triển xã hội và của sự tiến bộ xã hội là vì lợi ích của mọi người. Trong lĩnh vực xã hội pháp luật, nhân đạo thể hiện ở chỗ không phải con người tồn tại vì pháp luật mà ngược lại, Pháp luật phải tồn tại vì con người. Thế nên, tư tưởng nhân đạo phải là nền tảng cho nội dung của hệ thống pháp luật, “chi phối chẳng những phương pháp điều chỉnh pháp luật, mà còn chi phối cả tính chất của các quan hệ pháp lý cũng như các hoạt động của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật”. Với nghĩa đó, nhân đạo phải trở thành nguyên tắc của hệ thống pháp luật, với tính cách là một nguyên tắc của pháp luật, nhân đạo đòi hỏi pháp luật phải thể hiện và bảo vệ được những giá trị nhân đạo của xã hội cụ thể là: Thứ nhất, ghi nhận và bảo đảm thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,…”. Thứ hai, ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế tư tưởng coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, xác định rõ các hình thức nhằm đảm bảo cho nhân dân được tham tha rộng rãi vào quản lý các công việc của nhà nước. Thứ ba, quy định ngày càng nhiều các quyền và lợi ích, đặc biệt là các quyền tự do dân chủ của công dân và đảm bảo cho các quyền và lợi ích đó 12 được thực hiện đầy đủ trên thực tế, đồng thời phải xử lý một cách công minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Thứ tư, xác lập phạm vi tối thiểu và cần thiết của công quyền trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, đồng thời phải quy định những bảo đảm thực tế để công dân phòng ngừa được các hành vi lạm dụng quyền lực Nhà nước vi phạm các quyền và lợi ích của họ Thứ năm, quy định phạm vi pháp lý giống nhau của hành vi và trách nhiệm pháp lý tương ứng với hành vi vi phạm pháp luật, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau đối với mọi thành viên trong xã hội, quy định các quy phạm loại bỏ đặc quyền, đặc lợi đối với những cá nhân nhất định. Thứ sáu, quy định các biện pháp trách nhiệm pháp lý không nhằm gây đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp hoặc xúc phạm danh dự nhân phẩm của người vi phạm pháp luật, kể cả người đó là người phạm tội, mà nhằm bảo đảm công lý, công bằng xã hội, cải tạo giáo dục người vi phạm pháp luật sửa chữa lỗi lầm để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ tái vi phạm pháp luật, đồng thời giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật và không vi phạm pháp luật Thứ bảy, quy định ngày càng đầy đủ, có tính khả thi các trình tự thủ tục tố tụng các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự, … để các vụ án đó được giải quyết một cách nhanh chóng, công khai có cơ sở pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ở nước ta, xu hướng nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự theo một bình diện: nhân đạo đối với người phạm tội cũng được đề cập trong khoa học pháp lý hình sự trong những năm gần đây. Để có thể nhận thức được một cách có cơ sở khoa học về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhân đạo đối với ai, không thể không xuất phát trước hết từ lý luận về đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự. Chúng ta biết rằng, đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra, 13 trong đó chủ yếu là giữa nhà nước và người phạm tội. Nhà nước là chủ thể có quyền quy định hành vi nào là tội phạm, quy định loại và mức hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng chế hình sự khác để áp dụng đối với người phạm tội. Nhà nước còn là chủ thể thông qua các cơ quan và những người có thẩm quyền, có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội. Người phạm tội là chủ thể phải chấp hành hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự mà Nhà nước quy định và áp dụng đối với họ. Như vậy, nói đến nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự chỉ có thể hiểu là nói đến nhân đạo của luật hình sự mà chính xác hơn là nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội chứ không thể là nhân đạo của Nhà nước đối với Nhà nước. Mặt khác, đành rằng nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự cần phải được xem xét không chỉ từ lợi ích của người phạm tội mà còn phải được xem xét từ góc độ lợi ích của những cá nhân khác trong xã hội cũng như của toàn xã hội, song điều đó không có nghĩa là cần coi việc “bảo đảm an ninh xã hội và Nhà nước”, (bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi công dân), bảo vệ tài sản của họ khỏi sự xâm phạm của tội phạm … cũng thuộc nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong LHS. Điều khẳng định này là có cơ sở bởi lẽ sự nhân đạo đối với xã hội, đối với Nhà nước và đối với người bị hại…tuy có liên quan, song không thuộc nội hàm của nguyên tắc nhân đạo trong LHS. Các quan điểm xuất phát từ tính chất của hình phạt và các biện pháp tác động khác của LHS, cũng như từ góc độ áp dụng chúng để nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo trong LHS trên một bình diện: nhân đạo đối với người phạm tội là đáng tin cậy. Tuy nhiên nếu chỉ xuất phát từ nội dung trừng trị vốn có của hình phạt hoặc tính chất của hình phạt để làm xuất phát điểm nghiên cứu nhân đạo cũng như nguyên tắc nhân đạo trong LHS là chưa hoàn toàn chặt chẽ và có sức thuyết phục cao. Ngoài việc lập luận nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo trên cơ sở lý luận về đối tượng điều chỉnh của LHS như đã phân tích, cần lập luận nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo trên cơ sở lý luận về mục đích và nhiệm vụ của Luật 14 hình sự. Vấn đề là ở chỗ, nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo trong LHS không thể không liên quan trực tiếp đến việc xác định mục đích và nhiệm vụ của ngành luật này, cũng như không thể liên quan trực tiếp đến các phương tiện mà luật hình sự lựa chọn để giải quyết những nhiệm vụ và đạt được mục đích đã đề ra. Mục đích mà luật hình sự hướng đến và những phương tiện mà ngành luật này sử dụng để đạt được mục đích đó không chỉ là “công việc mang tính chất nội bộ”. Để phòng ngừa tội phạm, LHS có thể tác động và cần phải tác động không chỉ đến người phạm tội mà còn tác động trực tiếp đến tất cả mọi công dân. Vậy thì, LHS tác động bằng mọi giá hay chỉ tác động trong những giới hạn nhất định? Những vấn đề này đều có ý nghĩa quan trọng về mặt tư tưởng cũng như về mặt chính trị xã hội. Trình độ phát triển hiện nay của khoa học pháp lý hình sự và tội phạm học cho phép làm sáng tỏ một cách đầy đủ và chính xác các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung của như của từng loại tội phạm nói riêng, đồng thời đề ra được các biện pháp có cơ sở khoa học để tác động một cách có hiệu quả đến người phạm tội. Con người là một thực thể phức tạp, năng động, không tách rời môi trường xã hội, nhưng cũng làm chủ được các hành vi của mình. Nếu muốn tác động tích cực đến con người cần phải: thứ nhất, tác động đến chính cá nhân đồng thời tác động đến điều kiện sống của cá nhân đó; thứ hai, cân nhắc tính phức tạp và tính đặc thù của từng cá nhân cũng như của các dạng cá nhân; thứ ba, chú ý đến các nhân tố tâm lý – xã hội cũng như các nhân tố khác với môi trường xã hội mà đôi khi sự tác động của nó đối với cá nhân còn mạnh hơn sự tác động của Luật hình sự. Vậy tại sao LHS cần lựa chọn và áp dụng những biện pháp mà hiệu quả tác động của chúng gắn liền trực tiếp tới những nhân tố nêu trên? Vấn đề là ở chỗ, LHS muốn hay không muốn phải đồng thời đạt được các mục đích: bảo vệ các lợi ích khác nhau trong xã hội và cải tạo giáo dục người phạm tội thành 15 người lương thiện, có ích cho xã hội và không phạm tội mới. Nói cách khác, LHS bảo vệ xã hội khỏi sự xâm phạm của người phạm tội, đồng thời trả lại cho xã hội chính con người đã từng xâm hại nó sau khi đã được giáo dục, cải tạo. Những mục đích đó chỉ có thể cùng đạt được một khi người phạm tội được đối xử một cách nhân đạo, tức được áp dụng những biện pháp tác động không gây đau đớn về thể xác, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm con người, được áp dụng hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng chế hình sự khác chỉ đến mức “cần” và “đủ” cho việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa họ phạm tội mới v.v… mà tựu chung lại vốn là những biểu hiện của sự giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS), hình phạt mà nói trừu tượng hơn nữa là những biểu hiện của sự khoan hồng của luật hình sự đối với người phạm tội. Mặc dù đối xử nhân đạo của luật hình sự đối với người phạm tội xuất phát từ nội dung quan hệ TNHS sự cụ thể và được thể hiện trong bản án của Toà án. Nhưng sự đối xử nhân đạo đó cần phải được quy định trong BLHS, bởi sự ghi nhận đó là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn áp dụng LHS, tránh được sự tuỳ tiện theo hướng “quá có lợi” hoặc “quá bất lợi cho người phạm tội”, làm giảm khả năng bảo vệ của LHS đối với các lợi ích trong xã hội hoặc áp dụng không đúng hình phạt cũng như các biện pháp tác động hình sự khác đối với người phạm tội. Vậy nên, nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong LHS luôn được phản ánh vào các quy định của pháp luật Hình sự ở nước ta. Từ những phân tích trên đây có thể thấy, nguyên tắc nhân đạo trong LHS là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong LHS chỉ đạo hoạt động xây dựng và áp dụng LHS mà nội dung cơ bản của nó là sự khoan hồng của LHS đối với người phạm tội. Mức độ, phạm vi của sự khoan hồng của LHS đối với người phạm tội được quyết định bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các nguyên tắc khác của luật hình sự, mà trước hết là công lý và công bằng xã hội. Rõ ràng, nói đến nhân đạo trong LHS là nói nhân đạo 16 đối với người phạm tội mà thực chất là nói đến sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với họ. Sự khoan hồng của LHS đối với người phạm tội có biểu hiện duy nhất là xử lý các mức độ trách nhiệm và quyết định hình phạt vì những lý do nhân đạo. Và vì vậy, không thể không đồng ý với quan điểm cho rằng, “nói đến nhân đạo là chỉ nói đến giảm bớt trách nhiệm hình sự và hình phạt” . Mức độ giảm bớt TNHS và hình phạt phải được đặt trong mối liên hệ (giới hạn) với các yêu cầu của pháp luật Hình sự như công lý, công bằng xã hội. Đó cũng chính là giới hạn của nhân đạo trong LHS và giới hạn của nhân đạo trong luật hình sự còn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. Với nội dung nêu trên, nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự thật sự là giá trị xã hội tồn tại một cách khách quan, được hình thành trong quá trình phát triển xã hội do các điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã hội đất nước quyết định. Cũng như những nguyên tắc khác của LHS, nguyên tắc nhân đạo có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện xã hội lẫn pháp lý. Về phương diện xã hội, nguyên tắc nhân đạo là một trong những bảo đảm cho việc thực hiện công bằng xã hội về trách nhiệm hình sự, theo đó, việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với mọi người phạm tội không phân biệt nòi giống dân tộc, thành phần xuất thân, vị trí xã hội, tình hình kinh tế, tài sản của họ. Đó là sự công bằng ở khía cạnh ngang bằng của trách nhiệm hình sự đối với mỗi loại tội phạm. Song, các tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể với những điểm khác biệt về nhân thân với sự khác nhau về hình thức và mức độ thực hiện tội phạm, về tính chất lỗi, về mức độ hậu quả xảy ra trên thực tế có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ TNHS của người phạm tội đòi hỏi phải có cả khía cạnh phân phối của công bằng về TNHS. Chính nội dung của nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi LHS phải biểu đạt một cách toàn diện và đầy đủ các cơ sở của TNHS, tạo tiền đề cho việc quyết định công bằng về TNHS và hình phạt, nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của LHS nói chung và của hình phạt nói 17 riêng. Vì vậy, nguyên tắc nhân đạo thực sự trở thành phương tiện cần thiết để thực hiện công bằng xã hội trong LHS. Đồng thời, nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong LHS còn có ý nghĩa ở phương diện sử dụng pháp LHS đấu trang, phòng ngừa và chống tội phạm, theo đó, một mặt, không phủ nhận vai trò quan trọng của các biện pháp cưỡng chế hình sự, mặt khác chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự một khi các biện pháp pháp lý khác không có hiệu quả. Đồng thời, các biện pháp cưỡng chế hình sự chỉ được áp dụng trong giới hạn “cần” và “đủ” để đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm một cách có hiệu quả. Để thực hiện chủ trương đó, bên cạnh xác định nhiệm vụ của LHS, quy định cơ sở của TNHS, hình phạt, hệ thống hình phạt, các căn cứ quyết định hình phạt… BLHS cần quy định các tình tiết giảm nhẹ, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, xoá án tích… Đó chính là những cách thức đưa nội dung của nguyên tắc nhân đạo vào lĩnh vực xử lý tội phạm và người phạm tội với mục đích cao nhất là phòng ngừa tội phạm. Đó chính là ý nghĩa xã hội của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự. Giải quyết đúng đắn TNHS là vấn đề then chốt trong vụ án hình sự. Để giải quyết tốt vấn đề đó, không thể không căn cứ vào nội dung của nguyên tắc nhân đạo tronG LHS. Bởi vậy, nguyên tắc nhân đạo trong LHS còn có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Để đảm bảo sự tương xứng giữa tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mức độ TNHS và hình phạt, nội dung của nguyên tắc nhân đạo được sử dụng như những nhu cầu và phương tiện cần thiết cho hoạt động phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật cũng như cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt trong áp dụng luật hình sự. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo trong LHS thể hiện ở nhu cầu và phương tiện phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt trong Luật Hình sự; ở nhu cầu và phương tiện cá thể hoá TNHS trong áp dụng LHS; ở điều kiện không áp dụng các biện pháp tác động có tính nghiêm khắc cao và những điều 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan