BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MI NH
Bài d ịch môn : QUẢN TRỊ VẬN
HÀNH
Giảng viên hướng dẫn : Ths. Tạ Thị Bích Thủy
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên
Vũ Thị Bích Vân
Lớp : MBA8
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên, Vũ Thị Bích Vân
Trang 1
GVHD : Th S. Tạ Thị Bích
Thủy
Trang 1
thống máy móc công suất lớn hơn, hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng nhanh hơn,
không thể giống sự khuyến khích của một công ty khác, bởi vì tạo ra một vài mâu
thuẫn giữa chúng. Chúng ta sử dụng một ví dụ được cách điệu hóa của chuỗi
cung ứng trong việc bán kính mát để minh họa sự hiện diện và những kết quả của
những mâu thuẫn khích lệ. Ngoài ra, chúng ta đề nghị một vài biện pháp đối với
vấn đề này.
14.1 Hiệu ứng bullwhip : Những nguyên nhân và những kết quả
Hình vẽ 14.1 cho thấy phần trăm thay đổi trong hoạt động tại ba mức độ dọc theo
một chuỗi cung ứng : công nghiệp máy móc công cụ, công nghiệp tự động (mà là
một khách hàng quan trọng cho công nghiệp máy móc công cụ), và toàn bộ nền
kinh tế. Hình vẽ minh họa rằng sự sản xuất máy móc tự động thì không ổn
định hơn toàn bộ nền kinh tế (mà có lẽ là phù hợp nhiều với nhu cầu máy móc tự
động) và những đơn đặt hàng máy móc công cụ thậm chí không ổn định nhiều
hơn sự sản xuất máy móc tự động.
Hình vẽ 14.2 cho thấy một mô hình tương tự, đòi hỏi những dữ liệu này là phần
trăm thay đổi trong nhu cầu (trong đồng đôla) tại ba mức độ trong chuỗi cung
ứng chất bán dẫn : nhu cầu máy tính cá nhân thì ít thay đổi nhất, nhu cầu những
chất bán dẫn có mức thay đổi trung gian, và nhu cầu thiết bị chế tạo chất bán
dẫn thay đổi nhiều nhất.
Hình vẽ 14.1 :
Phần trăm thay
đổi trong hoạt
động từ năm 1961
đến 1991 tại ba
mức độ của chuỗi
cung ứng của máy
móc công cụ :
GDP (đường đậm
nét), công nghiệp
sản xuất chỉ mục
tự động (những
điểm kim cương),
và những đơn đặt
hàng mới trong
công nghiệp máy
móc
công
cụ
(những
điểm
tròn)
Nguồn
:
Anderson, Fine,
và Parker (1996).
80%
60%
40%
20%
0%
-20%
-40%
-60%
-80%
Mô hình gia tăng sự không ổn định này khi bạn di chuyển một chuỗi cung ứng
(từ nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến sản lượng, vân vân) thì được gọi là hiệu
ứng bullwhip vì nó giống như gia tăng biên độ dao động khi quan sát một cây roi
da bị nứt. Thuật ngữ được đặt ra bởi Procter & Ga mble để mô tả họ quan
sát được những gì trong chuỗi cung ứng tả lót của họ : Họ biết rằng nhu cầu cuối
cùng cho những tả lót thì khá ổn định (tiêu thụ bởi những đứa bé sơ sinh),
nhưng nhu cầu đòi hỏi cho những nhà máy tả lót của họ thì rất dễ thay đổi.
Không hiểu vì sao tính biến thiên thì đang làm lan truyền chuỗi cung ứng của họ.
Hiệu ứng bullwhip không nâng cao hiệu quả của một chuỗi cung ứng : làm tăng
sự không ổn định tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi cung ứng có thể dẫn đến sản
phẩm thiếu hụt, dôi thêm hàng hóa tồn kho (mà dẫn đến làm giảm những chi
phí), mức sử dụng thấp của công suất, và/hoặc chất lượng kém. Nó tác động
tới những giai
đoạn ngược dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải trực tiếp đối mặt với tác động
của nhu cầu thay đổi, nhưng nó cũng không trực tiếp tác động tới những giai
đoạn xuôi dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải đối phó với những sự bổ sung
kém t in cậy hơn từ những giai đoạn ngược dòng. Ngoài ra, khi chúng ta xe m
trong hình vẽ
14.1 và 14.2, hiệu ứng bullwhip thì phổ biến. Vì thế, nó thì rất quan trọng
rằng những nguyên nhân của nó được nhận ra để khắc phục, hoặc ít nhất có
những kế hoạch làm giảm nhẹ, có thể được phát triển.
Hình vẽ 14.1 và 14.2 cung cấp dấu hiệu thực tế của hiệu ứng bullwhip, nhưng để
hiểu được những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip thì cách tốt nhất là mang nó
vào phòng thí nghiệm, nghiên cứu nó trong một môi trường ít biến động. Môi
trường ít biến động của chúng ta là một chuỗi cung ứng đơn giản với hai mức
độ. Mức độ cao nhất chỉ có một nhà cung ứng và mức độ kế tiếp có 20 nhà bán
lẻ, mỗi người với một cửa hàng. Chúng ta hãy tập trung vào một sản phẩm đơn
lẻ, một sản phẩm mà nhu cầu hàng ngày có một phân phối Poisson với trung
bình cộng 1.0 đơn vị tại mỗi nhà bán lẻ. Vì thế, tổng cầu của người tiêu dùng đi
theo một phân phối Poisson với trung bình cộng 20.0 đơn vị. (Nhắc lại rằng tổng
của những phân phối Poisson cũng là một phân phối Poisson). Hình vẽ 14.3 cho
thấy chuỗi cung ứng này.
Trước khi chúng ta nhận ra những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip, chúng ta
phải đồng ý rằng chúng ta sẽ đo lường và nhận dạng nó bằng cách nào. Chúng ta
sử dụng định nghĩa dưới đây :
Hiệu ứng bullwhip xảy ra trong một chuỗi cung ứng nếu tính biến thiên của nhu
cầu tại một mức độ của chuỗi cung ứng lớn hơn tính biến thiên của nhu cầu
tại mức độ kế tiếp thấp hơn trong chuỗi cung ứng, ở đó tính biến thiên được đo
lường bằng hệ số biến thiên.
Ví dụ, nếu hệ số biến thiên trong nhu cầu nhà cung ứng (mà là tổng những đơn
đặt hàng của nhà bán lẻ) lớn hơn hệ số biến thiên của tổng cầu những nhà bán
lẻ, lúc đó hiệu ứng bullwhip xảy ra trong chuỗi cung ứng của chúng ta.
Hình vẽ 14.2 :
Phần trăm thay
đổi hàng năm
trong nhu cầu
(đồng đôla) tại ba
mức độ của chuỗi
cung ứng chất
bán dẫn : những
máy tính cá nhân,
những chất bán
dẫn, và công cụ
chế tạo chất bán
dẫn.
Changes in demand
80%
60%
Semiconductor Equipment
40%
20%
PC
0%
-20%
Semiconductor
-40%
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Chúng ta đã biết đánh giá hệ số biến thiên như thế nào trong tổng cầu những nhà
bán lẻ : tổng cầu là phân phối Poisson với trung bình cộng 20, vì thế độ lệch
chuẩn
của nhu cầu
là
20
= 4.47 và hệ số biến thiên là 4.47/20 = 0.22. Hệ số biến thiên
của nhu cầu nhà cung ứng (nghĩa là, hệ số biến thiên của những đơn đặt hàng
nhà bán lẻ) phụ thuộc vào cách những nhà bán lẻ đặt những đơn đặt hàng với
nhà cung ứng.
Điều thú vị, trong khi cách thức mà những nhà bán lẻ nộp những đơn đặt
hàng cho nhà cung ứng có thể ảnh hưởng tới độ lệch chuẩn của những đơn
đặt hàng những nhà bán lẻ, nó không thể ảnh hưởng trung bình cộng của
2001
những đơn đặt hàng những nhà bán lẻ. Để giải thích, dựa vào nội dung của định
luật bảo toàn, sự gia nhập một nhà bán lẻ phải có giá trị ngang với sự rút khỏi
của nhà bán lẻ ở mức
trung bình, mặt khác số lượng bên trong nhà bán lẻ sẽ không ổn định : Nếu
gia nhập nhiều hơn rút khỏi, lúc đó hàng hóa tồn kho tại nhà bán lẻ tiếp tục tăng
lên, trái lại nếu gia nhập ít hơn rút khỏi, lúc đó hàng hóa tồn kho tại nhà bán lẻ
tiếp tục giảm xuống. Vì thế, điều này không quan trọng khi những nhà bán lẻ lựa
chọn như thế nào để đặt mua hàng hóa tồn kho từ phía nhà cung ứng, trung
bình cộng của nhu cầu nhà cung ứng (nghĩa là, tổng số đơn đặt hàng của những
nhà bán lẻ) bằng trung bình cộng của tổng cầu những nhà bán lẻ. Trong trường
hợp này, nhu cầu trung bình cộng của nhà cung ứng là 20 đơn vị mỗi ngày, y hệt
nhu cầu trung bình cộng của người tiêu dùng là 20 đơn vị mỗi ngày.
Để đánh giá hệ số biến thiên trong nhu cầu nhà cung ứng, chúng ta vẫn cần đánh
giá độ lệch chuẩn của nhu cầu nhà cung ứng, mà phụ thuộc vào những nhà bán
lẻ nộp những đơn đặt hàng như thế nào. Đầu tiên chúng ta giả sử rằng những nhà
bán lẻ sử dụng một chính sách đặt hàng thêm (order-up-to) để đặt thêm hàng
từ nhà cung ứng.
Một đặc điểm then chốt của một chính sách order-up-to là số lượng đặt hàng
trong bất kỳ thời kỳ nào bằng lượng nhu cầu trong thời kỳ trước đó (xe m
Chương 11). Kết quả cho thấy, nếu tất cả những nhà bán lẻ sử dụng những chính
sách order-up- to xe m xét lại mỗi ngày, khi đó những đơn đặt hàng hàng ngày
của họ sẽ giống với nhu cầu hàng ngày của họ. Nói cách khác, không có hiệu ứng
bullwhip !
Nếu tất cả những nhà bán lẻ sử dụng một chính sách order-up-to (với một orderup-to không đổi mức độ S), khi đó độ lệch chuẩn của những đơn đặt hàng của
nhà bán lẻ trong một thời kỳ bằng độ lệch chuẩn của nhu cầu người tiêu dùng
trong một thời kỳ; nghĩa là, không có hiệu ứng bullwhip.
Như vậy chúng ta bắt đầu cuộc thí nghiệm của chúng ta với mục đích tìm ra một
nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip và phát hiện ra rằng hiệu ứng bullwhip
không cần phải xảy ra trong thực tế. Nó không xảy ra khi mỗi thành viên tại
cùng một mức độ của chuỗi cung ứng thực hiện một chính sách “k éo cầu” hàng
hóa tồn kho
Hình vẽ 14.3 :
Một chuỗi cung
ứng với một nhà
cung ứng và 20
nhà bán lẻ
Nhu cầu mỗi ngày
tại mỗi nhà bán lẻ
theo một phân
phối Poisson với
trung bình cộng
1.0 đơn vị.
Retailers’Retailers’
orders/demands
supplier’s
demandRetailer 1
Retailer 2
Supplier
..
Retailer 20
mỗi thời kỳ, nghĩa là, những đơn đặt hàng của họ mỗi thời kỳ một cách chính
sách là bằng với nhu cầu của họ. Chẳng may, những công ty không luôn luôn
chấp nhận như là “sự bóp méo không bị hạn chế” quản lý hàng hóa tồn kho. Thật
ra, họ có những nguyên nhân cá nhân tốt để làm chệch hướng từ hành vi như
vậy. Đó là những độ lệch mà là nguyên nhân gây ra hiệu ứng bullwhip. Kế tiếp
chúng ta xác định năm nguyên nhân của chúng.
Order synchronization (Sự đồng bộ hóa đơn đặt hàng)
Giả sử những nhà bán lẻ sử dụng những chính sách order-up-to, nhưng họ chỉ
đặt hàng một lần mỗi tuần. Họ chọn lựa đặt hàng hàng tuần thay vì hàng ngày
vì họ gánh phải một chi phí cố định cho mỗi đơn đặt hàng, và do đó ao ước
làm giảm bớt số lượng những đơn đặt hàng họ tạo nên (Xem phần 11.8). Vì
thế, đầu mỗi tuần, một nhà bán lẻ nộp đến cho nhà cung ứng một đơn đặt hàng
mà bằng với nhu cầu của nhà bán lẻ từ tuần trước. Nhưng vì chúng ta quan tâm
đến nhu cầu nhà cung ứng hàng ngày, chúng ta cần biết vào ngày nào trong tuần
thì mỗi nhà bán lẻ bắt đầu đặt hàng. Để đơn giản chúng ta giả định rằng có
năm ngày mỗi tuần và những nhà bán lẻ đều sắp đặt khoảng cách đều nhau suốt
tuần; nghĩa là, bốn trong số 20 nhà bán lẻ nộp những đơn đặt hàng vào thứ hai,
bốn nhà bán lẻ khác nộp
những đơn đặt hàng vào thứ ba, và vân vân. Hình vẽ 14.4 cho thấy một kết quả
mô phỏng của tình huống này. Từ hình vẽ đó cho thấy rằng tính biến thiên trong
nhu cầu người tiêu dùng gần giống như tính biến thiên trong nhu cầu nhà cung
ứng. Thật vậy, nếu chúng ta mô phỏng nhiều thời kỳ hơn và đánh giá những độ
lệch chuẩn của hai chuỗi dữ liệu đó, chúng ta thật sự khám phá ra rằng độ lệch
chuẩn của nhu cầu người tiêu dùng một cách chính xác bằng độ lệch chuẩn
của nhu cầu nhà cung ứng. Nói cách khác, chúng ta vẫn không tìm thấy hiệu
ứng bullwhip.
Nhưng chúng ta làm một giả định then chốt trong sự mô phỏng của chúng
ta. Chúng ta giả định rằng những chu kỳ đơn đặt hàng của những nhà bán lẻ thì
đều được đặt cách đều nhau trong suốt tuần : số lượng đơn đặt hàng của
những nhà bán lẻ vào thứ hai giống như vào thứ tư giống như vào thứ sáu.
Nhưng trường hợp này thì khó có thể xảy ra trong thực tế : những công ty có
khuynh hướng thích nộp những đơn đặt hàng của họ hơn vào một ngày đặc biệt
của tuần hoặc một ngày đặc biệt của tháng. Để minh họa cho kết quả của sự ưu
tiên này, chúng ta giả sử những nhà bán lẻ có khuynh hướng ủng hộ đầu và cuối
tuần : chín nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ hai, năm nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ ba,
một nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ tư, hai nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ năm và ba
nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ sáu. Hình vẽ 14.5 cho thấy kết quả của sự mô
phỏng với tình huống đó.
Chúng ta đã phát hiện ra hiệu ứng bullwhip ! Nhu cầu hàng ngày của nhà cung
ứng thì rõ ràng thay đổi rất nhiều so với nhu cầu người tiêu dùng. Cho ví dụ đặc
biệt này, hệ số biến thiên của nhu cầu nhà cung ứng là 0.78 mặc dù hệ số biến
thiên của nhu cầu người tiêu dùng chỉ là 0.19 : nhu cầu của nhà cung ứng thì xấp
xỉ biến thiên nhiều hơn 4 lần nhu cầu người tiêu dùng ! Và đây không là kết
quả của một mô hình nhu cầu đặc biệt kỳ lạ; nghĩa là, kết quả định tính giống
nhau đạt được nếu một khoảng thời gian rất dài được mô phỏng. Thật vậy, so
sánh, bạn nhận thấy rằng nhu cầu người tiêu dùng ở hình vẽ 14.5 thì giống hệt
nhu cầu người tiêu dùng ở hình vẽ 14.4.
70
60
50
Units
Hình vẽ 14.4 : Mô
phỏng nhu cầu
khách hàng hàng
ngày (đường liên
tục) và nhu cầu
nhà cung ứng
hàng ngày (những
điểm tròn).
Nhu
cầu
nhà
cung ứng bằng
tổng số những đơn
đặt hàng
của
những
nhà bán lẻ.
40
30
20
10
0
Time (each period equals one day)
Bây giờ chúng ta không chỉ quan sát hiệu ứng bullwhip, mà chúng ta còn phải
nhận dạng chính xác một trong số những nguyên nhân của nó, sự đồng bộ hóa
đơn đặt hàng : nếu những chu kỳ đặt hàng của những nhà bán lẻ thậm chí trở nên
đồng bộ hóa một ít, nghĩa là, họ có khuynh hướng tạo thành cụm thời kỳ đồng
thời, khi dó hiệu ứng bullwhip xuất hiện. Trong khi những nhà bán lẻ đặt hàng ở
mức trung bình để bằng với nhu cầu người tiêu dùng ở mức trung bình, phụ
thuộc vào sự đồng bộ hóa đơn đặt hàng của họ có những thời kỳ mà họ đặt hàng
nhiều đáng kể hơn mức trung bình và những thời kỳ mà họ đặt hàng ít đáng kể
hơn mức trung bình, bằng cách ấy áp đặt nhu cầu tăng thêm không ổn định vào
nhà cung ứng yếu hơn.
Sự đồng bộ hóa đơn đặt hàng cũng được quan sát có giá trị cao hơn chuỗi cung
ứng. Ví dụ, giả sử nhà cung ứng thực hiện một hệ thống hoạch định nhu cầu vật
liệu (MRP) để quản lý sự bổ sung của thành phần cấu tạo hàng hóa tồn kho.
(Đây là một hệ thống máy tính mà xác
70
60
50
Units
Hình vẽ 14.5 : Mô
phỏng nhu cầu
khách hàng hàng
ngày (đường liên
tục) và nhu cầu
nhà cung ứng
(những
điểm
tròn) khi những
nhà bán lẻ đặt
hàng hàng tuần.
Chín nhà bán lẻ đặt
hàng vào thứ hai,
năm nhà bán lẻ vào
thứ ba, một nhà
bán lẻ vào thứ tư,
hai nhà bán lẻ vào
thứ năm, và ba
nhà
bán lẻ vào thứ sáu.
40
30
20
10
0
Time (e ach p eriod eq uals o ne day )
định số lượng và thời điểm của các hạng mục nhu cầu phụ thuộc dựa trên những
dự báo nhu cầu tương lai và những lịch trình sản xuất). Nhiều công ty thực
hiện những hệ thống MRP của họ dựa trên một cơ sở hàng tháng. Ngoài ra, nhiều
công cụ những hệ thống của họ tạo ra những đơn đặt hàng bổ sung vào tuần đầu
tiên của tháng. Vì thế một nhà cung ứng của nhà cung ứng nhận được một số
lượng lớn những đơn đặt hàng cho sản phẩm chính nó trong suốt tuần đầu tiên
của tháng và một cách tương đối một ít nhu cầu sau này trong tháng. Đây được
gọi là những khủng hoảng của MRP (MRP jitters) hoặc hiện tượng gậy đánh
khúc côn cầu (hockey stick) (đồ thị của nhu cầu trong suốt tháng nhìn giống
như một chuỗi của những gậy đánh khúc côn cầu, một phần được chia bằng
phẳng và sau đó như một que nhọn hướng lên).
- Xem thêm -