BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA S AU ĐẠI
HỌC
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI
ĐỀ TÀI :
SỰ THAY ĐỔI VỀ MẶT XÃ HỘI, KỸ
THUẬT VÀ THỂ CHẾ
Thầy hướ ng dẫ n :
Nguyễn Hữu Lam
Trần Hồng Hải
Nhóm 9:
1. Đào Hùng Anh
2. Lê Thị Hiền
3. Nguyễn Kim Nam
4. Lê Hùng Tú
1
Chương 9: Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ thuật và thể chế
Andrew H. Van de Ven & Timothy J. Hargrave
Điều gì giải thích cho những thay đổi về mặt kĩ thuật và xã hội đáng kể được quan sát ở
nhiều nơi trên thế giới trong suốt thế kỉ qua? Câu trả lời cho vấn đề này là khác nhau,
phụ thuộc vào mức độ giả định rằng cuộc sống xã hội là sản phẩm của chủ nghĩa cá
nhân hay chủ nghĩa tập thể. Những người theo chủ nghĩa cá nhân nhìn nhận sự thay đổi
về xã hội và kinh tế như là sản phẩm của trung gian cá nhân, nơi mà những cá nhân có
mục đích và định hướng mục tiêu thực hiện những mong muốn tự do của mình nhằm
xây dựng những sắp xếp xã hội làm thỏa mãn sở thích và giá trị của bản thân. Những
người theo chủ nghĩa tập thể thì lại có cái nhìn vĩ mô và có cấu trúc hơn. Trong khi
không cần phải phủ nhận tính đại diện của cá nhân, họ nhìn nhận hành động con người
thì được quyết định phần lớn bởi tập thể. Những người theo chủ nghĩa tập thể là
những cấu trúc xã hội được xây dựng bởi con người nhằm cung cấp sự ổn định và ý
nghĩa đối với cuộc sống. Đó chính là “quy luật của trò chơi” (North, 1990) thúc đẩy và
điều khiển hành vi con người.
Áp lực và sự ảnh hưởng qua lại giữa hành vi tối đa hóa lợi ích của cá nhân với các ảnh
hưởng mang tính quyết định của tập thể - chẳng hạn, giữa hành động và cấu trúc – là
những chủ đề bất biến trong các thuyết về xã hội và kinh tế. Theo trường phải kinh tế
học, chủ nghĩa tập thể nổi lên vào cuối thế kỉ thứ 19 đáp lại những giả định của chủ
nghĩa cá nhân mang tính phương pháp luận của kinh tế học cổ điển đã nhìn nhận con
người như là những thực thể có lý trí, có xu hướng tối đa hóa lợi ích và mang ý kiến cá
nhân (Dorfman, 1963). Một vài người trong số những nhà kinh tế học theo quan điểm
tập thể “lỗi thời” – Veblen, Mitchell, Ayres – ban đầu hứng thú với sự nổi lên và phổ
biến của tập quán và thói quen “hiển nhiên”, trong khi những người khác chẳng hạn
như Commons lại tập trung vào những chuyển biến xã hội (chẳng hạn như tổ chức
công đoàn lao động và sự biến mất của chủ nghĩa độc quyền) và xe m xét cách thức mà
những quy định làm việc của
tập thể được thiết lập nhằm chỉ rõ những nghi hoặc và bất công giữa các đảng và tầng
lớp với quyền lực không tương xứng và lợi ích khác nhau.
Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ thứ 20, một trường phái của chủ nghĩa cá nhân nổi
lên trong các nhà xã hội học về tổ chức nhằm xác định các vấn đề về cách thức và
nguyên nhân các tổ chức tiếp nhận các sự sắp xếp về mặt thể chế tương tự nhau.
Powell và DiMaggio (1991) cho rằng chủ nghĩa cá nhân mới mẻ này được xây dựng
dựa trên nền tảng của “cuộc cách mạng về nhận thức” trong xã hội học, phương pháp và
phong tục học (Garfinkel, 1967) và lí thuyết xây dựng xã hội (Berger và Luckmann,
1967). Các tác giả nhìn nhận sự thể chế hóa (tập thể hóa) như là một tiến trình định
hình tập thể mà xe m xét các quy định, giá trị và mâu thuẫn như là thứ yếu và ít quan
trọng hơn tiến trình nhận thức. Những người theo trường phải tập thể mới nhìn nhận
sự xây dựng xã hội của chữ viết, chuẩn mực và phân tầng như là “những thứ mà thể chế
được hình thành” (Powell và DiMaggio, 1991, p. 15). Một vài người cũng tiếp nhận
phương pháp mới mang tính phổ biến mà phương pháp này lại tách khỏi những hành
động có tính mục đích và khuôn khổ của những nhóm lợi ích khác nhau trong những
thể chế đang thay đổi. Như chúng ta đã thấy, một vài học giả theo trường phải tập thể
mới bắt đầu nhìn nhận vấn đề này bằng việc xe m xét mối quan hệ qua lại giữa thuyết
tiền định về cấu trúc và đại diện cá nhân.
Các học giả ở cả 2 khía cạnh đều nghiên cứu sự thay đổi về thể chế. Các học giả về
chuyển biến xã hội tập trung vào những thay đổi về thể chế xảy ra thông qua các
cam đoan, hành động chính trị và các chiến dịch động viên cơ sở nhằm chỉ rõ chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, chiến tranh, vũ khí nguyên tử, vấn đề giới tính, sự tàn phá về môi
trường và những vấn đề xã hội khác. Các học giả về công nghệ thì tập trung vào sự
ảnh hưởng qua lại của thay đổi về kĩ thuật, xã hội và thể chế trong các nghiên cứu của
mình về những cải tiến công nghê, khởi sự và sự nổi lên của ngành công nghiệp. Các
học giả ở cả 2 trường phái đều tập trung vào những tiến trình của hành động tập thể,
cũng như những hành động tìm kiế m lợi ích mà những người thực hiện chúng nhằm ảnh
hưởng lên các tiến trình trên.
Gần đây các học giả đã quan sát những điểm giống nhau đáng kể trong các tài liệu về
sự thay đổi về xã hội, kĩ thuật và thể chế. Họ đã vẽ ra một sơ đồ khái quát hơn và hệ
thống hơn về nền tảng chung được chia sẻ bởi những lĩnh vực này. Bằng việc xe m lại
tài liệu, chương này sẽ cố gắng cung cấp một sơ đồ như thế. Chúng tôi thảo luận về
những công trình mang tính nhận thức và thực nghiệm lớn từ trường phái cũ của kinh
tế học thể chế, trường phải mới của lí thuyết thể chế được tìm thấy trong thuyết tổ
chức và xã hội học, công trình về cải tiến công nghệ và sự nổi lên của ngành công
nghiệp trong tài liệu quản trị, và tài liệu về những chuyển biến xã hội được công bố bởi
những nhà xã hội học và các nhà khoa học về mặt chính trị. Chúng tôi tập trung vào
việc xem xét những tương tác năng động giữa các thể chế, cải tiến công nghệ và sự
chuyển biến xã hội. Chúng tôi nhận diện những điểm giống và khác trong các mặt này
và chỉ ra một vài đóng góp thêm vào mà mỗi khía cạnh mang lại để hiểu hơn về sự
thay đổi thể chế.
Chúng tôi nhấn mạnh vào sự thay đổi về mặt thể chế hơn là bản thân thuyết thể chế.
Chúng tôi xe m việc nghiên cứu thay đổi về thể chế là cực kì quan trọng vì vài
nguyên nhân. Thứ nhất, những thể chế trở nên quan trọng khi những vấn đề thiết yếu
đang bị đe dọa. Khi đọc Meyer và Rowan (1977), chúng ta có thể kết luận nhầm rằng
những thể chế (tổ chức) là những chuyện hoang đường mang tính biểu tượng không
nhằm phục vụ cho một mục đích hữu ích nào hơn là cung cấp một sự ngụy trang khiến
cho tổ chức trở nên xác thực bởi vì những hoạt động của nó là thỏa mãn những kì vọng
của xã hội. Ngược lại, Stinchcombe (1997) cho rằng tính chính thức và những nghi lễ
của thể chế là tăng dần cùng với tầm quan trọng cơ bản của vấn đề hay quyết định
được đưa ra, bởi vì có nhiều điều được thể chế hóa là vấn đề mà chúng quan tâm.
Nói cách khác, khi hệ thống giá trị thông báo thứ hạng của thể chế như là một thứ gì đó
được ưu tiên cao, thì những người gìn giữ thể chế sẽ có thể chính thức hóa sự phù hợp
với thể chế vào trong nghi lễ được thiết kế để theo dõi, thúc đẩy và ban hành giá trị
của thứ đó. Quyền ưu tiên càng cao thì sự chính thức hóa và nghi lễ càng cao. Một
điều càng mang tính nghi lễ cao trong một tổ chức, thì chúng lại càng ít mang tính đơn
thuần là một nghi lễ bởi nó càng mang tính quan trọng một cách vững chắc…chẳng hạn
trong luật pháp
chứng minh: sự công bằng càng phụ thuộc vào một lượng bằng chứng bao nhiêu thì
luật pháp bằng chứng mà ở đó có sự giới thiệu về bằng chứng đó càng mang tính chính
thức bấy nhiêu.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai để nghiên cứu về sự thay đổi thể chế là nó cung cấp
một cách thức khác đáng tin cậy để hiểu những tiến trình thay đổi trong nền kinh tế
mới nổi mà những thuyết truyền thống về tổ chức là thiếu trang bị để lí giải. Davis và
McAdam (2000) cho rằng những tiến trình sản xuất “không biên giới” ngày càng tăng,
tính ưu thế của những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên thị trường tài chính và những tiến
trình xã hội và chính trị định hình cấu trúc và cải tiến của những tổ chức đang làm suy
yếu dần tính hữu ích mang tính biện minh của thuyết tổ chức chẳng hạn sự phụ thuộc
vào tài nguyên và sinh thái học dân số. Các lí thuyết về sự thay đổi thể chế và chuyển
biến xã hội có thể cung cấp sự giải thích phù hợp hơn với hành động tập thể mang tính
cạnh tranh và hợp tác giữa các mạng lưới tổ chức và những tác nhân thuộc thể chế
khác trong nền kinh tế hậu công nghiệp. Tuy nhiên, để nhận ra tiềm năng này, quan
điểm ổn định của lí thuyết tân thể chế với tư cách là những lực lượng có cấu trúc nhất
quán và liên tục cần phải được xe m lại và phát triển. Việc tập trung vào sự thay đổi
về thể chế tương đối bị xao lãng trong các tài liệu thể chế gần đây.
Phần tiếp theo của bài giới thiệu này xác định những khái niệm cơ bản và cung cấp
một khuôn khổ cho việc phân tích sự thay đổi về thể chế. Chúng tôi xác định 4 quan
niệm khác biệt về sự thay đổi thể chế, gồm thiết kế tổ chức, sự thích ứng về mặt tổ chức,
sự phổ biến về mặt tổ chức và hành động tập thể. Phần 2 của chương xe m lại các công
trình đi kèm với mỗi quan điểm. Chúng tôi bao quát cả những bài lí thuyết sâu xa cũng
như các nghiên cứu thực nghiệm. Phần kết luận của chương thảo luận về những chủ đề
lớn trong tài liệu về sự thay đổi thể chế và sự tổng hợp của các quan điểm.
CÁC ĐỊNH NGHĨA.
North (1990, p. 2) định nghĩa các thể chế như là “quy định của trò chơi trong một xã hội
hoặc một cách chính thức hơn….đó là những quy định được thiết lập bởi con người
nhằm định hình sự tương tác của con người với nhau.” Chúng được xây dựng bởi xã
hội nhằm
khiến cho cuộc sống ổn định và ý nghĩa và chúng cũng quy định và thúc đẩy hành động.
Scott (2001) mô tả những thể chế bao gồm những thành tố mang tính văn hóa - nhận
thức, chuẩn mực và quy định hay chính là những “trụ cột”. Mặc dù Scott nhấn mạnh
khía cạnh văn hóa - nhận thức của các thể chế, ông nhìn nhận “thể chế” như là một
khái niệm đa khía cạnh. Đó chính là những trụ cột nhận thức, chuẩn mực và quy định
đại diện cho 3 khía cạnh khác nhau của một thể chế đơn lẻ. Nét nổi bật tương ứng của 3
khía cạnh này là khác biệt với những vấn đề được xác định. Chẳng hạn, vì những
người theo trường phái thể chế cũ (chẳng hạn như Commons , 1934/1961; 1950) chỉ ra
những vấn đề về thiết kế các quy tắc trong thể chế có thể thi hành được đối với việc
thiết lập những nghi hoặc và bất công giữa các đảng đối lập, chúng tập trung vào khía
cạnh quy định của các thể chế.
Những người theo trường phái tân thể chế tập trung vào khía cạnh nhận thức – văn hóa
phần lớn là vì nó thích hợp với vấn đề nghiên cứu của họ về cách thức mà những thể
chế tái sản xuất và mở rộng. Họ hầu như quan tâm đến việc những thể chế trở thành
những khuôn khổ về tinh thần hiển nhiên giúp cho việc xử lí thông tin và ra quyết định
dễ hơn và thúc đẩy con người làm cho thế giới ý nghĩa hơn. Họ nhìn nhận những thể
chế, mỗi khi được thành lập, như là những tác nhân mạnh định hình hành vi của cá
nhân và tổ chức. Họ thiết lập nên cách thức mà thế giới của con người phải trở thành,
nên trở thành và thậm chí qua điểm nhận thức về việc thế giới là gì. Những lí thuyết
gia theo trường phái tân thể chế chẳng hạn như Tolbert và Zucker (1996) tập trung vào
việc thể chế hóa, đó là tiến trình mà những thể chế được phổ biến và chính thức hóa –
đó là, tiến trình mà những thể chế trở thành hiển nhiên và được trải nghiệm bởi những
con người thuộc thể chế đó như là thực tế có mục đích hơn là được xây dựng về mặt xã
hội.
Theo Leonid Hurwicz (1993), chúng tôi phân biệt những người trong thể chế (hay những
thực thể) với những sự sắp xếp về thể chế, với thuật ngữ thể chế là đề cập đến sự sắp
xếp về thể chế. Đây là một sự phân biệt mà không phải tất cả các học giả đều sử dụng.
Chúng tôi nghĩ rằng sự phân biệt này là quan trọng, đặc biệt về xu hướng trong tư liệu
bỏ qua hoặc không xe m xét những nền tảng thể chế và pháp lí của tổ chức. Đó chỉ là bởi
bản chất
của một sự sắp xếp về thể chế mà một tổ chức có thể thự hiện như thể nó là một
con người với những quyền và nghĩa vụ được thiết kế một cách đặc biệt.
Phần khó để hiểu những thể chế chính là tính phổ biến và đa dạng của chúng. Một sự
sắp xếp về thể chế có thể là rất đơn giản (chẳng hạn, tín hiệu đèn đỏ hay chuông của
trường học) hoặc được tranh luận gay gắt và phức tạp (chẳng hạn như sao chép vô tính
từ tế bào mầ m, những luật về môi trường, thực hành kiểm toán và tư vấn bởi những
công ty kế toán). Sự sắp xếp về thể chế có thể áp dụng cho những thực thể thể chế đơn
lẻ (chẳng hạn như việc thuê tuyển nội bộ trong công ty hay những chính sách thăng tiến),
những tổ chức trong một ngành hoặc dân cư (chẳng hạn như những tiêu chuẩn công
nghệ, quy định về cạnh tranh thị trường hoặc việc hình thành một tổ chức cụ thể), tất cả
những cư dân của một quốc gia (chẳng hạn, việc đánh thuế, quyền về tài sản, luật về
quyền tự do công dân), những con người trong nhiều đất nước (chẳng hạn như luật về
quyền con người, thuế quan và hiệp định thương mại, những thỏa thuận về môi trường
trên toàn thế giới, những giá trị về ngoại tệ.)
Chúng tôi định nghĩa sự thay đổi về thể chế như là sự khác nhau trong việc hình thành,
chất lượng hoặc trạng thái qua thời gian trong một thể chế. Sự thay đổi về sắp xếp
trong thể chế có thể bị quyết định bởi việc quan sát sự sắp xếp tại 2 thời điểm hoặc
nhiều hơn trong tập hợp các khía cạnh (chẳng hạn như nhận thức, chuẩn mực và sự rõ
ràng về mặt quy định) và sau đó tính toán sự khác nhau qua thời gian trong các khía
cạnh này. Nếu có sự khác biệt đáng kể, chúng tôi có thể nói rằng sự sắp xếp về thể chế
đã thay đổi. Nhiều quan điểm trong tài liệu đồ sộ về sự thay đổi thể chế tập trung vào
bản chất của sự khác biệt này, điều gì sản sinh ra chúng, và những hậu quả. Điều ít được
chú ý hơn sẽ liên quan đến những tiến trình của sự thay đổi về thể chế.
Hai định nghĩa khác biệt về tiến trình thường được sử dụng trong tài liệu: (1) danh mục
các khái niệm hay các biến số liên quan đế những hành động và hoạt động và (2) sự mô
tả tường thuật về cách thức mà mọi thứ phát triển và thay đổi (Van de Ven, 1992). Khi
định nghĩa đầu tiên được sử dụng, tiến trình thường đi kèm với “thuyết sai số” (Mohr,
1982) về sự thay đổi, mà trong đó tập hợp những biến số độc lập giải thích về mặt thống
kê những
sai số trong các tiêu chuẩn kết quả (biến phụ thuộc). Ý nghĩa thứ hai của tiến trình
thường đi kèm với sự giải thích theo “thuyết tiến trình” về trật tự thời gian và trình tự
trong đó tập hợp những sự kiện thay đổi mang tính riêng biệt là xảy ra dựa trên câu
chuyện hay sự tường thuật mang tính lịch sử (Abott, 1988; Pentland, 1999; Poole, Van
de Ven, Dooley, và Holmes , 2000). Theo cách sử dụng này, vấn đề về “cách mà sự
thay đổi diễn ra” được xác đ ịnh bởi việc tường thuật trình tự thời gian những sự kiện
diễn ra trong một sự sắp xếp về thể chế.
Trong việc xem lại tài liệu, chúng tôi xe m các công trình cụ thể như là những thuyết
tiến trình hay thuyết biến số. Trong khi những ví dụ của thuyết tiến trình và thuyết biến
số có thể được tìm thấy trong mỗi khía cạnh của 4 khía cạnh về sự thay đổi được xác
định trong chương này, hầu hết công trình hiện nay về sự thay đổi về chể quan tâm đến
thuyết sai số. Trong khi một nghiên cứu đơn lẻ lại sử dụng thuyết sai số hoặc thuyết
tiến trình nhưng không cả hai, 2 cách tiếp cận này là không mang tính duy nhất về lí
thuyết và trong thực tế chúng có thể bổ sung cho nhau. Poole và cộng sự (2000,
chương 2) đã thảo luận sâu hơn về các phân biệt quan trọng giữa thuyết tiến trình và sai
số.
Những học giả về thể chế đã tranh luận không ngừng về việc liệu sự thay đổi về thể chế
có liên tục và mang tính tiến hóa hay không liên tục và mang tính cách mạng. Chúng
tôi tán thành với Ca mpbell (2001) rằng sự phân biệt giữa sự thay đổi mang tính tiến
hóa và sự thay đổi mang tính cách mạng phần lớn chính là chức năng của mức độ phân
tích và phạm vi thời gian của tiến trình thay đổi. Điều hóa ra chính là sự thay đổi không
liên tục theo khoảng cách có thể được xe m xét kĩ hơn có thể được xe m là mang tính
liên tục và dần dần. Chẳng hạn, trong nghiên cứu về hậu cộng sản ở Đông Âu và Liên
minh Xô Viết cũ, Campbell va Pedersen (1996) dẫn ra rằng những thay đổi dường như
mang tính cách mạng trong các cấu trúc cầm quyền ở quốc gia thực tế là kết quả của
những thay đổi mang tính tiến hóa hơn trong những cấu trúc rời rạc.
Một vài học giả đã phát triển những mô hình khác nhau để phân biệt những khuôn
mẫu thay đổi liên tục (lớn lên, tiến hóa) và không liên tục (trạng thái cân bằng ngắt
quãng). Chúng tôi thắc mắc là liệu những mô hình khác nhau có hữu ích hay không.
Liệu sự thay
đổi bắt đầu từ mức độ lớn dần lên (chậm, dần dần) hoặc triệt để (nhanh chóng, bất
thình lình) chính là câu hỏi thực nghiệm. Sử dụng các mô hình khác nhau để giải
thích tầm quan trọng khác nhau của sự thay đổi được quan sát dựa theo đóng góp hóa ra
không phải là chiến lược tốt để xây dựng lí thuyết tổng quát và chi tiết. Một lí thuyết
đơn lẻ chắc sẽ trở nên hữu ích và thiết thực hơn nhiều. Trên thực tế, lí thuyết trạng thái
cân bằng ngắt quãng đã được xem như là một phần của hình thức rộng hơn cả tính
năng động vô tuyến phản ánh chức năng quyền lực đảo ngược. Điều này khá thú vị,
dựa vào đó có thể phát triển một lí thuyết đơn lẻ (với một cơ chế sản sinh phổ biến) có
thể giải thích những đóng góp rộng lớn đối với tầm quan trọng và mức độ của sự thay
đổi được quan sát trong thế giới thực nghiệm.
KHUÔN HỔ HƯỚNG DẪN VIỆC XEM LẠI TÀI LIỆU.
Không may là việc xem xét lại của chúng tôi đối với những tài liệu ngổn ngang
thuộc nhiều lĩnh vực về sự thay đổi thể chế không thể được tích hợp thành một quan
điểm đơn lẻ. Các học giả không hội tụ cùng một vấn đề đơn lẻ hay lí thuyết thay đổi.
Thay vào đó, chúng tôi nghĩ rằng họ đồng thuận với nhau về 4 khái niệm phân biệt của
sự thay đổi về thể chế. Mỗi khái niệm chỉ ra những vấn đề khác nhau và dựa trên cơ
chế sản sinh độc đáo để giải thích sự thay đổi. Chúng tôi đặt tên cho 4 khái niệm là
thiết kế thể chế, sự thích ứng về thể chế, sự phổ biến thể chế và hành động tập thể.
Những khía cạnh phân biệt của 4 khái niệm này được vạch ra trong bảng 9.1 và được
tóm tắt ở dưới.
Khái niệm thiết kế thể chế tập trung vào sự sáng tạo có mục đích và sự sửa lại của các
thể chế nhằm nhận diện các mâu thuẫn và bất đồng về xã hội. Cơ chế sản sinh để nhận
diện các vấn đề về cách mà các thể chế được thiết lập và nổi lên chính là sự ban hành
có mục đích và s ự xây dựng xã hội. Theo cách nhìn này, các thể chế phản ảnh việc
chạy theo những lựa chọn có ý thức và hành vi mà xã hội cho là khôn ngoan và hợp lí.
Khái niệm sự thích nghi về thể chế giải thích cách thức và nguyên nhân mà các tổ chức
thích nghi với những vấn đề trong môi trường của mình. Scott (2001) cho rằng kể từ
công trình của Meyer và Rowan 1977, các nhà xã hội học về tổ chức đã tập trung sự chú
ý của mình vào vấn đề về cách mà môi trường của thể chế định hình cấu trúc tổ
chức. Công
trình của những người theo trường phái thể chế mới này có thể được xem là sử dụng
khái niệm sự thích nghi về thể chế.
Khái niệm sự phổ biến về thể chế tập trung vào cách thức và nguyên nhân mà những thể
chế cụ thể được tiếp nhận (lựa chọn) và phổ biến (duy trì) trong dân cư.
Bảng 9.1 – Những khía cạnh phân biệt 4 khái niệm về sự thay đổi thể chế
Khía cạnh
Thiết kế thể chế
Sự thích nghi về thể Sự phổ biến thể chế
Hành động tập thể
chế
Vấn đề
Những hành động Làm thế nào mà Làm thế nào mà Làm thế nào mà
và vai trò mà những những tổ chức riêng những sắp xếp về những thể chế nổi
cá nhân trong thể lẻ thích nghi với thể chế tái sản xuất, lên để tạo điều ki ện
chế đảm nhận nhằm môi trường thể chế phổ biến hoặc gi ảm và dẫn dắt những
thiết lập hoặc thay của mình?
sút trong dân cư chuyển biến xã hội
đổi một sự sắp xếp
hoặc về khía cạnh hoặc những cải tiến
trong thể chế?
Tại sao những tổ
chức lại sử dụng
những
thể
tổ chức?
về công nghệ?
chế Tại sao các tổ chức
tương tự nhau?
lại giống nhau?
Những người quan
Những doanh nhân
Những người trong Dân cư và ngành
Mạng lưới những
trọng trong thể chế
đơn lẻ với sự đại
tổ chức thích nghi của tổ chức được
người được
diện có giới hạn: sự
(tiên
hay thể hiện trong cùng
bố và phân chia bè
đánh giá lẫn nhau
phản ứng lại) đối một môi trường thể
phái về mặt liên tổ
mang tính phe phái
với môi trường thể chế
chức
chế
người được
phong
là
phân
những
gắn
chặt vào trong tiến
trình
chung
của
việc thiết lập và sửa
lại những thể chế
Cơ chế sản sinh
Sự đóng góp về mặt Niềm
tin
môi Sự cạnh tranh vì Sự nhận diện vấn
xã hội và những trường, áp lực hoặc nguồn
lực
khan đề của thể chế, rào
chiến lược mà con những quy định m à hiếm thúc đẩy con cản hoặc sự bất
người
sử
dụng những người trong người bắt chước và công
nhằm giải
quyết tổ chức phải thích thích
vấn đề và
điều
nghi để trở nên hợp
nghi
giữa
các
với nhóm doanh nhân
những thực tế hợp
về xã hội và công
10
chỉnh lại những bất
pháp
lý của thể chế
nghệ
công
Tiến trình: trình tự
Tiến
trình
biện Các tiến trình mang Tiến trình tiến hóa Những
sự kiện
chứng của việc thiết tính
cưỡng
sự
ki ện
ép, của biến số, sự lựa chính trị chung kèm
lập những quy định chuẩn mực và bắt chọn và duy trì sự với tiến trình định
làm việc giải quyêt chước của sự thích hình thành thể chế
hình và thay đổi các
các mâu thuẫn và nghi và thay đổi
cấu trúc và cơ hội
chỉ ra những trường trong
cho sự cải cách thể
hợp chưa từng có
Kết quả
nội bộ
tổ
chức
chế
“ Những quy định Tính hợp pháp của Sự thể chế hóa và Tiền lệ trong thể
của trò chơi” mới tổ chức bằng việc giảm thể chế hóa chế, quy định làm
tạo điều kiện và sử dụng những sắp của những sắp xếp việc mới hoặc được
thúc đẩy con người xếp về
bằng việc thay đổi giống nhau
thể
chế trong thể chế đối thay đổi, sự cải tiến
với con người
trong thể chế
quyền, nghĩa vụ và
vai trò của họ
Thuyết thể chế ở đây đã vay mượn và phát triển từ sinh thái học và tiến hóa về tổ chức.
Những nhà sinh thái học về dân số đã sử dụng những lí lẽ phụ thuộc vào mật độ để giải
thích tính hợp pháp và sự chọn lọc cạnh tranh của các hình thức thể chế nhất định.
Các mô hình hành động tập thể tập trung vào những tiến trình của sự thay đổi về thể chế
tại mức độ lĩnh vực liên tổ chức. Những tiến trình này được khởi xướng bởi những
chuyển biến xã hội và những nhà kinh doanh theo đuổi những cải tiến công nghệ.
Những học giả nghiên cứu khái niệm này ban đầu quan tâm đến cách thức những sắp
xếp thể chế mới nổi lên từ những tương tác giữa các đại diện phe phái độc lập.
Chúng tôi cũng xe m xét 4 khái niệm này của sự thay đổi thể chế theo trình tự lịch sử
mà trong đó chúng xuất hiện, bắt đầu với thiết kế thể chế, sau đó là thích ứng về thể
chế, sự phổ biến và hành động tập thể. Mỗi khi chúng xuất hiện, các khái niệm phát
triển đồng thời và thỉnh thoảng phản ứng lại với nhau.
Trước khia phân chia thành 4 khái niệm, chúng tôi thừa nhận rằng việc xe m lại tài liệu
là không toàn diện. Chúng tôi chỉ tập trung vào những công trình nghiên cứu mà chúng
tôi
tin là đại diện cho những đóng góp về lí thuyết mang tính dẫn đầu và những nghiên
cứu thực nghiệm mẫu mực đối với mỗ i khái niệ m. Tài liệu thì lại quá nhiều để có thể
bao quát hoàn toàn. Chúng tôi cũng chú ý rằng sự phân loại những lí thuyết và những
nghiên cứu không áp dụng được cho các tác giả. Chúng tôi mong là tránh được việc
phân vai cho các học giả riêng lẻ. Nhiều học giả viết và nghiên cứu về sự thay đổi thể
chế từ nhiều khái niệm. Qua thời gian, những tư duy của họ cũng phát triển. Trong kết
luận chúng tôi đề xuất rằng ban đầu những phân biệt giữa 4 khái niệm là thô sơ và
cứng nhắc, tuy nhiên chúng đang trở nên mờ nhạt hơn khi mà những học giả nhận ra
những điểm thiếu sót của mỗi khái niệm và mò mẫ m một lí thuyết tổng quát hơn về sự
thay đổi thể chế.
Các khái niệm về sự thay đổi thể chế
Sự thiết kế thể chế
Các học giả nghiên cứu khái niệm sự thiết kế thể chế quan tâm đến những hành động
mà những cá nhân đơn lẻ thực hiện để thiết lập hoặc thay đổi những sắp xếp về
thể chế. Chúng tôi xe m các thể chế là sự phản ánh những quyết định và hành động
có lý trí. Những học giả này định tập trung sự chú ý của họ vào những quan hệ bất
công và quyền hành không công bằng, kết quả là họ đã chuyển sự chú ý sang những tiến
trình biện chứng mà những quy định làm việc được phát triển để giải quyết những mâu
thuẫn. Những quy định làm việc này là không mang tính lý trí thật sự nhưng lại phản
ánh sự nhất trí về những gì là hợp lí và khôn ngoan. Chúng là “các quy định của trò
chơi” dẫn dắt và tạo điều kiện cho con người thay đổi quyền, nghĩa vụ hoặc vai trò của
họ.
Thiết kể thể chế và n h ững người theo trường phái thể chế cũ
Khái niệm thiết kế thể chế được giới thiệu bởi những nhà kinh tế học về thể chế cũ, và cụ
thể là John R. Commons. Trong tác phẩm The Economics of Collective Action (1950),
Commons đã cố gắng để đơn giản hóa những lí lẽ mà ông đã đưa ra trong Legal
Foundations of Capitalism (1924/1968) và Institutional Economics (1934/1961),
Commons giới thiệu một “lí thuyết thực dụng và duy ý chí về các thể chế (Van de
Ven,
1993) nhằm tìm cách hòa giải quyền lực và tự do. Commons cho rằng những cá
nhân không phải là những thực thể độc lập tự có tính hiệu quả, và xã hội không phải là
một tập hợp đơn giản gồm những thành viên cá nhân. Những chuẩn mực, phong tục và
luật lệ quy định và cung cấp sự bảo đảm của kì vọng đối với những hành động của cá
nhân là tổ chức chính là “những quy tắc làm việc” của hành động tập thể. Các quy tắc
làm việc trong thể chế kiểm soát, giải phóng và mở rộng hành động cá nhân bằng cách
định rõ những quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức. Các thể chế kiểm soát
hành vi cá nhân thông qua các hình thức thưởng phạt về mặt tinh thần, thể chất hoặc
kinh tế. Tuy nhiên, các thể chế không đơn giản là cưỡng ép, chúng cũng thả tự do và mở
rộng hành vi cá nhân. Sự thả tự do đối với một vài cá nhân (chẳng hạn như cưỡng ép,
cầm tù hay phân biệt) có thể có được thông qua việc quy định bắt buộc những hành
động của người khác. Commons nhấn mạnh rằng sự tự do cá nhân không phải là một
quyền tự nhiên, ông xem nó như là thành tựu của tập thể. “Cách duy nhất để đạt được
‘sự tự do’ chính là áp đặt những nghĩa vụ lên người khác, mà những người này có thể
cản trở hoạt động của cá nhân ‘được tự do’”. Do đó, Commons xe m những thể chế như
là phương tiện đối với sự tự do cá nhân.
Khi các thể chế cưỡng ép, thả tự do và mở rộng hành vi cá nhân, các cá nhân xây dựng
và thay đổi thể chế. Commons bác bỏ sự chọn lọc tự nhiên và thay thế vào đó sự chọn
lọc nhân tạo (có mục đích), chú ý rằng các cá nhân làm cho môi trường của họ thích
hợp với nhu cầu và mục đích của chính họ. Ông cho rằng những cá nhân có năng lực,
theo bản chất của mình, về việc xây dựng những lực lượng trong thể chế và lực
lượng tự nhiên xung quanh mình. Kết quả là sự thay đổi thể chế có khuynh hướng
mang tính ý chí, mục đích và nguyện vọng của cá nhân.
Commons đưa ra 3 khía niệm hành động để xe m xét nguyện vọng của con người
trong hành động: thành tích, sự né tránh và sự kiên trì. “Đối với việc chọn lựa cái nào
bao gồm hành động, nguyện vọng chính là việc mong chờ có mục đích. Nguyện vọng
luôn đương đầu với điều gì đó. Nó luôn tồn tại, né tránh và tiếp diễn,…với việc mong
chờ vào tương lai. Một cá nhân hành động bằng việc thực hiện hành vi bị giới hạn và
- Xem thêm -