Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước ...

Tài liệu Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

.PDF
145
11
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN HIỆP SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN HIỆP SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN 6 HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Về đạo đức 6 1.2. Về pháp luật 17 1.3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức - tất yếu khách quan 23 1.3.1. Đạo đức cần đến pháp luật 24 1.3.2. Pháp luật cần đến đạo đức 26 1.4. Tổng quan về nhà nước pháp quyền 31 1.4.1. Quan niệm chung về nhà nước pháp quyền 31 1.4.2. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 33 1.4.3. Vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền 34 1.4.4. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền 38 1.5. Đạo đức trong nhà nước pháp quyền dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 46 1.5.1. Những khía cạnh tích cực 47 1.5.1.1. Sự nhìn nhận lại vai trò của cá nhân 47 1.5.1.2. Đạo đức đã được pháp luật hóa ở mức độ nhất định 48 1.5.1.3. Được giao lưu với thế giới 49 1.5.1.4. Những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp dù bị tác động mạnh, vẫn chứng tỏ sức sống mạnh mẽ 50 1.5.2. Những khía cạnh tiêu cực 52 1.6. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự tác động của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 58 1.6.1. Sự tác động của pháp luật tới đạo đức 59 1.6.2. Sự tác động của đạo đức tới pháp luật 67 Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA 74 PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC CƠ BẢN CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 2.1. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực kinh doanh 74 2.2. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động công vụ 82 2.3. Mối quan hệ qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình 87 2.4. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục 93 2.5. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực văn hóa 97 2.6. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ 101 2.7. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực môi trường sinh thái 105 2.8. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực chính sách xã hội 111 Chương 3: 117 NHỮNG BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO DỨC TRONG GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật gắn với tuyên truyền, phổ biến pháp luật 117 3.2. Đấu tranh kiên quyết với các hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội 121 3.3. Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức theo hướng xây dựng và củng cố các chuẩn mực đạo đức cá nhân - đạo đức gia đình - đạo đức cộng đồng 124 3.4. Đi tìm lời giải từ đời sống kinh tế - xã hội 130 KẾT LUẬN 135 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 137 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Năm 2001, quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992, đã đánh dấu sự xuất hiện của một sự kiện quan trọng: quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Chính thực tế đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam những năm qua (mà cốt lõi là sự vận hành của cơ chế thị trường) cùng với xu thế chung của thế giới đã buộc xã hội Việt Nam phải có yêu cầu về một mô hình quản lý mới. Nhà nước pháp quyền, với tư cách là một phương thức tổ chức nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, mọi chủ thể phải phục tùng pháp luật, đồng thời pháp luật đó phải phản ánh được sự công bằng, nhân đạo, thể hiện và đảm bảo đầy đủ những giá trị cao nhất của con người, xét về mặt xuất xứ, là mô hình ngoại nhập. Câu hỏi đặt ra là liệu mô hình này có phù hợp và tồn tại được trong xã hội Việt Nam, với những nét văn hóa đặc thù, được hay không? Liệu nói đến nhà nước pháp quyền thì có phải là đồng nghĩa với việc tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật không? Liệu nhà nước pháp quyền có dung hợp được với giá trị đạo đức vốn đã ăn sâu trong suy nghĩ và xử sự của các thế hệ người Việt Nam hay không? Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội, pháp luật và đạo đức là hai hệ thống quy phạm quan trọng nhất tác động đến nhận thức và xử sự của con người. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa pháp luật và đạo đức có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu này giúp chúng ta nhận biết được những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật có thể giúp gì cho đạo đức để có thể giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp và cổ vũ, bảo vệ những giá trị đạo đức mới; và đạo đức có thể hỗ trợ thế nào cho pháp luật để các văn bản ban hành ra phù hợp với thực tiễn và đi vào cuộc sống một cách thuận lợi. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hoạch định được những giải pháp đúng đắn và cụ thể cho quá trình 1 xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, xây dựng xã hội thịnh vượng và văn minh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của cả Luật học và Đạo đức học. Điều này được phản ánh trong các tác phẩm lý luận về pháp luật và đạo đức như Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp, năm 1993; Giáo trình Đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000, đều có những mục xem xét mối quan hệ này. Nội dung của những mục tiêu này tuy không nhiều nhưng đã đưa ra được những định hướng bước đầu rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Ở góc độ nghiên cứu cụ thể, trong thời gian qua phải kể đến một số công trình tiêu biểu như Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam của các tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2000, các tác giả đã giới thiệu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức qua các giai đoạn lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này… Đặc biệt phải kể đến ở đây là loạt công trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/ 1999; Một số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2000; Xu hướng vận động, phát triển của pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7, 8 /2002…là những bài viết có giá trị. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình đáng chú ý khác như: Bàn về giáo dục pháp luật của TS. Trần Ngọc Đường, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Tìm hiểu về mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật của LG Lê Quang Thưởng; Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật của LG. Phạm Văn Tỉnh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của tác giả Lương Hồng Quang, Luận án tiến sĩ 2 luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003... Bên cạnh đó, thời gian qua cũng xuất hiện một số công trình nghiên cứu đề tài này dưới góc độ triết học như:Vai trò của quy phạm pháp luật trong xây dựng đạo đức ở nước ta hiện nay của tác giả Đỗ Như Kim - Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003; Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển hóa sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyên Văn Lý Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000... Tuy nhiên, thực tế đang đòi hỏi phải có những nghiên cứu để tìm ra những tác động thuận chiều và tác động nghịch chiều giữa pháp luật và đạo đức, những tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong xã hội Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là hướng mà luận văn của tác giả mong muốn đi sâu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn có mục đích làm rõ sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức, từ đó xem xét thực trạng sự tác động này ở nước ta hiện nay và đề xuất những giải pháp mang tính định hướng cho việc tăng cường những tác động thuận chiều và hạn chế những tác động nghịch chiều giữa pháp luật và đạo đức. Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Một là, phân tích sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Hai là, phân tích sự tác động này trong điều kiện nước ta hiện nay và bước đầu phân tích thực trạng mối quan hệ qua lại giữa pháp luật và đạo đức trên một số lĩnh vực quan trọng nhất của xã hộiViệt Nam. Ba là, đề xuất và phân tích một số giải pháp để phát huy những thuận lợi, hạn chế những cản trở trong mối quan hệ này. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo, sử dụng các công trình trong nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài 3 nước, đặc biệt là các tác phẩm triết học, lịch sử, văn hóa, tôn giáo … có liên quan trực tiếp đến nội dung của luận văn. Về phương pháp nghiên cứu, luận văn chú ý vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp phân tích, lịch sử… 5. Đóng góp mới của luận văn Từ việc phân tích những tác động cả thuận chiều và nghịch chiều giữa pháp luật và đạo đức, luận văn đã góp phần xác định những khía cạnh nào cần phát huy, tăng cường khía cạnh nào cần hạn chế trong sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta hiện nay. Bước đầu đề xuất và phân tích một số giải pháp mang tính định hướng cho việc nâng cao chất lượng của sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu một trong những vấn đề quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Với những kết quả đạt được, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật, đạo đức học trong hệ thống nhà trường. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa Pháp luật và Đạo đức trong Nhà nước pháp quyền Chương 2: Nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa Pháp luật và Đạo đức trong một số lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội 4 Chương 3: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc sử dụng kết hợp Pháp luật và Đạo đức trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. VỀ ĐẠO ĐỨC Xét về mặt từ nguyên, quan niệm của phương Tây và phương Đông, cơ bản là không khác biệt. Thuật ngữ "đạo đức" trong tiếng Anh là Morality, trong tiếng Pháp là Morale… có gốc từ la tinh là Moris, có nghĩa là lề thói đạo nghĩa. Trong tiếng Hy Lạp, từ đạo đức (Ethicos) cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Sau này, người phương Tây cũng dùng từ "Ethique" với nghĩa là đạo đức học. Ở phương Đông, Trung Quốc là nơi mà các nhà tư tưởng nói đến đạo đức nhiều nhất, điển hình là Nho giáo, nói như Giáo sư Trần Đình Hượu thì "Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức". Trong tiếng Trung Quốc, chữ "đạo đức" có nghĩa là Đạo lý và Đức hạnh (Hán Việt tự điển của Nguyễn Văn Khôn), là con đường đúng đắn (phép tắc) mà hành vi con người phải theo. Hiểu một cách chung nhất, cả quan niệm của người phương Tây và phương Đông đều coi đạo đức là những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi con người và là cơ sở để đánh giá xử sự của mỗi con người. Xét về nguồn gốc, đã có nhiều quan điểm lý giải về sự ra đời của đạo đức. Theo Nho giáo, đạo đức bắt đầu từ Trời, từ Thiên mệnh. Các bậc thánh nhân là người hiểu và thực hiện những chuẩn mực đạo đức do Trời đặt ra. Khổng Tử quan niệm "đạo đức được thực hành trong đời sống xã hội là xuất phát từ mệnh Trời" (Đạo chi tương hành dã dư, Mạng dã! - Luận ngữ, Chương Hiến Vấn), Đổng Trọng Thư đời Hán thì cho rằng: "Thánh nhân pháp thiên nhi lập đạo" tức là "bậc thánh nhân theo trời để lập cái đạo làm người". 6 Ở phương Tây cổ đại, nhà tư tưởng kiệt xuất Aristotle, đã cho rằng: đạo đức của xã hội loài người có nguồn gốc từ thần thánh. Bởi vì trong tín ngưỡng, người Hy Lạp tin rằng, các thị tộc đều là hậu duệ của các vị thần, "xã hội nhân gian vốn không có luân thường (đạo đức của con người), luân thường đến từ "thần luân " (đạo đức của thần)" [6, tr. 182]. Thế kỷ 18, nhà triết học Đức I.Kant cho rằng "các nguyên lý đạo đức độc lập với mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người và … lý tính là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức" [54, tr. 173]. Tức là theo ông, các quy tắc sinh ra đạo đức có được là do sự "suy tưởng", "chiêm nghiệm" của những bộ óc đầy lý trí. Nhưng lý trí lại không phải có được từ sự nhận thức về thế giới khách quan mà có được từ sự "tiên nghiệm" siêu việt của tư tưởng. Trong triết học Kant, tự do là phạm trù cơ bản nhất của đạo đức học, tự do cùng với Chúa, linh hồn bất diệt là ba phạm trù thể hiện sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không thể nhận thức được nhưng có nghĩa vụ phải thực hiện những yêu cầu của chúng. Trong các quan điểm về nguồn gốc của đạo đức, riêng Phật giáo lại có những kiến giải rất độc đáo. Trên cơ sở quan niệm cuộc đời là "bể khổ", Phật giáo đặt mục đích tối cao là giải thoát, thoát khỏi đau khổ. Để đạt được mục đích này, mỗi con người phải đi theo tám con đường chính đáng (bát chính đạo). Đó là: - Chính kiến: phải có hiểu biết đúng đắn về cuộc đời, nỗi đau khổ, và nguyên nhân đau khổ; - Chính tư duy: sự suy nghĩ phải cho đúng với những gì cần cho sự giải thoát; - Chính ngữ: lời nói phải chân thực, thận trọng; - Chính nghiệp: sống một cách trong sạch, đạo đức; - Chính mệnh: phải có nghề nghiệp lương thiện; - Chính tinh tiến: chịu khó học tập, suy nghĩ trên con đường tu tập; 7 - Chính niệm: thiện trong từng suy nghĩ; - Chính định: tập trung tư tưởng, không bị phân tán bởi những ham muốn. Đây chính là những chuẩn mực cao nhất mà Phật giáo yêu cầu đối với những người tu tập. Theo quan điểm của Phật giáo, bát chính đạo này cũng như tứ diệu đế có được từ sự mặc khải của Đức Phật khi Ngài chứng nhập Niết bàn (ngộ đạo - hiểu được nguyên lý của thế giới…). Quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng đạo đức có nguồn gốc từ hiện thực khách quan, là sự phản ánh đời sống của con người, chứ không phải là biểu hiện của một ý chí siêu phàm nào đó ở bên trên các quan hệ xã hội. Trong đời sống của con người nguyên thủy, nhất là trong quan hệ lao động, các cá nhân không thể đơn độc làm mọi việc mà phải dựa vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau, phân công lao động thì mới đạt hiệu suất cao. Quan hệ giữa con người với con người không chỉ có trong những quan hệ lao động mà còn biểu hiện trong nhiều quan hệ khác như: chiến đấu chống thiên tai, địch họa, phân phối sản phẩm lao động, những sinh hoạt thường nhật… Trong các quan hệ này, lợi ích các bên không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau mà trong nhiều trường hợp chúng mâu thuẫn với nhau, là nguyên nhân dẫn đến các xung đột xã hội. Để xã hội tồn tại và phát triển, cần phải có những nguyên tắc về hành vi ứng xử của các cá nhân. Các quy tắc này là kết quả của sự "chọn lọc xã hội" thông qua các hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Bởi vì các quan hệ xã hội có cùng tính chất (vay - nợ, mua - bán…) có khuynh hướng lặp đi lặp lại. Trải qua cùng thời gian, xã hội nhận thấy, trong mỗi mối quan hệ đó, nội dung ứng xử nào là hợp lý nhất thì nó sẽ trở thành các chuẩn mực đạo đức của xã hội mang tính yêu cầu đối với các cá nhân. Đến đây, các quy phạm đạo đức của xã hội đã hình thành. Về cơ bản, các tiêu chuẩn đạo đức mà các xã hội thường yêu cầu là: - Các cá nhân phải xây dựng cho mình những phẩm chất tốt như: trung thực, khiêm nhường, thương người…, 8 - Phải ý thức được bổn phận đạo đức của mình trong quan hệ với cá nhân khác và xã hội trên cơ sở phân biệt thiện - ác; - Ý thức đạo đức phải hóa thân thành những xử sự đúng đắn; Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, đạo đức là sự phản ánh của đời sống kinh tế của mỗi thời đại. Tức là các yêu cầu về đạo đức bắt nguồn từ điều kiện kinh tế, đời sống xã hội ở các giai đoạn lịch sử khác nhau thì phải có nội dung khác nhau. Do đó, khi các quan hệ kinh tế xã hội đã thay đổi thì các quy tắc đạo đức cũng có sự vận động, biến đổi. Đồng thời đạo đức cũng có tính độc lập tương đối của nó so với tồn tại xã hội. Nói về sự thay đổi của các quy tắc đạo đức phù hợp với sự biến đổi của các quan hệ kinh tế xã hội ta thấy: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, có những nguyên tắc mà hành vi ngày nay chúng ta không chấp nhận nhưng lúc đó lại được coi là chính đáng, không vi phạm đạo đức như: ăn thịt tù binh, bỏ mặc cha mẹ già bị chết đói… Nguyên nhân là do sức sản xuất của xã hội rất yếu kém, của cải làm ra rất ít nên không được dành cho tù binh và những người không còn khả năng lao động. "Do nguồn thức ăn thường xuyên không được đảm bảo, nên tình trạng người ăn thịt người đã phát sinh và đã duy trì trong một thời gian rất lâu" [1, tr. 33]. Bước sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ, điều kiện kinh tế xã hội thay đổi, những quan hệ mới xuất hiện đã làm nảy sinh những quan niệm đạo đức mới. Đương nhiên giai cấp chủ nô phải xây dựng hoặc ủng hộ những quan niệm đạo đức nào có khả năng duy trì trật tự xã hội và biện minh cho sự thống trị của họ. Những quan niệm đạo đức trong xã hội có giai cấp thì sẽ mang màu sắc giai cấp. Ví dụ theo quan điểm của Platon, con người cần có đức tính như: sự thông thái, sự dũng cảm, sự điều độ, yêu chính nghĩa. Nhưng theo Platon, "chỉ có tầng lớp quý tộc mới hội tụ được các đức tính trên, tầng lớp bình dân 9 chỉ có tính khuất phục còn nô lệ thì không có đời sống đạo đức vì họ chỉ là "động vật biết nói" [47, tr. 184]. Trong xã hội phong kiến, các tầng lớp quý tộc, địa chủ, tăng lữ… chiếm một phần nhỏ dân cư nhưng lại nắm giữ đại bộ phận của cải xã hội, chi phối phần đông dân cư xã hội; người phụ nữ thì phải phụ thuộc vào nam giới… nên đạo đức phong kiến phản ánh rõ nét tính trật tự đẳng cấp cũng như sự bất bình đẳng nam nữ. Thời kỳ trung cổ ở Châu Âu, đạo đức chịu sự chi phối của tôn giáo. Các giáo lý của Thiên chúa giáo trở thành những chuẩn mực đạo đức bắt buộc. Tô-mát Đa-canh (Thomas D’Aquin), nhà tư tưởng lớn nhất của Thiên chúa giáo thời Trung cổ cho rằng: sự phân chia đẳng cấp trong xã hội là xuất phát từ ý của Chúa trời, "vượt ra khỏi trật tự xã hội và đẳng cấp trong xã hội là có tội" [8, tr. 165] nếu người nào không tuân theo thì buộc họ phải có đạo đức "bằng cách dùng vũ lực và trừng phạt để đe dọa" [8, tr. 166]. Ở phương Đông, Ấn Độ là điển hình cho kiểu xã hội gắn liền với trật tự đẳng cấp. Xã hội Ấn Độ được phân chia thành các đẳng cấp: Brahman (tăng lữ), Ksatrya (các chiến binh), Vaisya (bình dân), Sudra (nô tỳ). Theo Will Duran trong cuốn "Lịch sử văn minh Ấn Độ" thì đạo đức gắn liền với các đẳng cấp. Đạo đức (drama) là kỷ luật, là cách sống đã được vạch ra cho mỗi đẳng cấp, ai ở đẳng cấp nào thì phải triệt để tuân thủ đạo đức của đẳng cấp ấy, không được hành xử như những người ở đẳng cấp khác. Đặc biệt, sự phá bỏ các hàng rào luân lý để quan hệ với một người ở đẳng cấp khác là sự vi phạm đạo đức nghiêm trọng nhất. Khi xã hội chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản thấy rằng để vươn lên nắm quyền lực thì phải đánh đổ được thế giới quan và nhân sinh quan của quý tộc phong kiến cũng như tôn giáo, vốn đang giữ vai trò chi phối đời sống xã hội. Cần phải phê phán luân lý tôn giáo phong kiến, để xây dựng một nền đạo đức mới. Cùng với sự chuyển biến sang chế độ tư bản, xã hội Châu Âu cũng dần hình thành những chuẩn mực đạo đức mới như: 10 Tính thực tế, nếu như Thiên chúa giáo cho rằng đời sống trần gian chỉ là tạm bợ, mọi người phải cư xử sao cho khi chết đi sẽ được hưởng phúc trên thiên đàng thì giai cấp tư sản cho rằng đó chỉ là sự lừa dối, con người cần phải xây dựng hạnh phúc ngay trên trần thế này. Theo B.Spinoza thì cần phải vứt bỏ những quan niệm tội lỗi tôn giáo, con người nên "hưởng lạc thú trên đời trần tục và xã hội loài người mang lại" [52, tr. 336]. Tự do là khẩu hiệu của cách mạng tư sản, bởi vì nó không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn giải phóng con người khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến thúc đẩy chế độ tư bản phát triển. Vì vậy, tự do trở thành chuẩn mực đạo đức được cả xã hội hướng đến, xâm phạm tư do của người khác là sự vi phạm đạo đức và phải bị lên án mạnh mẽ. Theo John Locke thì trong trạng thái tự nhiên con người hoàn toàn "tự do, bình đẳng, độc lập… không ai có thể bị lôi ra ngoài trạng thái này để quy hàng… một người khác" [52, tr. 214]. Năm 1772, Diderot viết trong cuốn "Les E’leuthromanes": "Đứa con của thiên nhiên ghê tởm cuộc sống nô lệ. Nó căm thù, không đội trời chung, mọi uy quyền. Ách đeo cổ làm nó phẫn uất. Mỗi cưỡng bức, nó coi là một sự sỉ nhục, ước vọng của nó: Tự Do!" [52, tr. 351] Cùng với tự do là bình đẳng, đây chính là khẩu hiệu mà giai cấp tư sản đề ra nhằm chống lại đạo đức đẳng cấp của xã hội phong kiến. Tác giả De Maintenon viết: Đừng bao giờ đả động đến dòng dõi quý tộc của mình cả. Nếu mình không có đạo đức thì đề cao dòng dõi cũng không đi đến đâu. Chính đạo đức mới tạo ra dòng dõi quý tộc chân chính… Quý tộc chẳng có nghĩa lý gì nếu không có đức hạnh, và chỉ có người nào có đức hạnh mới được trọng vọng, kính nể [52, tr. 277]. Chế độ xã hội chủ nghĩa được xác định là chế độ của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu tối cao. 11 Do đó, chế độ xã hội chủ nghĩa phải tôn vinh, bảo vệ những giá trị đạo đức mới tiến bộ và hạn chế, gạt bỏ những cái lỗi thời, phản động. Như vậy, đạo đức là sự phản ánh điều kiện kinh tế xã hội của từng giai đoạn lịch sử, khi đời sống xã hội thay đổi, có cái mất đi, có cái mới xuất hiện chứ không nhất thành bất biến. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là đạo đức chỉ là sự phản ánh một cách thụ động đời sống xã hội mà nó còn có tính độc lấp tương đối. Tính độc lập này thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, trong số các quan hệ xã hội, có các quan hệ mà xét về mặt tính chất thì dù ở thời đại này hay thời đại khác là không khác nhau, những chuẩn mực điều chỉnh các quan hệ này có giá trị trường tồn, vượt thời gian. Ví dụ như thời nào thì của cải hợp pháp của một người cũng phải được tôn trọng, có vay thì có trả … những hành vi trộm cắp, quỵt nợ thì thời nào cũng bị lên án hết. Điều này tạo nên tính kế thừa về mặt đạo đức giữa các thời đại. Các thời đại sau sẽ chọn lựa những giá trị đạo đức của thời đại trước còn phù hợp với thời kỳ mới, kế thừa và phát huy chúng, dần dần hình thành nên nét đặc trưng trong đạo đức của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi nói đến truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, chúng ta thường nghĩ tới: tinh thần yêu nước. tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng… Thứ hai, tính độc lập tương đối của đạo đức còn xuất phát từ việc, đạo đức không phải là một bộ phận biệt lập của kiến trúc thường tầng, mà nó có sự tác động qua lại với các nhân tố khác của kiến trúc thượng tầng như pháp luật, khoa học, tôn giáo…. Chính sự tác động qua lại này, trong nhiều trường hợp đã làm cho đạo đức có những sắc thái riêng chứa không phải là sự phản ánh của một cách máy móc các quan hệ kinh tế. Ví dụ như theo tác giả Đỗ Như Kim thì: Thế kỷ XIX, Nho giáo bảo thủ với tính cách là hệ tư tưởng chính thống đã làm xơ cứng và lỗi thời những chuẩn mực đạo đức chính thống, khiến cho chúng không đáp ứng được các yêu cầu của 12 lịch sử, nghĩa là không kích thích được tinh thần tự cường của dân tộc trước những thách thức của quá trình thực dân hóa [31, tr. 18]. Xét về mặt bản chất, quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng bản chất của đạo đức được thể hiện ở "tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp" [23, tr. 34]. Tính thời đại của đạo đức lý giải tại sao ở các thời đại khác nhau thì sản sinh ra các chuẩn mực đạo đức khác nhau. Theo Ăngghen, thực chất và suy đến cùng thì các quy tắc đạo đức chính là sự phản ánh, là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Từ các quan hệ kinh tế đặt ra các yêu cầu về tổ chức xã hội, về ứng xử của con người ở thời kỳ đó. Ta có thể lấy ví dụ cho luận điểm này là chế độ "tông pháp" của Trung Quốc. Trong các gia đình Trung Quốc thời đó, con trai trưởng được hưởng quyền thừa kế gia tài đồng thời giữ việc thờ cúng ông bà, cha me. Người con trưởng này rất có thế lực với các thành viên khác trong gia đình, họ được tôn kính. Đối với phụ nữ thì phải nghe lời cha anh lúc còn nhỏ, lớn lên đi lấy chồng thì trở thành "nữ nhân ngoại tộc"… Tổ chức gia đình đó rất thích hợp với chế độ nông nghiệp để đất đai của gia đình không bị phân tán vào tay người ngoài, mà sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu pha đỡ tốn kém. Nó tạo nên tinh thần gia tộc… và muốn cho chế độ tông pháp được vững, đời Chu đã tạo ra chữ Hiếu và đề cao chữ Đễ; con phải hiếu với cha mẹ, kẻ dưới phải tôn kính người trên… [32, tr. 71-72]. Như vậy, chính chế độ nông nghiệp đời Chu là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nhiều tiêu chuẩn đạo đức của thời đó. Tính dân tộc của đạo đức lý giải vì sao giữa các dân tộc, có thể là ở cùng trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong đời sống đạo đức lại có sự khác biệt. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, đạo đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội vừa chịu sự quy định của tồn tại xã hội, vừa chịu sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác như pháp luật, tôn giáo, chính trị, triết học… 13 Tổng thể những nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy, được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính độc đáo của các quan niệm, các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong đời sống đạo đức của mỗi dân tộc [23, tr. 36]. Ta có thể lấy ví dụ theo Jean - pierre Fichou trong cuốn Văn minh Hoa Kỳ thì: Hơn bất cứ một xã hội nào khác, xã hội Mỹ luôn luôn chạy đua để thích nghi, để giành thắng lợi. Kẻ mạnh nuốt chửng người yếu; đời là một cánh rừng rậm trong đó khôn thì sống, dại thì chết. Nhà đại tư bản không làm gì khác hơn là tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh… Tất cả các điều trên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Thuyết Darwin về xã hội được hình thành ở Mỹ bởi Spencer, người đã giải thích học thuyết Darwin, rồi đi đến thuyết Darwin về xã hội: con người sống trong xã hội cũng như trong rừng rú [12, tr. 41-42]. Tính giai cấp là khía cạnh quan trọng của đạo đức. Theo Ăngghen trong tác phẩm Chống Đuy-rinh thì: "…cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp" [2, tr. 137]. Các giai cấp có sự khác nhau về lợi ích ở nhiều lĩnh vực, trong đó quan trọng nhất là lĩnh vực kinh tế, điều này dẫn đến cách đánh giá đúng - sai, lợi - hại, thiện - ác của các giai cấp là khác nhau. Ý thức đạo đức bao giờ cũng là sự phản ánh và bảo vệ cho lợi ích của từng giai cấp nhất định. Giai cấp thống trị, dựa trên sức mạnh của pháp luật và bộ máy tuyên truyền, có khả năng áp đặt hệ thống thang giá trị đạo đức của mình vào xã hội và buộc các thành viên xã hội phải tuân theo, dần dà biến chúng thành thói quen trong xử sự của các cá nhân. Do đó, các quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị thường giữ vai trò chủ đạo trong tâm lý xã hội. Bên cạnh đó, các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội cũng có những quan niệm đạo đức của riêng mình. Tuy nhiên do không có được những lợi thế như giai cấp thống trị nên đạo đức của các giai cấp khác, 14 tầng lớp khác thường không phổ biến và kém phát triển so với đạo đức của giai cấp thống trị. Xét về chức năng, đạo đức có những chức năng cơ bản là: Thứ nhất, đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi của các cá nhân. Đây là chức năng cơ bản nhất của đạo đức. Trong các quan hệ xã hội, xuất phát từ quan niệm khác nhau, đặc biệt là vấn đề đạo đức mà xử sự của các chủ thể không phải lúc nào cũng làm bên kia thỏa mãn mà có khi còn phát sinh thành các mâu thuẫn, xung đột. Chức năng điều chỉnh của đạo đức đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các cá nhân, đảm bảo trật tự và phát triển của xã hội. Các quan niệm đạo đức khi được các cá nhân chấp nhận, nội tâm hóa thành lương tâm. Đạo đức còn tạo nên dư luận xã hội có khả năng điều chỉnh mạnh mẽ đối với hành vi. Một mặt nó làm hình thành nên chuẩn giá trị trong đánh giá, đâu là thiện, là đúng, đâu là ác, là sai. Mặt khác, áp lực của xã hội, trong nhiều tình huống có khả năng buộc xử sự của các cá nhân phải theo chiều hướng đạo đức, nếu không muốn bị lên án. Do đó, đạo đức tạo nên ảnh hưởng nhiều mặt đối với hành vi của cá nhân như: "xác định phương án hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, kiểm soát, uốn nắn hành vi bởi dư luận" [23, tr. 42]. Quá trình điều chỉnh hành vi thông qua sự tự giác của lương tâm là điều tốt nhất. Đồng thời áp lực xã hội cũng có vai trò rất mạnh mẽ để ngăn chặn những hành vi xấu và cổ vũ những hành vi tốt. Trong một cộng đồng nếu đa phần mọi người đều có cách sống đúng đắn thì những hành vi xấu sẽ trở nên lạc lõng và bị cô lập. Ví dụ như thời chiến tranh, mọi người đều quan niệm đã là thanh niên thì phải có trách nhiệm lên đường bảo vệ Tổ quốc, tâm lý xã hội này đã làm cho người nào muốn thoái thác trách nhiệm rất khó thực hiện vì sẽ bị cả cộng đồng nên án… Thứ hai, đạo đức có chức năng giáo dục. Các cá nhân thường chịu ảnh hưởng từ các quan niệm đạo đức và hành vi đạo đức của các chủ thể khác. Người Việt có câu: "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng" là nghĩa này. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan