Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ ...

Tài liệu Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận

.PDF
175
2576
99

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Nguyễn Thị Hiền SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 62.22.02.40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS: Nguyễn Văn Hiệp HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu thống kê là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thị Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................2 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................3 5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................4 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ..............................................................4 7. Cấu trúc của luận án ............................................................................................5 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 6 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ..................................................................6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc .....................................................................................6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận .....................................................................................9 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người ....................10 1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài ................................................................13 1.2.1. Một số lí thuyết cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận .................................13 1.2.1.1. Tính nghiệm thân (Embodiment) .........................................................13 1.2.1.2. Ý niệm, ẩn dụ và hoán dụ ý niệm .........................................................15 1.2.1.3. Miền, miền nguồn, miền đích ..............................................................25 1.2.1.4. Ánh xạ ..................................................................................................28 1.2.1.5. Điển mẫu .............................................................................................29 1.2.1.6. Mô hình tri nhận ..................................................................................29 1.2.1.7. Pha trộn ý niệm ...................................................................................30 1.2.2. Sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận ..31 1.2.2.1. Nghĩa của từ và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ cấu trúc luận ...................................................................................................................31 1.2.2.2. Hiện tượng chuyển nghĩa nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận .......48 1.2.2.3. Chuyển nghĩa xét trong mối quan hệ bộ ba: ngôn ngữ - tri nhận văn hóa .............................................................................................................52 1.2.3. Khái quát về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người ......................................53 1.2.3.1. Số lượng tên gọi từ chỉ bộ phận cơ thể ...............................................53 1.2.3.2. Phân lập tên gọi bộ phận cơ thể người ...............................................54 Tiểu kết ..................................................................................................................57 Chương 2. PHƯƠNG THỨC CHUYỂN NGHĨA CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN ................................................................................................................59 2.1. Tổ chức ý niệm của miền “bộ phận cơ thể người” .........................................59 2.1.1. Ý niệm “bộ phận cơ thể người” ...............................................................60 2.1.1.1. Khái niệm hạt nhân của ý niệm “BPCTN” .........................................60 2.1.1.2. Các giá trị ngoại vi của ý niệm “bộ phận cơ thể người”....................61 2.1.2. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” và điển mẫu ...63 2.1.2.1. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” ..............63 2.1.2.2. Điển mẫu ..............................................................................................64 2.2. Ánh xạ giữa miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” tới các miền ý niệm khác .78 2.2.1. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm “không gian” ................................................................................................................... 79 2.2.2. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm “thời gian” 81 2.2.3. Ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới miền “con người” ..............82 2.3. Pha trộn miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” với các miền ý niệm khác .....89 2.3.1. Mô hình ý niệm ba miền không gian pha trộn..........................................89 2.3.2. Mô hình ý niệm bốn miền không gian pha trộn........................................91 2.4. Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt ..94 2.4.1. Ẩn dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt ...........................95 2.4.1.1. Ẩn dụ bản thể ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt ..........95 2.4.1.2. Ẩn dụ định hướng ............................................................................. 101 2.4.1.3. Ẩn dụ cấu trúc .................................................................................. 106 2.4.2. Hoán dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” .............................................. 110 2.4.2.1. Bộ phận cơ thể người đại diện cho người ........................................ 110 2.4.2.2. Bộ phận cơ thể người đại diện cho tính cách, phẩm chất, ý chí của con người .............................................................................................................. 111 2.4.2.3. Bộ phận cơ thể đại diện cho kĩ năng và khả năng của con người ... 113 2.4.2.4. Bộ phận cơ thể đại diện cho tình cảm của con người ...................... 115 Tiểu kết ............................................................................................................... 119 Chương 3 ĐẶC ĐIỂM TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT QUA HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT .......................................................................................................... 121 3.1. Cơ chế ánh xạ giữa miền bộ phận cơ thể người sang các miền đích khác . 121 3.1.1. Kinh nghiệm về đặc điểm hình dáng, chức năng, hoạt động của các bộ phận cơ thể ...................................................................................................... 122 3.1.2. Kinh nghiệm văn hóa ............................................................................. 125 3.2. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý niệm bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt............................................................................................................. 130 3.2.1. Bức tranh ngôn ngữ về không gian với ý niệm bộ phận cơ thể người .. 131 3.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người ... 132 3.2.2.1. Bức tranh ngôn ngữ về con người trí tuệ qua ý niệm bộ phận cơ thể người .............................................................................................................. 132 3.2.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý chí, phẩm chất, tính cách con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người .......................................................................... 134 3.2.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về trạng thái tâm lí con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người .......................................................................................... 136 3.2.2.4. Bức tranh ngôn ngữ về hoạt động, kĩ năng của con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người ......................................................................... 141 3.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về đồ vật, sự vật với ý niệm bộ phận cơ thể người143 Tiểu kết ............................................................................................................... 145 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN CHÚ THÍCH TÀI LIỆU THAM KHẢO NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BPCTN : Bộ phận cơ thể người GD : Giáo dục ĐH &THCN : Đại học và Trung học chuyên nghiệp Nxb : Nhà xuất bản T/c : Tạp chí MỤC LỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê ý niệm thuộc miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt . 65 Bảng 2.2. Các ý niệm tiêu biểu của miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt 65 Bảng 2.3. Các ý niệm điển mẫu của miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt ... 65 Bảng 2.4. Các cặp khái niệm không gian tiếng Việt ................................................ 79 Bảng 2.5. Bảng tổng quát miền nguồn và miền đích ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt ......................................................................................................... 88 Bảng 3.1. Một số cặp đối lập tương ứng Âm - Dương ............................................. 126 Bảng 3.2. Một số đặc tính tương ứng Âm - Dương .................................................. 126 Bảng 3.3. Ngũ hành và bộ phận cơ thể tương ứng .................................................. 126 Bảng 3.4. Sự tri nhận về bộ phận của đồ vật qua ý niệm “bộ phận cơ thể người”..........143 MỤC LỤC HÌNH VẼ, LƯỢC ĐỒ, MÔ HÌNH Hình 1.1. Sơ đồ ánh xạ ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH ...................... 19 Hình 1.2. Sơ đồ phân loại hoán dụ theo quan điểm của Seto .................................. 20 Hình 1.3. Ẩn dụ và hoán dụ...................................................................................... 23 Hình 1.4. Mô hình pha trộn ý niệm .......................................................................... 30 Hình 2.1. Mô hình tỏa tia của “Đầu” ...................................................................... 68 Hình 2.2. Mô hình tỏa tia của “Mặt” ...................................................................... 70 Hình 2.3. Mô hình tỏa tia của “Tay” ....................................................................... 72 Hình 2.4. Mô hình tỏa tia của “Lòng” .................................................................... 75 Hình 2.5. Mô hình tỏa tia của “Bụng” .................................................................... 76 Hình 2.6. Lược đồ ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới miền đích “không gian” .......................................................................................................... 80 Hình 2.7. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” đến miền đích “con người” ............................................................................................................. 83 Hình 2.8. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “BPCTN” đến miền đích “Đồ vật” ...................84 Hình 2.9. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “BPCTN” đến miền đích “Thực vật”………..87 Hình 2.10. Mô hình pha trộn ý niệm “Mặt mo” ...................................................... 90 Hình 2.11. Mô hình pha trộn ý niệm “Rộng chân, rộng tay” .................................. 90 Hình 2.12. Mô hình pha trộn bốn miền ý niệm “ANH EM LÀ TAY CHÂN” ........... 92 Hình 2.13. Mô hình pha trộn ý niệm “non tay” ....................................................... 93 Hình 2.14. Mô hình tri nhận ẩn dụ định hướng VUI LÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CỦA CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ ......................................................................................... 105 Lược đồ 2.1. Cấu trúc ẩn dụ THỰC VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ............ 107 Lược đồ 2.2. Cấu trúc ẩn dụ KHÔNG GIAN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ............109 Mô hình 2.1. Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “bộ phận cơ thể người” ...............................60 Mô hình 2.2. Cấu trúc ý niệm “bộ phận cơ thể người” ......................................................61 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, ngôn ngữ còn là “linh hồn” của dân tộc (Humboldt), là nơi lưu trữ những giá trị văn hóa dân tộc. Nói cách khác, giữa ngôn ngữ, tư duy (rộng hơn là: tri nhận) và văn hóa luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Trong ngôn ngữ, mối quan hệ “bộ ba” này được biểu hiện ở nhiều đơn vị, nhiều cấp độ khác nhau, trong đó “từ” và “ý nghĩa của từ” là nơi thể hiện rõ nhất. Theo thuyết phản ánh của Lênin, “từ” được hiểu là “kết quả phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc biệt qua ý thức của con người với tư cách là đại diện cho một cộng đồng văn hóa - ngôn ngữ nhất định” [dt 85, tr.24]. Qua ý nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ, có thể thấy rằng: mỗi cộng đồng ngôn ngữ bên cạnh cái “phổ quát”, cái “chung”, còn có cái “đặc thù”, cái “riêng” trong cách chia cắt và phạm trù hoá hiện thực khách quan, trong cách tri giác về hiện thực khách quan đó và trong đường hướng phát triển ngữ nghĩa của từ. Trong ngôn ngữ học, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) luôn thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà ngôn ngữ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đặc biệt là trong lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận. Cho đến nay, đã có nhiều công trình sách, báo, bài viết ở trong và ngoài nước trình bày nhiều nghiên cứu thú vị về nhóm từ này. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu tiếp cận nhóm từ này hoặc trên phương diện ngữ nghĩa đơn thuần, hoặc ở góc độ ngôn ngữ tri nhận nhưng các kết quả nghiên cứu còn tương đối đơn lẻ, rời rạc và chưa mang tính chất hệ thống. Cách tiếp cận như vậy chưa đạt tới bề sâu của vấn đề, chưa trả lời được những câu hỏi mang tính hệ thống về tri nhận. Vì vậy, trong luận án này, chúng tôi đặc biệt chú ý tới cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về hiện tượng phát triển ngữ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ và hoán dụ - hai phương thức tri nhận cơ bản, cũng là hai con đường phát triển ngữ nghĩa cơ bản của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người. Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận” với mong muốn đem đến một cái nhìn đa chiều về con đường phát triển ngữ nghĩa và những chiều kích tâm lí, văn hóa dân tộc gắn với quá trình nghiệm thân liên quan đến sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ này. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần củng cố lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, 1 làm rõ thêm một số vấn đề ẩn dụ, hoán dụ tri nhận. Luận án cũng mong muốn góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, chứng minh ẩn dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một cơ chế cực kì quan trọng để con người nhận thức thế giới. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới ánh sáng của lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận. Qua đó, luận án góp phần xác định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa dân tộc qua sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ; tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt. - Làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài: khái niệm nghĩa của từ, sự phát triển ngữ nghĩa của từ, các vấn đề lí thuyết thuộc Ngôn ngữ học tri nhận, các vấn đề lí thuyết hữu quan giữa chuyển nghĩa và ngôn ngữ học tri nhận. - Tìm hiểu phương thức chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận thông qua những việc làm cụ thể sau: + Thông qua tổ chức ý niệm của miền “BPCTN” xác định ý niệm điển mẫu của miền. Nhận dạng sự phát triển nghĩa của từ qua mô hình tỏa tia của điển mẫu và hệ thống ánh xạ từ miền nguồn “BPCTN” sang các miền đích khác. + Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm liên quan “BPCTN” để làm rõ cơ sở chuyển nghĩa và đặc trưng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. - So sánh, đối chiếu với tiếng Anh, và một số ngôn ngữ khác trong trường hợp giá trị tri nhận tương đương nhưng khác biệt về phương thức, hoặc phương thức tri nhận tương đương nhưng khác biệt về ý nghĩa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tiến hành khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận qua hai phương thức chuyển nghĩa 2 ẩn dụ và hoán dụ . Nguồn Ngữ liệu khảo sát: Để tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, luận án khảo sát các biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm trong các tác phẩm văn học (luận án khảo sát khoảng 70 truyện ngắn, tiểu thuyết đương đại và 150 truyện cổ tích; 7.000 câu tục ngữ; 2129 câu ca dao; 1.620 câu đố thuộc nhiều chủ đề khác nhau); các báo (Thể thao, dân trí, phụ nữ…); các truyện ngắn trên các tạp chí văn học như Văn nghệ Quân đội, tạp chí Hội Nhà văn, tạp chí Văn nghệ,… Từ điển tiếng Việt và nguồn ngữ liệu sinh động trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ngữ liệu tiếng Anh dùng để đối chiếu trong luận án được trích xuất từ kho Ngôn ngữ khối liệu Anh (British National Corpus), một công cụ tra cứu văn bản tại website http://www.natcorp.ox.ac.uk/. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp phân tích, miêu tả Đây là một trong những phương pháp chính để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ những nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận. 4.2. Phương pháp phân tích nghĩa tố Phương pháp phân tích nghĩa tố phân xuất ý nghĩa của từ thành các nghĩa tố, từ đó nhận diện về sự biến đổi ý nghĩa cơ chế chuyển nghĩa, từ đó xác định mô hình tỏa tia cơ của từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. Phương pháp này cũng là phương pháp nghiên cứu chính trong luận án. 4.3. Phương pháp phân tích ý niệm Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ý niệm miền BPCTN trong tiếng Việt, từ đó tìm ra đặc trưng riêng trong cách ý niệm hóa miền BPCTN trong tiếng Việt. 4.4. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng trong chương 2 và chương 3 nhằm mục đích so sánh những điểm tương đồng và khác biệt về chuyển nghĩa thông qua quá trình ý niệm hóa các từ chỉ BPCTN của cộng đồng người bản ngữ nói tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Mĩ,... Với phương pháp này, sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN được nhìn nhận một cách đa chiều và được bộc lộ rõ nét hơn. 4.5. Thủ pháp thống kê, phân loại Luận án sử dụng thủ pháp này để thống kê, phân loại, hệ thống hóa các ẩn 3 dụ, hoán dụ ý niệm miền BPCTN trong tiếng Việt. Dựa trên kết quả đó, luận án có thể rút ra một số nhận xét về đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận và xây dựng bức tranh ngôn ngữ qua ý niệm BPCTN. Danh sách 1087 biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm được nhập vào máy trên chương trình Microsofl Excel với các thông tin: STT Từ chỉ BPCTN Loại (ẩn/ hoán) Văn cảnh Xuất xứ 1 xx xx xx xx Những thông tin này đảm bảo tính chính xác về mặt xuất xứ cũng như sự rõ ràng về mặt ngữ nghĩa. Ngoài phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích nghĩa tố, phương pháp phân tích ý niệm, phương pháp so sánh, đối chiếu và thủ pháp thống kê, chúng tôi còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học khác như: phương pháp phân tích ngữ cảnh, phương pháp nghiên cứu trường hợp để giải quyết các vấn đề cụ thể của luận án. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án có thể được xem là công trình nghiên cứu mới nhất về sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN nhìn từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận. Luận án chỉ ra cơ chế chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, từ đó, tìm ra đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua sự phát triển nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt. Các nghiên cứu trước đã tập trung nghiên cứu sự chuyển nghĩa của nhóm từ này dưới ánh sáng của văn hóa nhưng các nghiên cứu đó mới chủ yếu tập trung ở một vài thành tố đơn lẻ mà chưa có tính hệ thống. Dưới ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận, luận án khảo sát hệ thống các ẩn dụ và hoán dụ ý niệm qua ngữ liệu để chứng minh tính phổ quát và đặc trưng riêng về sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về lí luận Luận án tập trung nghiên cứu chi tiết, toàn diện và hệ thống về sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận. Thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra, luận án sẽ có đóng góp nhất định vào việc phân tích các đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trên cơ sở mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, cung cấp thêm những nhận xét, những ngữ liệu về hiện tượng chuyển nghĩa này trên cơ sở lí luận mới của ngôn ngữ học tri nhận và trên ngữ liệu của các từ chỉ BPCTN. Luận án có thể góp phần cung cấp tư liệu để làm phong phú 4 thêm cho lí thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu và bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận. Luận án sẽ góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lí thuyết về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, góp phần chứng minh ẩn dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một công cụ quan trọng để con người nhận thức thế giới. 6.2. Về thực tiễn Luận án là công trình vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, là những lí giải cụ thể về những hiện tượng ngôn ngữ có liên quan đến ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN trong thực tiễn giao tiếp. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp cho người bản ngữ có cái nhìn cụ thể hơn khi sử dụng nhóm từ này trong ngôn cảnh, sử dụng chúng tốt hơn, đa dạng hơn, tinh tế hơn, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Mặt khác, các kết quả này có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu hay giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường cũng như góp phần vào việc nghiên cứu, giới thiệu văn hóa Việt Nam. Tóm lại: Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về sự phát triển nghĩa của từ chỉ BPCTN theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Trong khuôn khổ một luận án, chúng tôi cố gắng thực hiện triệt để mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, hi vọng đóng góp vào quá trình phát triển Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và nguồn tư liệu trích dẫn, luận án gồm ba chương sau đây: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết Chương 2. Phương thức chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận Chương 3. Đặc trưng tri nhận của người Việt qua hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt 5 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT Dẫn nhập Nghĩa của từ nói chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng là một trong những vấn đề trung tâm cơ bản của nghiên cứu ngôn ngữ. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình đề cập đến nội dung này theo các góc độ khác nhau. Vì vậy, trong chương này, luận án điểm lại một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ đó xác định cơ sở lí luận có tính đường hướng cho đề tài. 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc Theo tác giả Lê Quang Thiêm, trước khi ngôn ngữ và nghĩa của ngôn ngữ được nghiên cứu như một bộ phận khoa học độc lập vào cuối thế kỷ 19, những ý tưởng về từ và nghĩa của từ đã sớm được nhiều nhà khoa học và triết gia nghiên cứu. Năm 1825, ở Đức có một số bài viết về ngữ nghĩa của tác giả Reizig Berary (về sau đã được học trò của ông là Fridrich Haase tập hợp lại và xuất bản năm 1839 với tên gọi cho môn học là Semasiology: ngữ nghĩa học). Ở Anh, người có công đầu trong việc thiết lập nền tảng khoa học ngữ nghĩa là Benjamin Humphrey Smart với một số bài báo và tiếp theo là công trình đồ sộ “Metaphisical Etymology” của Horne Tooke xuất bản năm 1850 và tên gọi cho bộ môn này cũng được tác giả gọi là Semasiology, v.v… Tuy nhiên, cũng theo ông, một tác giả người Pháp - Michel Bréal - với công trình : “Essai de Sémantique” (Science des signification), xuất bản năm 1877 mới được xem là người đi tiên phong trong nghiên cứu bộ môn khoa học này. So với các tác giả kể trên, xét về thời gian, tuy công trình của M. Bréal ra đời sau, song nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá đây là công trình “đầu tiên xác lập ngữ nghĩa học như một bộ môn khoa học nhân văn” [dt84 , tr.7] . Trong những thập niên gần đây sự chuyển nghĩa từ vựng của ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Trong số đó có thể kể đến một số công trình điển hình gần đây như Aitchison với quyển Language change: Progress or Decay? (1991) hay Crowley với An Introduction to Historical Linguistics (1992) hoặc Mc.Mahon với Undersanding Language Change (1994) và Fromkin với An Introduction To Language (1999), v.v… Qua những tác phẩm này, tác giả đặc biệt quan tâm đến sự chuyển nghĩa dưới ảnh 6 hưởng của sự thay đổi xã hội mà ít quan tâm đến sự sưu tầm các mẫu hình minh họa. Đây vừa là sự khó khăn nhưng đồng thời là điểm thuận lợi, mở ra một hướng đi mới cho người viết tiếp tục công việc của người đi trước Trong một nhận định mang tính tổng kết, trong luận án Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (Trên cứ liệu nhóm từ nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga), tác giả Lê Thị Thanh Tâm đã chỉ ra rằng, nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trên thế giới từ trước tới nay có thể tạm chia làm ba khuynh hướng chính: Thứ nhất là khuynh hướng nghiên cứu theo logic học mà Paul là người khởi xướng. Những quan niệm của ông được thể hiện qua bảng phân loại logic học các hiện tượng chuyển nghĩa, trong đó chú ý so sánh nội dung khái niệm trước và sau khi biến đổi, đồng thời nêu lên mối quan hệ logic giữa chúng [dt 72, tr.3] Thứ hai là khuynh hướng nghiên cứu theo tâm lý học mà đại diện là Wundt. Khuynh hướng này giải thích hiện tượng chuyển nghĩa căn cứ vào đặc trưng tâm lý với phương châm “việc nghiên cứu sự chuyển nghĩa cuối cùng phải vĩnh viễn quy thành nghiên cứu tâm lý”[dt 72, tr.3]. Thứ ba là khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử do Wellander đứng đầu. Những người theo khuynh hướng này quan niệm:“sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử, chỉ khi nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng thành của nó, quá trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý”[dt 72, tr.5]. Với quan niệm này, các nhà nghiên cứu chú trọng đi tìm sự trả lời cho câu hỏi là ý nghĩa mới của từ nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho rằng kết quả của quá trình chuyển nghĩa được bảo lưu trong ý nghĩa mới của từ. Xét về góc độ nguyên nhân của sự chuyển nghĩa, có thể nhận thấy rằng trong lịch sử ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ đã cố gắng tập hợp và hệ thống hóa những nguyên nhân có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự chuyển nghĩa trong tiếng Anh cũng như tiếng Việt. Sự chuyển nghĩa trong tiếng Anh, theo Aitchison [dt39, tr.9], do hai nguyên nhân chính: nguyên nhân chủ quan (do đặc điểm thuộc về bản chất của ngôn ngữ và tâm lý của người sử dụng) và nguyên nhân khách quan (yếu tố xã hội). F. de Saussure cũng cho rằng: “Phong tục của một dân tộc các tác động đến ngôn ngữ và mặt khác, trong chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc” [70,tr.106]. Theo đó, nhiều nhà ngôn ngữ sau này có cùng quan điểm với Saussure và Aitchison đã khẳng định ngôn ngữ là thành tố của văn hóa, phương tiện của văn hóa, làm tiền đề cho văn hóa phát triển. Ngôn ngữ chính là nơi lưu giữ 7 và thể hiện nét nhất đặc trưng văn hóa của các dân tộc. Ngược lại, Fromkin và một số tác giả khác trong cuốn An Introduction to Language [dt 39, tr.9] cho rằng chỉ có hai nguyên nhân chính cho hiện tượng này là do sự tái cấu trúc ngôn ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm lý của người học qua nhiều thế hệ khác nhau. Không đồng quan điểm với các tác giả trên , Lyons [133, tr.213] cho rằng sự thay đổi xã hội và nguyên nhân chủ yếu của thay đổi ngôn ngữ. Trask [dt39, tr.10] thể hiện sự tương đồng quan điểm với Fromkin khi nhận xét trong quyển Language Change rằng khi một đứa trẻ bắt đầu học ngôn ngữ thì một ngôn ngữ mới xuất hiện một cách tự nhiên,vv… Riêng về nghiên cứu sự chuyển nghĩa trong tiếng Việt, Nguyễn Đức Tồn trong “Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” [92] đã trình bày các kết quả nghiên cứu của mình và học trò về đặc điểm của quá trình chuyển nghĩa của trường từ vựng chỉ động vật (ĐV), thực vật (TV), bộ phận cơ thể người (BPCTN) (so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga). Các tác giả đã thống kê số lượng nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa và có những kết luận nhất định. Đây là công trình khoa học được tiến hành nghiên cứu theo hướng lý thuyết tâm lý ngôn ngữ học tộc người. Lý Toàn Thắng [74], [76], [77] cũng có nhiều nghiên cứu về hiện thực chuyển nghĩa. Ông đã so sánh hiện tượng chuyển nghĩa của một số từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt sang các từ chỉ bộ phận đồ vật và định vị không gian với các từ tương ứng trong tiếng Anh; thông qua đó để thấy được cách nhận thức về hiện thực của từng dân tộc. Những công trình này, thực tế đều vận dụng cả lý luận học của logic học, tâm lý học và lịch sử để khai thác các dữ liệu nhưng chủ yếu vẫn là tâm lý học. Cùng hướng nghiên cứu đó là một số đề tài, luận văn, luận án của các tác giả trong nước lẫn ngoài nước thực hiện tại Việt Nam như: “Đặc điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người trong tiếng Lào” của nghiên cứu sinh Chăn Phommavông [4], “Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh trong sự chuyển nghĩa của từ” của nghiên cứu sinh Kỳ Quảng Mưu [55], v.v… Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về nguyên nhân của sự chuyển nghĩa trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng đã được các nhà nghiên cứu trong nước lẫn ngoài nước trình bày khá tỉ mỉ trong các luận án, chuyên đề, công trình khoa học, v.v… Theo Đỗ Hữu Châu [5, tr.570], sự thay đổi nghĩa trong tiếng Việt do nguyên nhân đơn giản là nhằm đáp ứng như cầu tạo thêm từ mới của xã hội. Thậm chí, trong luận án tiến sĩ thực hiện tại trường Đại học Khoa học Xã hội và 8 Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu sinh người Trung Quốc Kỳ Quảng Mưu cũng cho rằng sự chuyển nghĩa của từ ngữ cũng là phương thức tạo từ mới. Các nhà nghiên cứu khác như Nguyễn Văn Tu, Nguyển Đức Dân, v.v… ở những mức độ khác nhau cũng đã nêu ra và thảo luận những vấn đề cơ bản về sự chuyển nghĩa. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự hình thành của Ngôn ngữ học tri nhận những năm 70 của thế kỉ XX. Công trình đầu tiên đánh dấu khuynh hướng này chính là Metaphors We Live By (Chúng ta sống trong ẩn dụ) [125] của G. Lakoff và M. Johnson xuất bản năm 1980. Ẩn dụ từ đây đã thực sự vượt qua ranh giới Ngôn ngữ học thuần túy, trở thành đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học, Triết học. Những năm qua, Ngôn ngữ học tri nhận thế giới nói chung, nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm nói riêng đã ghi danh tên tuổi G. Lakoff, M. Johnson, Z. Kovecses, G. Fauconnier, M. Turner, C. Fillmore, J.E. Grady, M. Green… Các tác giả đã đưa ra một số lí thuyết, khái niệm mới như nghiệm thân, khung tri nhận, ẩn dụ ý niệm, ánh xạ, miền ý niệm, không gian tinh thần, pha trộn ý niệm… Các ứng dụng thực hành về ẩn dụ ý niệm về các đối tượng tri nhận như cảm xúc, không gian - thời gian, tình dục …thu được những kết quả rộng khắp trên các lĩnh vực thi ca, giáo dục, báo chí, điện ảnh, chính trị và đặc biệt là ngôn ngữ thường ngày; trong các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, chẳng hạn như tiếng Ma-rốc, tiếng Trung … đem lại nhiều nhận xét mới mẻ mà lịch sử nghiên cứu ẩn dụ truyền thống nhiều thế hệ hầu như không có. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối quan hệ mật thiết giữa ẩn dụ ý niệm và sinh quyển văn hóa, trong sự ràng buộc giữa con người - ngôn ngữ - xã hội, coi ẩn dụ ý niệm là cánh cửa tìm hiểu tâm trí, tư duy con người cũng như các đặc trưng xã hội riêng biệt của dân tộc [124], [125], [126], [127],… Ở Việt Nam, Ngôn ngữ học tri nhận chính thức được xướng danh trong Ngôn ngữ học tri nhận nhìn từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt [78] của Lý Toàn Thắng. Tác giả giới thuyết một số khái niệm cơ sở như tri nhận, ý niệm, hình nền, nguyên lí “dĩ nhân vi trung”… và đi sâu trình bày về đặc điểm tri nhận không gian của người Việt. Đây là một công trình quan trọng của Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, vừa có ý nghĩa lí luận giới thiệu một xu hướng mới, vừa có giá trị thực tiễn khi áp dụng vào nghiên cứu tiếng Việt và đưa ra những kết luận xác đáng, thuyết phục. Một cách khái quát, Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam đã dần được 9 khẳng định nhờ nhiều nhà nghiên cứu như Lý Toàn Thắng; Trần Văn Cơ [11], [12]; Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Hiệp [31], … Ở Việt Nam, các luận án nghiên cứu về ngôn ngữ tri nhận đã dành một khoảng khá lớn cho ẩn dụ ý niệm. Các luận án tập trung tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm gồm: Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt và tiếng Anh) [44] của Phan Thế Hưng (2010); Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lí thuyết nguyên mẫu (so sánh với tiếng Anh và tiếng Pháp) [24] của Võ Kim Hà (2011); Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu tên gọi bộ phận cơ thể người) [41] của Trịnh Thị Thanh Huệ (2012); Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn [28] của Nguyễn Thị Bích Hạnh (2015); .… Một hướng đi khác là các luận án vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận dành một phần tương đối quan trọng cho nghĩa của từ nói chung và hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói riêng, có thể kể tên các công trình “Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận” của Võ Thị Dung [16], “Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Ngọc Vũ [105], “Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (Qua các cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt)” của tác giả Phan Thế Hưng [44], luận án “Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa tiếng Việt (trên cứ liệu của nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga)” của tác giả Lê Thị Thanh Tâm [72], và một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như “Hoán dụ ý niệm trong kết cấu X (vị từ) + “Mặt” trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận” của tác giả Trần Trọng Hiếu [33]; “Bước đầu áp dụng lí thuyết nghiệm thân để tìm hiểu sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ cảm giác trong tiếng Việt” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh Phương [68]; “Hoán dụ từ góc nhìn tri nhận” của tác giả Tạ Thanh Tân [73]… Ngoài các luận án tiêu biểu trên đây, còn rất nhiều bài viết, luận văn Thạc sĩ quan tâm tới nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa. Nhìn chung, Việt ngữ học đã vận dụng lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận để giải quyết các vấn đề bản ngữ một cách linh hoạt. Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về Ngôn ngữ học tri nhận nói chung, nghĩa và chuyển nghĩa dưới góc độ ngôn ngữ tri nhận nói riêng nói riêng ở Việt Nam và trên thế giới ngày càng được mở rộng. Trong khuôn khổ và mục tiêu của luận án, chúng tôi chỉ trình bày dưới đây vấn đề có liên quan trực tiếp nhất tới đề tài. 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người 10 Nhìn một cách tổng thể, cho đến nay, đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN như một công cụ đắc dụng để tìm hiểu tính nhân loại, lối tư duy của dân tộc và dấu ấn văn hóa tiềm ẩn trong ngôn ngữ. Về các công trình và tác giả tiêu biểu, trước hết phải kể đến một số nghiên cứu về chuyển nghĩa của một số bộ phận cơ thể con người trong tiếng Trung Quốc của Ning Yu như “Body and emotion” (bộ phận cơ thể người và cảm xúc), Metaphor, body, and culture: The Chinese under - standing of gallbladder and courage (Ẩn dụ, thân thể và văn hóa: mối quan hệ giữa “gan” và “sự can đảm”, The eye for sight and mind (Mắt để nhìn và để nhận thức); một số nghiên cứu của Tomita Kenji về các từ chỉ bộ phận cơ thể người của tiếng Nhật và tiếng Việt trong tương quan so sánh [dt 54, tr.34]. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có một số bài viết, sách chuyên khảo, luận văn, luận án đề cập đến hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa. Trong các công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán,… nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người thường được dùng làm minh chứng cụ thể cho quá trình chuyển nghĩa của từ tiếng Việt… Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong cuốn “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” đã dùng 4 nhóm từ trong đó có nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người làm nguồn ngữ liệu chính để khảo sát đặc trưng văn hóa của dân tộc Việt, Nga. Tác giả Lý Toàn Thắng với một số nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa của từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và tiếng Anh (ngoài ra còn có tiếng Nga và một số ngôn ngữ khác) đã cho thấy sự giống và khác nhau cách nhận thức về hiện thực của từng dân tộc [74], [75] [77]. Tiếp tục hướng nghiên cứu đó, Chăn Phôm Ma Vông với “Đặc điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa của trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người tiếng Lào” [4] đã đề cập đến vấn đề chuyển trường nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Lào trong sự đối sánh với tiếng Việt để tìm ra sự đồng nhất và khác biệt giữa hai nền văn hóa Lào - Việt. Đặng Đức Hoàng trong luận án tiến sĩ “Đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện chuyển đổi ngữ nghĩa”[39] đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của con đường chuyển đổi ngữ nghĩa trong hai ngôn ngữ Anh -Việt dựa trên cơ sở nguồn ngữ liệu chủ yếu là sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN. Tác giả Nguyễn Văn Hải trong luận án “Các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và các từ tương đương trong tiếng Anh” đã đưa ra những nghiên cứu thú vị về đặc trưng văn hóa của người Anh và người Việt trong cách sử 11 dụng ngôn từ thông qua các trường hợp chuyển nghĩa của từ chỉ BPCTN. Tác giả Trần Thị Minh trong luận văn thạc sĩ “ Hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Anh và tiếng Việt (trường nghĩa: người, thực vật)” [53], đã khảo sát sự chuyển nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (NXB Đà Nẵng, 2004) và Oxford advance learners dictionary of current English của Hornby (Oxford University Press, 2005) và trong ngôn ngữ lời nói hằng ngày để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Từ chỉ bộ phận cơ thể người cũng là đối tượng nghiên cứu, khảo sát của nhiều luận văn, luận án dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận. Có thể kể đến luận án của tác giả Trịnh Thị Thanh Huệ (2012) [41] đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong cách tư duy của hai dân tộc Việt - Hán qua đề tài “Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ thể người)”; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hoàng Linh (2013) với đề tài “Đặc trưng tri nhận văn hóa của người Việt (Qua nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người” [51]); tác giả Lê Thị Khánh Hòa với luận văn thạc sĩ (2011) “Về cấu trúc vị từ + tên gọi BPCTN (kiểu như Mát tay, lên mặt, nóng ruột)” [37]; một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí như: “Ẩn dụ dùng từ ngữ chỉ BPCTN trong tiếng Việt và tiếng Anh” của tác giả Lê Thị Diên Anh [2], tác giả Nguyễn Ngọc Vũ với “Hoán dụ ý niệm bộ phận cơ thể người biểu trưng cho tâm trạng, tình cảm trong thành ngữ chứa yếu tố đầu, mặt, mắt tiếng Anh và tiếng Việt” [105], “Hoán dụ ý niệm bộ phận cơ thể người biểu trưng cho kĩ năng trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt”[106]…. Hầu hết các nghiên cứu này chủ yếu khai thác miền ý niệm là BPCTN, lí giải cơ chế tri nhận của một số ẩn dụ và hoán dụ, có tham chiếu đến những yếu tố văn hóa, điều kiện địa lí cũng như cách thức tư duy của từng dân tộc. Như vậy, cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhóm từ chỉ “bộ phận cơ thể người” theo những cách tiếp cận khác nhau. Qua đó, có thể nhận thấy một số điểm như sau: Một là, các từ chỉ BPCTN là một phần quan trọng và rất lí thú trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ. Hai là, các từ chỉ BPCTN được nghiên cứu không đồng đều, có những từ được khảo sát rất sâu, có những từ mới chỉ được đề cập ở mức độ khái quát. Ba là, nhóm từ chỉ BPCTN đã được nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau: có thể được nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học truyền thống, có tính đến các nhân tố văn hoá, hoặc từ góc độ văn hoá học; hoặc theo hướng ngôn ngữ học tri nhận; 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan