Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện hương khê...

Tài liệu Sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện hương khê trong giai đoạn hiện nay

.PDF
96
65
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN QUỐC BẢO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ Ở HUYỆN HƯƠNG KHÊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2013 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- TRẦN QUỐC BẢO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ Ở HUYỆN HƯƠNG KHÊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Trường Thụ Hà Nội – 2013 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác. Tác giả luận văn Trần Quốc Bảo iii MỤC LỤC Trang Mở đầu ..............................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...........................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ...................................................................6 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................7 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................7 6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................8 7. Kết cấu của luận văn......................................................................................8 Chương 1: Cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước; chính quyền cơ sở.............................................................................................9 1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo và cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước ...................................................................................9 1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo...........................................................9 1.1.2. Quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về Đảng lãnh đạo Nhà nước...............................................................11 1.2. Về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ........23 1.2.1. Vị trí, vai trò của Đảng bộ trong hệ thống chính trị ở địa phương .....23 1.2.2. Chính quyền địa phương............................................................................27 1.2.3. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở .....................................................................................30 Chương 2: Đặc điểm và thực trạng sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện Hương Khê từ năm 2000 đến nay......................................................................................34 2.1. Tình hình huyện miền núi Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh ..............................34 2.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội huyện Hương Khê..........................................34 2.1.2. Khái quát về cấp uỷ và chính quyền các xã, thị trấn ở huyện Hương Khê - Hà Tĩnh hiện nay .......................................................................35 iv 2.2. Những thành tựu Đảng bộ xã, thị trấn đối lãnh đạo chính quyền cơ sở.. .37 2.2.1. Về nội dung lãnh đạo .............................................................................37 2.2.2. Về phương thức lãnh đạo .....................................................................45 2.2.3. Thực hiện mô hình điểm Bí thư đồng thời là Chủ tịch..........................50 2.3. Những hạn chế sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở................................................................................52 2.3.1. Về nội dung lãnh đạo .............................................................................52 2.3.2. Về phương thức lãnh đạo.......................................................................56 2.3.3. Những hạn chế mô hình điểm Bí thư đồng thời là Chủ tịch..................58 2.4. Những vấn đề đặt ra..................................................................................60 2.4.1. Quyền lực của chính quyền thực hiện không đầy đủ ............................60 2.4.2. Sử dụng quyền lực lãnh đạo của Đảng không hợp pháp .......................61 2.4.3. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện không rõ nét ........................................61 Chương 3: Giải pháp nâng cao sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở hiện nay...........................64 3.1. Phương hướng chung................................................................................64 3.2. Các giải pháp cơ bản.................................................................................64 3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới nội dung lãnh đạo .........................................64 3.2.2. Nhóm giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo ....................................76 Kết luận...........................................................................................................84 Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................87 v DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT GCTS: Giai cấp tư sản GCVS: Giai cấp vô sản HĐND: Hội đồng nhân dân LLSX: Lực lượng sản xuất UBKT: Ủy ban kiểm tra UBND: Ủy ban nhân dân vi MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy”[19,tr.56]. Trong lịch sử vẻ vang của mình, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng và xã hội Việt Nam. Kể từ ngày thành lập Đảng đến nay, với lý tưởng và mục tiêu cao đẹp, bằng trí tuệ, tài năng và phẩm chất chính trị của mình, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam giành được nhiều thắng lợi. Đó là, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; là chiến thắng oanh liệt của các cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước, đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đạt được những thành tựu như vậy, chính là nhờ việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã biết vận dụng phương thức triển khai quyền lực lãnh đạo một cách hợp lý, làm cho những giá trị dân chủ, công bằng và văn minh đến được một cách thực sự và toàn diện tới nhân dân. Đảng bộ cấp xã, thị trấn - Với tư cách “nhịp nối” giữa Đảng với nhân dân trên địa bàn nông thôn, được coi là cấp căn bản, trực tiếp trong việc triển khai quyền lực của Đảng. Một mặt, nó bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Trung ương, Tỉnh, Huyện đến với cơ sở Đảng, đi vào quần chúng; mặt khác, nó kịp thời phản ánh, sơ, tổng kết thực tiễn phong phú của từng địa phương, đơn vị, để khẳng định hoặc bổ sung đường lối, chủ trương của Đảng. 1 Hương Khê là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Hà Tĩnh, trải qua 145 năm hình thành và phát triển, nhân dân Hương Khê đã đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng quê hương, đất nước. Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc Hương Khê đã vùng lên lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước làm nên thắng lợi cuộc Cách mạng tháng tám năm 1945, đánh thắng trong các cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần bảo vệ và dựng xây Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ hoà bình, đổi mới, nhất là giai đoạn hiện nay (từ năm 2000 đến nay - thời điểm chia tách huyện)1, các Đảng bộ xã, thị trấn đã cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương của Đảng bằng các chương trình hành động sát với tình hình đặc điểm của địa phương, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển chính quyền, các Đảng bộ đã từng bước nhận thức đúng vị trí, vai trò, quyền hạn của mình trong quan hệ đối với chính quyền; xác định những nhiệm vụ chính trị ngắn hạn và dài hạn để định hướng hoạt động; có những chủ trương, biện pháp cụ thể, củng cố bộ máy tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực công tác chính quyền; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và thiết lập các quan hệ công tác ngày càng hợp lý hơn. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn những hạn chế trong quá trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở. Nhiều khâu trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ đối với chính quyền còn trong tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau, thiếu phân định rõ ràng; Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đánh giá về 1 Chính phủ ban hành Nghị định số 27/NĐ-CP, ngày 4/8/2000 nội dung “chuyển 5 xã của Huyện Hương Khê về Huyện Vũ Quang”. 2 những hạn chế, khuyết điểm “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ở một số tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế. Kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý, năng lực chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của cán bộ trong bộ máy chính quyền còn nhiều hạn chế, nhưng các cấp uỷ Đảng chưa có giải pháp kịp thời, hữu hiệu để khắc phục những vấn đề trên”[1,tr.9]; điều đó đã hạn chế, cản trở việc giải quyết các công việc, kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội. Thực tiễn lãnh đạo của các Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp đã bộc lộ những mặt hạn chế chủ yếu sau đây: Thứ nhất: Chưa xác định rõ phạm vi chức trách, thẩm quyền của cấp uỷ địa phương. Do hiểu sự lãnh đạo của cấp uỷ một cách chung chung, nên sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với HĐND, UBND vẫn còn nhiều lúng túng, chưa được xác định một cách khoa học. Đôi khi, hai bộ máy quyền lực cùng giải quyết các nội dung của một mục tiêu. Sự phân định giữa hai cơ quan Đảng và chính quyền bị xoá nhoà, có chăng chính quyền thì ban hành các quyết định hành chính, còn cơ quan Đảng thêm được nhiệm vụ công tác đảng và đoàn thể. Thứ hai: Cấp uỷ bao biện, làm thay chính quyền, xem chính quyền là công cụ “hợp thức hoá” các quyết định của cấp uỷ. Do xác định sai thẩm quyền của cấp uỷ trong việc ban hành các quyết định, bầu cử hội đồng nhân dân, biện pháp phát triển kinh tế và xã hội ở địa phương, chọn cử nhân sự,… mà nhiều người cho rằng, chính quyền là tổ chức chỉ để thực hiện các quyết định của cấp uỷ. Không ít cấp uỷ địa phương áp đặt nhiều chủ trương theo ý muốn chủ quan của mình, buộc chính quyền thực hiện. Ở nhiều nơi, cán bộ Nhà nước khi giải quyết việc gì cũng cũng xin ý kiến chỉ đạo của Đảng. Sự không đúng về nhận thức này là một trong những nguyên nhân làm cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân rơi vào sự vụ, hình thức, kém năng động. Thứ ba: Cấp uỷ Đảng buông lỏng, bỏ mất vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của mình. 3 Nhiều lúc, nhiều nơi, cấp uỷ đã không quán xuyến hết một số nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, nên đã bỏ mất vai trò lãnh đạo; có việc thì mặc nhận, thậm chí đồng tình để UBND thực hiện những công việc, những chính sách trái với quy định chung, lợi dụng danh nghĩa “vận dụng sáng tạo” để làm những việc sai phạm, chỉ vì lợi ích cục bộ địa phương. Thứ tư: Sự lãnh đạo của cấp uỷ bị từ chối Có thể do những động cơ khác nhau hoặc sự xung đột trong phong cách, tính cách của các nhân vật chủ chốt cấp uỷ và chính quyền, chủ thể lãnh đạo chính quyền (chủ yếu là Uỷ ban nhân dân) muốn khước từ, bỏ qua sự lãnh đạo của cấp uỷ. Trong những vấn đề nêu trên, tình trạng chồng lấn về quyền lực được biểu hiện dưới dạng lấn sân, bao biện, làm thay và buông lỏng là hiện tượng có tính phổ biến; nhiều khi khắc phục khuyết điểm này lại rơi vào khuyết điểm kia một cách không tự giác. Những điều nêu trên đã hạn chế không nhỏ đến vai trò lãnh đạo của Đảng, và vì thế, ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý của chính quyền các xã, thị trấn và thành tựu kinh tế - xã hội của địa phương. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; gia nhập ngày càng sâu hơn nền kinh tế quốc tế; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Để phát huy ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp ở huyện Hương Khê, vấn đề rất cần thiết đặt ra là, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tìm ra những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp. Và bản thân hiện nay đang công tác tại Ban Tuyên giáo Cơ quan Huyện uỷ Hương Khê, nhận thấy rằng, việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp ở huyện Hương Khê, là một đòi hỏi khách quan, không những có ý nghĩa cho thực tiễn, mà còn có giá 4 trị về mặt lý luận, vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt, vừa đặt cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học sau này, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện Hương Khê trong giai đoạn hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền các cấp là một vấn đề quan trọng, có tính thời sự, được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn quan tâm ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến một số công trình cơ bản như: Về sách nghiên cứu, thảo luận: Văn hoá và con người, Nguyễn Trần Bạt, NXB Hội nhà văn - 2011; Cải cách và sự phát triển, Nguyễn Trần Bạt, NXB Hội nhà văn - 2011; Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Lê Minh Quân, NXB Chính trị Quốc gia - 2010; Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị-xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay, Mai Đức Ngọc, NXB Chính trị-Hành chính-2008; Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, Phạm Ngọc Trâm, NXB Chính trị Quốc gia-2011; Phát triển kỹ năng lãnh đạo, John C.Maxwell, NXB Lao động-xã hội-2012; 21 nguyên tắc vàng của Nghệ thuật lãnh đạo, John C.Maxwell, NXB Lao động-xã hội-2012; Văn kiện đại hội Đảng XI, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (đã được sữa đổi bổ sung) và những quy định mới về chức năng nhiệm vụ quy chế hoạt động của các cơ sở Đảng, NXB lao động-2011; Nghiệp vụ công tác đảng viên và các văn bản hướng dẫn thực hiện, NXB Chính trị Quốc gia-2010; “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước”, Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; Hương Khê 135 năm (1867-2002), Nguyễn Bá Thanh (chủ biên), NXB Văn hoá-Thông tin-2003; Đề án phát triển kinh tế - xã hội, Quốc phòng-An ninh huyện Hương Khê đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, UBND huyện Hương Khê, hoàn thành tháng 7 năm 2011. Các bài đăng trên tạp chí: - Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong thời kỳ mới, Trần Đình Thắng (2010), Tạp chí Lịch sử Đảng, số chuyên đề 8 (237) tháng 8. 5 - Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Nghệ An trong cao trào cách mạng 1930 -1931, Trần Văn Hằng (2010), Tạp chí Lịch sử Đảng, số chuyên đề 8 (237) tháng 8. - Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân góp phần nâng cao văn hoá dân chủ và văn hoá pháp luật cho nhân dân ở nước ta hiện nay, Tống Đức Thảo (2011), tạp chí Báo cáo viên số 1. - Xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Trần Đức Quang (2012), , Tạp chí Cộng sản số 64 tháng 4. - Bí thư đảng uỷ đồng thời Chủ tịch UBND xã ở Hà Tĩnh từ “Điểm” đến “Diện”, Thành Châu – Văn Học (2010), Tạp chí Thông Tin Tư Tưởng - Ban chấp hành Đảng bộ Hà Tĩnh, số 1. - Xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nguyễn Phú Trọng (2011), Tạp chí Cộng sản, số 827. - Quan điểm của Đảng về phòng, chống suy thoái phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thời kỳ mới, Đỗ Xuân Tuất (2012), , tạp chí Lịch sử Đảng, số 2 (225). Các công trình trên đây đã đề cập được những chủ đề lớn, ở những góc độ và mục đích khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này cố gắng kế thừa những giá trị quý báu đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề cần được làm sáng tỏ trong điều kiện hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Phân tích thực trạng về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn, đối với chính quyền cơ sở; chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nêu các giải pháp đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện miền núi Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, qua đó, tăng cường hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp. 6 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước, phạm vi, cách thức thực hiện và thực chất, nội dung, yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở. - Khảo sát, phân tích thực trạng, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, trong sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện miền núi Hương Khê. - Nêu giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền trong điều kiện hiện nay, nhằm xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng cầm quyền, về quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính trị, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Phương pháp tiếp cận hệ thống để xác định vị trí và mối tương quan giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ cơ bản giữa Đảng và Nhà nước, cấp tỉnh đối với huyện và cấp huyện đối với xã, thị trấn, phương pháp kết hợp lịch sử - logic; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, phỏng vấn. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện miền núi Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012; giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền giai đoạn 2013 - 2015; dẫn chứng tư liệu từ thực tiễn của 22 xã, thị trấn trong huyện. 7 6. Đóng góp của luận văn + Hệ thống hoá, phân tích các khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh đạo nhà nước; vị trí, vai trò và cơ cấu tổ chức của cấp uỷ, chính quyền cơ sở; phản ánh và phân tích thực trạng sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở; + Góp phần luận giải rõ thêm lý luận về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở; + Nêu quan điểm mới về nội dung, mô hình lãnh đạo toàn diện, xây dựng uy tín lãnh đạo, khắc phục tập trung quyền lực tuyệt đối và dự báo các xu hướng lớn cần tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 03 chương, 08 tiết. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ 1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo và cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước 1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo Trong các quan hệ xã hội, thì quan hệ lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo là một trong những quan hệ chính yếu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cho nên, vấn đề lãnh đạo và quản lý đã trở thành đối tượng nghiên cứu và bàn luận của các nhà tư tưởng, các nhà chính trị. Ở Việt Nam, mãi tới những năm gần đây, mới xuất hiện những đầu sách, chuyên luận bàn về lãnh đạo, quản lý. Trong cuốn sách Phát triển kỹ năng lãnh đạo của John C. Maxwell đã định nghĩa lãnh đạo “là gây ảnh hưởng”[23,tr.18]. Có người làm rõ nội hàm khái niệm: “lãnh đạo là sự ảnh hưởng mang tính tương tác, được thực hiện trong một tình huống, được chỉ đạo, thông qua quá trình thông tin để đạt tới mục tiêu cụ thể”[24,tr.14]. Từ tìm dấu hiệu chung của khái niệm, có tác giả đã khái quát: “lãnh đạo là một chức năng hoạt động xã hội của con người (cá nhân hay tập thể) bằng phương pháp tác động, gây ảnh hưởng, thuyết phục (một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng xã hội, một dân tộc) nhằm tổ chức các mối quan hệ, tập hợp các thành viên, để huy động mọi khả năng và ý chí của họ, hành động đạt những mục tiêu chung, đã xác định”[32,tr.35]. Có tác giả đi sâu vào việc phân biệt khái niệm lãnh đạo với khái niệm quản lý, chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của khái niệm lãnh đạo ở chỗ nó hướng vào việc “nhận thức, lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh của hệ thống; làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống (bao gồm việc phân tích các mâu thuẫn trong quá trình phát triển), phát hiện nhân tố mới; tổng 9 kết được quy luật, xu thế phát triển của hệ thống; đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ thống”[34,tr.18]. Nói khái quát nhất, lãnh đạo là: “đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện”[44,tr.568]. Mặc dù, phân tích, đánh giá ở những điểm khác nhau, nhưng điểm chung các tác giả đều nhất trí đặc trưng của lãnh đạo là tính định hướng và sự vươn tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu rằng Lãnh đạo là khả năng, tài năng vạch phương hướng, chỉ đường và bằng ý chí, niềm tin, phẩm hạnh của mình (của tổ chức) nhằm lôi cuốn, cổ vũ mọi người thực hiện mục tiêu của cá nhân, tổ chức đã định. Từ nhận thức về khái niệm lãnh đạo, nhiều tác giả đã đề cập đến khái niệm đảng lãnh đạo. Đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về đảng nói chung và Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng, đã lý giải nhiều về đảng lãnh đạo. Sự tương đồng cao về khái niệm đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ: tính định hướng chính trị, tổ chức lực lượng, thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư tưởng nhằm lôi kéo các tầng lớp khác trong xã hội đi theo và thực hiện những mục tiêu chính trị của đảng. Còn khi nói Đảng cộng sản lãnh đạo là nói Đảng đưa ra những định hướng về quan điểm, nguyên tắc xây dựng đất nước theo mục tiêu của CNXH; lựa chọn các nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và vận động thuyết phục, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hiện cho bằng được các mục tiêu ấy. Một số tác giả còn phân tích khái niệm “Đảng cầm quyền” để phân biệt với khái niệm “Đảng lãnh đạo”. Theo các nhà chính trị học, nhà tư tưởng ở phương tây, thì thuật ngữ “Đảng cầm quyền”, “Đảng chấp chính”, “Đảng nắm chính quyền” đã được dùng từ lâu ở các nước phương tây để chỉ rõ vai trò, vị thế và trách nhiệm của Đảng khi đã có chính quyền; phân biệt Đảng nắm chính quyền với những Đảng không nắm chính quyền, chưa dành được chính quyền hoặc vị trí đối lập. Dù diễn đạt ngôn từ hay chỉ ra các đặc điểm khác nhau trong chi tiết, nhưng hầu hết các ý kiến đều thể hiện quan điểm chung đó là: Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính quyền, làm 10 cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của Đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp mà Đảng đó đại diện. Xét về bản chất, Đảng cầm quyền tức là Đảng lãnh đạo trong điều kiện có chính quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã chi phối, dẫn dắt chính quyền, sử dụng quyền lực nhà nước trên thực tế để thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. 1.1.2. Quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng lãnh đạo nhà nước Với quan điểm khoa học về lịch sử, C.Mác đã chứng minh quá trình chuyển biến vai trò lãnh đạo sang tay giai cấp công nhân, xuất phát từ sự phát triển của LLSX là một tất yếu lịch sử. Thông qua việc giành được quyền lực nhà nước bằng cách lật đổ sự thống trị của GCTS, GCVS đã thiết lập nên nhà nước của mình, thiết lập nên quyền lãnh đạo đối với nhà nước. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[14,tr.610]. Trong cuộc đấu tranh giai cấp có tính lịch sử này, giai cấp vô sản cần có một đảng chân chính lãnh đạo - Đảng cộng sản. Bởi vì lịch sử đấu tranh giai cấp đã khẳng định một điều, để giành được thắng lợi tất yếu phải xây dựng được cho mình một Đảng cách mạng. Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Đó là những người kiên quyết nhất, là bộ phận cổ vũ tất cả các bộ phận khác; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Mục đích của những người cộng sản, cũng là mục đích của tất cả các Đảng vô sản khác; tổ chức của những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Tính quy luật của lịch sử là: chủ nghĩa tư bản nhất định được thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và người có vai trò thực hiện bước thay đổi thế giới là giai cấp công nhân mà Đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. 11 Cũng theo C. Mác và Ph.Ăngghen: “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản ở nước mình đã”[14,tr.611]. Và “Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”[14,tr.623-624]. Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác về Đảng, Lênin đã chỉ ra, chỉ có một Đảng chân chính mới bảo đảm duy nhất cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Đảng cộng sản tác động đến mọi quá trình xã hội, trước hết là thông qua hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng là ở chỗ nó lãnh đạo nhà nước, các tổ chức xã hội, thông qua các tổ chức này, lãnh đạo toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin chỉ ra rằng: “Trong nước cộng hoà chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan Nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”[43,tr.38]. Tuy nhiên, sau khi lãnh đạo chính quyền, Lênin cũng đã phát hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có dấu hiệu không cụ thể, chồng chéo. Lênin đã yêu cầu: cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và của Ban chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ chính quyền Xô Viết và các cơ quan Xô-Viết, còn về Đảng thì dành quyền lãnh đạo chung công tác của tất cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt như hiện nay. Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đến việc xây dựng tổ chức Đảng. Người xác định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới 12 chạy”[26,tr.267-268]. Người đã tập trung xây dựng và rèn luyện những người ưu tú từ các giai cấp, tầng lớp lao động để hình thành một Đảng cách mạng chân chính. Người cũng yêu cầu Chính phủ (suy rộng ra là cơ quan nhà nước các cấp) phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy: “việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[27,tr.22]. Bác luôn khẳng định nhà nước là của dân. Đảng đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lãnh đạo nhà nước thực thi nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Do vậy, quyền lực là thống nhất, không có sự phân chia quyền lực. Người cho rằng: “trong Đảng và Nhà nước ta có sự phân công chặt chẽ như các bộ phận trong chiếc kim đồng hồ; cái kim dây cót khác nhau nhưng hợp tác chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng không được”[25,tr.555-556]. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng đã từng lưu ý rằng, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, để tránh những sai lầm, khuyết điểm, Đảng phải không ngừng phát huy dân chủ trong sinh hoạt và công tác, đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, đi đúng đường lối quần chúng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chống độc quyền, độc đoán, kéo bè, kéo cánh. Và để phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng cầm quyền, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Đảng lãnh đạo là một cách thức (quan trọng nhất) mang lại lợi ích cho giai cấp công nhân, cho dân tộc và quốc tế. Lợi ích đó là chính trị, kế tiếp là các lợi ích khác, nhằm đạt được dân chủ, bình đẳng, công bằng, văn minh,… Ngoài ra, không có một tổ chức nào có thể thay thế Đảng cộng sản trong việc mang lại lợi ích cho số đông người lao động Thực hiện quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã từng bước hoàn thiện về quan niệm Đảng lãnh đạo Nhà nước và cơ quan Nhà nước các cấp. Từ khi cầm quyền, đặc biệt là trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng và cũng cố và hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, và thực tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó thể hiện sự phát triển, trưởng thành của Nhà nước Việt Nam, trong hoạt động quản 13 lý và tổ chức thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vấn đề này được thể hiện qua các giai đoạn lịch sử như sau: Giai đoạn 1945 - 1946: Từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 10 -1930 đổi tên Đảng cộng sản Đông Dương) đã chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng Tháng tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2-9-1945, đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể yêu cầu về lãnh đạo và quản lý khác nhau nên quan hệ giữa Nhà nước và Đảng cũng có sự khác nhau. Từ khi Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, lãnh đạo và quản lý vốn có cùng một nguồn gốc - đều được bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử của Đảng và do Đảng lãnh đạo. Khi chưa có chính quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khi đã có chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước. Nhưng tại thời điểm này, các thế lực thù địch trong và ngoài nước cấu kết với nhau tìm mọi cách xoá bỏ một nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà vừa mới được lập nên, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn và để có thời giờ cũng cố dần lực lượng của chính quyền nhân dân, cũng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng phương pháp là, tuyên bố giải tán Đảng, mà thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, để lãnh đạo kín đáo và hiệu quả hơn. Có thể nói sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước giai đoạn này là sự lãnh đạo hợp pháp nhưng không công khai. Hợp pháp vì sự tồn tại của Đảng được Hiến pháp quy định. Không công khai là vì trong điều kiện một chính quyền gồm nhiều thế lực đối lập, đối kháng thì không công khai sẽ hiệu quả hơn. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan