Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự biến đổi nghi lễ lên đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở đồng bằng...

Tài liệu Sự biến đổi nghi lễ lên đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở đồng bằng bắc bộ hiện nay

.PDF
123
90
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHẠM THỊ VÂN SỰ BIẾN ĐỔI NGHI LỄ LÊN ĐỒNG TRONG TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60.22.03.09 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Thị Lan Hà Nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đặng Thị Lan. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là chính xác, trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Các kết luận chưa từng được công bố ở bất kỳ một công trình nào. Tác giả luận văn Phạm Thị Vân LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn Thạc sĩ này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy giỗ nhiệt tình của các Thầy, Cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN trong suốt thời gian em học tập. Đặc biệt, em xin bày tỏ lời tri ân sâu sắc tới PGS.TS.Đặng Thị Lan, cô đã tận tình hướng dẫn em từ việc định hướng đề tài, lựa chọn phương pháp nghiên cứu đến tìm kiếm tài liệu và gợi mở những nội dung quan trọng của luận văn. Sau, em xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, chia sẻ của Gia đình, Bạn bè trong suốt quá trình em nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Mặc dù đã nỗ lực rất nhiều, nhưng do trình độ, năng lực nhận thức của bản thân còn hạn chế nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý chân thành của các Thầy, Cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2015 Tác giả Phạm Thị Vân MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chon đề tài ........................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2 2.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) ........... 2 2.2. Những công trình nghiên cứu về Lên Đồng ........................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .......................................................... 5 3.1. Mục đích .............................................................................................. 5 3.2. Nhiệm vụ .............................................................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.................................................. 7 7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .................................................... 8 1.1. Cơ sở hình thành, phát triển và giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng Bằng Bắc Bộ .................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu ........................................................ 8 1.1.2. Cơ sở hình thành, phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ .................................................................................. 13 1.1.3. Giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ................................................................................................................... 20 1.2. Lên Đồng - Nghi lễ đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ........................................................................................ 26 1.2.1. Khái niệm nghi lễ và nghi lễ Lên Đồng.......................................... 26 1.2.2. Vai trò của nghi lễ Lên Đồng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ .... 34 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 42 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ BIẾN ĐỔI CHỦ YẾU CỦA NGHI LỄ LÊN ĐỒNG TRONG TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY- VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................................................................. 44 2.1. Một số biến đổi chủ yếu của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay ..................................... 44 2.1.1. Khuynh hướng gia tăng sự tích hợp văn hóa .................................. 45 2.1.2. Biến đổi về quy mô và đối tượng thực hành nghi lễ Lên Đồng ..... 50 2.1.3. Biến đổi về trang phục trong thực hành nghi lễ Lên Đồng ............ 62 2.1.4. Biến đổi về đồ lễ trong nghi lễ Lên Đồng ...................................... 67 2.1.5. Biến đổi trongthực hành nghi lễ Lên Đồng ................................... 73 2.2. Nguyên nhân của sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay ..................................... 85 2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực trong nghi lễ Lên Đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay ........................................................................ 90 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 99 KẾT LUẬN .................................................................................................. 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104 PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................... 112 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ĐBBB Đồng bằng Bắc Bộ GS.TS Giáo sƣ, Tiến sĩ KTTT Kinh tế thị trƣờng Nxb Nhà xuất bản PGS.TS Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Tr Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chon đề tài Tôn giáo, tín ngưỡng là thành tố quan trọng làm nên bản sắc của văn hóa của mỗi dân tộc, nó được coi là hạt nhân, là linh hồn của văn hóa, quy định tính chất đặc trưng của văn hóa. Với tư cách là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt không chỉ làm phong phú đa dạng cho nền văn hóa mà còn là nơi lưu giữ bản sắc, những đặc tính của nền văn hóa. Ở khía cạnh này, tín ngưỡng thờ Mẫu có thể được coi như một hiện tượng đặc trưng cho nền văn hóa của Đồng bằng Bắc Bộ. Nằm trong dòng chảy chung của văn hóa dân gian Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ không chỉ phác họa nên bản chất và sắc thái đa dạng của đời sống tâm linh người Việt mà còn thể hiện được đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tăng cường ý thức liên kết cộng đồng. Trong các hình thức diễn xướng của tín ngưỡng Mẫu, có thể nói Lên Đồng là hình thức cơ bản nhất, đặc trưng nhất thể hiện được bản sắc của tín ngưỡng Mẫu. Lên Đồng hay Hầu bóng là một hình thức biểu diễn mang tính phức hợp, nó là sự kết hợp giữa nghi lễ và sân khấu, âm nhạc và lời hát, trang phục và phong tục, nhảy múa và nhập thần. Cùng với xu thế của sự phát triển và hội nhập, đặc biệt dưới tác động của nền kinh tế thị trường, nghi lễ Lên Đồng cũng từng bước có những biến đổi. Sự biến đổi ấy mang lại những giá trị không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cũng như góp phần vào việc củng cố xây dựng đời sống tinh thần của con người, giải toả về mặt tâm linh trong đời sống của mỗi cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, ở một vài khía cạnh nào đó, sự biến đổi của nghi lễ Lên Đồng đang làm giảm đi giá trị văn hóa, tâm linh 1 vốn có của nó và tác động tiêu cực đến đời sống con người. Để làm sáng tỏ hơn vấn đề này, tôi lựa chọn đề tài “Sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm góp phần vào việc đánh giá và nhìn nhận một cách toàn diện hơn về nghi lễ Lên Đồng, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị, những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của loại hình tín ngưỡng dân gian này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và nghi lễ Lên Đồng nói riêng. Nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi giữa các chuyên gia, các ông đồng, bà đồng, người thực hành nghi lễ đã được tiến hành. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như nghi lễ Lên Đồng khá đa dạng. Chúng tôi tạm phân chia thành các nhóm chính sau đây: 2.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) Một số công trình do GS. Ngô Đức Thịnh làm chủ biên như: Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004; Tiêu biểu nhất có công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2010. Giá trị lớn nhất của công trình này là tác giả đã tôn vinh tín ngưỡng dân gian bản địa thành Đạo Mẫu của toàn thể dân tộc Việt. Riêng tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ, tác giả nghiên cứu chi tiết về sự hình thành, hệ thống thần linh, nghi lễ và lễ hội. Tác giả đã có cái nhìn khách quan nhất đối với tín ngưỡng thờ Mẫu và tục Lên Đồng, việc gắn Đạo Mẫu với Lên Đồng, cũng như gắn Lên Đồng với Đạo Mẫu. Các công trình này mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Qua công trình nghiên cứu của tác giả, chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của hai hiện 2 tượng tưởng như tách rời này. Còn về thực tiễn xã hội thì khi đặt nghi lễ Lên Đồng trong bối cảnh Đạo Mẫu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tín ngưỡng thờ Mẫu, giảm bớt đi những mặc cảm và thành kiến xã hội đối với tín ngưỡng này. Riêng về xu hướng biến đổi, do giới hạn của nghiên cứu nên các tác giả không đề cập đến một cách chi tiết. Ngoài ra, tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu còn có nhiều tác giả, công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, bài báo đề cập đến như: Tam tòa thánh Mẫu của Đặng Văn Lung, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1991; Các nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 1984; Đạo Thánh ở Việt Nam của tác giả Vũ Ngọc Khánh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam” của Đinh Gia Khánh trên Tạp chí Văn học số 5-1992; “Đạo Mẫu ở nước ta – nhìn từ hệ thống đền miếu và thần tích” của Nguyễn Minh San trên Tạp chí dân tộc học số 1 -1992; “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ - xét dưới góc độ triết học”, của Nguyễn Hữu Thụ trên Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 1 - 2012; “Quanh tục thờ Thánh Mẫu” của Hương Nguyện trên Tạp chí di sản văn hóa số 7 - 2004… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả tiếp cận tín ngưỡng thờ Mẫu từ các góc độ khác nhau: văn hóa, tôn giáo, triết học, lịch sử, nghệ thuật…đã cho thấy sự phong phú, đa dạng và vị trí của tín ngưỡng này trong đời sống văn hóa dân gian Việt Nam. 2.2. Những công trình nghiên cứu về Lên Đồng Ngoài các công trình nghiên cứu tổng hợp về tín ngưỡng thờ Mẫu nói trên, còn có các công trình có nội dung nghiên cứu, tìm hiểu sâu về nghi lễ Lên Đồng của các tác giả trong và ngoài nước. Tiêu biểu hơn cả có lẽ phải kể đến hai công trình nghiên cứu của hai tác giả người Pháp, đó là: 3 - M.Durand: Kỹ thuật và hệ thống thần linh của các Ông đồng Việt Nam, xuất bản ở Paris năm 1959. - P.J.Simon và I.Simon-Barouh: Hầu bóng, lễ nhập hồn của người Việt được mang sang Pháp, xuất bản ở Paris năm 1973. Đó là những khảo cứu dân tộc học khá công phu, tiếp cận hiện tượng tín ngưỡng này từ góc độ tôn giáo học và xã hội học. Ngoài cung cấp những tư liệu quan sát điền dã là chính, các tác giả đã có những nhận xét đúng đắn về cội nguồn và bản chất của nghi lễ Lên Đồng. Bên cạnh đó, một số công trình của GS.Ngô Đức Thịnh cũng khảo cứu riêng về nghi lễ Lên Đồng như: Hát Văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1992; Lên Đồng, hành trình của thần linh và thân phận, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2008. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tiến hành khảo sát khía cạnh của tín ngưỡng Tứ Phủ đó là hát văn - hầu bóng nhiều nơi trên miền Bắc, thu băng các bài văn chầu, đặc biệt là ghi hình video nhiều cuộc Lên Đồng ở Hà Nội, Sài Gòn và Huế. Đó là những nguồn tư liệu quý mang giá trị thực tiễn cao giúp chúng ta có thể tiếp tục đi sâu nghiên cứu về hiện tượng hát văn - hầu đồng trên phạm vi cả nước. Gần đây, cuốn sách Nghi lễ Lên Đồng lịch sử và giá trị, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2013 của tác giả Nguyễn Ngọc Mai đã cung cấp khá chi tiết nguồn tư liệu về Lên Đồng. Tác giả bám sát nguồn gốc, sự hình thành, phát triển của nghi lễ cũng như sự vận động, biến đổi của nghi lễ trong tình hình mới. Không chỉ dừng lại ở đó, công trình còn đi sâu tìm hiểu và lý giải những yếu tố tiềm tàng trong bản năng, trong vô thức của các căn Đồng với tư cách là những chủ thể văn hóa của một loại hình tín ngưỡng đặc biệt. Bên cạnh đó, còn nhiều bài viết công bố trên các tạp chí như: Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Triết học, Tạp chí Ngiên cứuTôn giáo, Tạp chí Văn hoá 4 dân gian, Tạp chí Văn học… cũng nghiên cứu về Lên Đồng dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Như vậy, việc nghiên cứu về Lên Đồng ở Việt Nam nói chung đã được đề cập đến trong nhiều tác phẩm. Các công trình này đã nghiên cứu một cách hệ thống về Lên Đồng ở Việt Nam nhưng các công trình nào chỉ ra những xu hướng biến đổi cụ thể của nghi lễ Lên Đồng chưa nhiều. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu tầm, tích lũy chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về tín ngưỡng thờ Mẫu tại các trung tâm thờ Mẫu, chúng tôi muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm “sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng” để qua đó ta có được cái nhìn khách quan, chân thực hơn về những giá trị và hạn chế của nó góp phần làm phong phú nguồn tư liệu văn hóa, đặc sắc, đa dạng trong dòng chảy tín ngưỡng dân gian Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ Lên Đồng, luận văn phân tích làm rõ một số xu hướng biến đổi của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và nêu một số khuyến nghị nhằm phát huy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Trình bày khái quát chung về tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ Lên Đồng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. - Phân tích một số biến đổi chủ yếu của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. 5 - Đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Luận văn nghiên cứu sự biến đổi nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. + Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự biến đổi của nghi lễ Lên Đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay (từ khi đổi mới năm 1986) 5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. - Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là chính, các phương pháp như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa… đồng thời kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác như : + Phương pháp khảo sát, điền dã, phỏng vấn, ghi chép tại địa bàn nghiên cứu và các nhân chứng có liên quan đến đề tài. + Phương pháp so sánh để thấy được những biến đổi của nghi lễ Lên Đồng hiện nay so với những năm trước đây. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng phương pháp liên ngành, đặc biệt là liên ngành với sử học và văn hóa học, tôn giáo học...để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu nói 6 chung, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng cũng như những biến đổi của nghi lễ Lên Đồng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu những giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và nghi lễ Lên Đồng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, làm rõ những biến đổi căn bản của nghi lễ Lên Đồng trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở có đào tạo những môn học liên quan đến tôn giáo, văn hoá, tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 2 chương với 5 tiết ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục ảnh. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 1.1. Cơ sở hình thành, phát triển và giá trị của tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt ở đồng Bằng Bắc Bộ 1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu Trên những cơ sở kinh tế - xã hội - văn hóa, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt được hình thành từ hàng ngàn năm nay. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của dân tộc và đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Khởi nguồn từ tục thờ Nữ thần của cư dân Việt cổ đến bước phát triển cao hơn là thờ Mẫu thần và cuối cùng là thờ Tam Phủ - Tứ Phủ. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành của con người về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, trong công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước. Khái niệm "Mẫu" có thể tiếp cận ở góc độ rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên có thể tiếp cận khái niệm Mẫu theo ba nghĩa: - Mẫu là một danh từ gốc Hán Việt được hiểu là mẹ, mụ, mạ, mế dùng để chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của người con đối với người mẹ đã sinh thành ra mình. - Mẫu cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là sự tôn vinh, tôn xưng một nhân vật nữ nào đó (có thật hoặc không có thật) như Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu nghi thiên hạ. - Mẫu cũng được dùng để chỉ sự sinh sôi nảy nở, sinh hóa không ngừng của vạn vật như những danh xưng: Mẹ cây, Mẹ đất, Mẹ nước, Mẹ núi rừng, Mẹ lúa, Mẹ chim, Mẹ cá, Mẹ xứ sở... Mặc dù đồng nhất Mẹ - Mẫu với tự nhiên (bà Mây, bà Mưa, bà Sấm, bà Chớp), với bản thể vũ trụ (bà Kim, bà 8 Mộc, bà Thủy, bà Hỏa, bà Thổ), nhưng Mẫu ở đây không phải là người mang tính sáng thế mà chỉ mang tính đùm bọc che chở mà thôi. Người Việt trên cơ sở những cảm nhận trực quan về sự sinh nở của người mẹ, trong lao động sản xuất và trong đời sống cộng đồng đã xuất hiện ý thức về sự sinh sôi nảy nở và phát triển của vạn vật xung quanh mình. Họ nhận thấy người mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc mang thai, sinh nở, nuôi dưỡng và che chở cho con cái của mình nói riêng và cho cả cộng đồng nói chung. Vì vậy người Việt đã sớm hình thành niềm tin thiêng liêng vào người mẹ mang nặng đẻ đau, che chở và đùm bọc đàn con. Niềm tin ấy được gửi gắm vào những người phụ nữ được tôn làm Nữ thần, Mẫu thần như mẹ Thượng Thiên sáng tạo ra vũ trụ, cai quản sự sống ở cõi trời; mẹ Thượng Ngàn bảo vệ chốn rừng xanh, đảm bảo cho sự sống của thực vật, động vật tầng đất, mẹ Thoải trông giữ các cửa sông, cửa biển. Cùng với mẹ là hệ thống thần linh làm nhiệm vụ bảo vệ, giám sát các công việc ở từng miền. Sự kết hợp khéo léo, đa dạng các thần linh trong trí tưởng tượng của con người hoặc gắn kết những anh hùng dân tộc có công dựng nước, chống giặc ngoại xâm theo hệ thống từ trên xuống dưới đều phục vụ các mẹ ở từng miền đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian đặc sắc của người Việt: Tín ngưỡng thờ Mẫu. Tuy chưa thống kê đầy đủ nhưng có thể thấy cách tôn xưng Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu có liên quan mật thiết đến tín ngưỡng Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, thể hiện ở việc các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu, ngay từ lớp Nữ thần, Mẫu thần, các vị thần đã mang các danh xưng Vương Mẫu, Quốc Mẫu như Ỷ Lan - Mẫu nghi thiên hạ, mẹ Thánh Gióng Vương Mẫu, thần núi Tam Đảo - Quốc Mẫu… nhất là ở lớp thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ mang danh xưng Mẫu, Thánh Mẫu như Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên - Đệ Nhất Thánh Mẫu, Mẫu Thượng ngàn Đệ Nhị Thánh Mẫu, Mẫu Thoải - Đệ Tam Thánh Mẫu, Mẫu Địa - Địa Tiên Thánh Mẫu… Xuất 9 phát từ cách gắn danh xưng Mẫu để tôn vinh, tôn xưng một nhân vật nữ nào đó hay để chỉ sự sinh sôi, nảy nở, sinh hóa không ngừng của vạn vật, bản thể vũ trụ dần dần đã đưa đến sự “nâng cao”, “lên khuôn” thành các vị thần đứng đầu của Đạo Tam phủ - Tứ phủ. Các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam - Tứ phủ có quan hệ mật thiết với nhau nhưng chúng không phải là đồng nhất. Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Tục thờ Mẫu thần là bước phát triển cao hơn từ tục thờ Nữ thần. Chỉ những Nữ thần nào là chủ thể của sự sinh sôi nảy nở, gắn với chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái mới được tôn vinh là Mẫu. Rõ ràng người xưa đã khoác cho tự nhiên thuộc tính nữ, mang tính sinh sản, bao bọc, che chở. Việc gắn thần linh với các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, gắn với quyền năng sáng tạo, bảo trợ cho sự sống của con người đã trở thành một trong những quy luật cho quá trình chuyển từ các Nữ thần thành các vị Thánh Mẫu với mong ước mang tới sự sinh sôi, nảy nở cho con người và vạn vật trong vũ trụ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam, nhân dân ta còn tôn thờ những bà mẹ có công sinh thành ra dân tộc, những người phụ nữ có tài dựng nước, giữ nước trong lịch sử và tôn xưng họ là Vương Mẫu, Quốc Mẫu. Nếu như thờ Mẫu thần được phát triển trên nền tảng thờ Nữ thần thì tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ có thể được coi là sự phát triển hoàn thiện của tín ngưỡng Mẫu. Trong quan niệm dân gian của người Việt, “phủ” được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đó là một lâu đài, cung điện, nơi ở của Chúa (có vị thế dưới Vua); thứ hai, đó là một vùng, miền, một không gian địa lý. Người Việt cho rằng tự nhiên có thể được chia thành bốn vùng (Tứ phủ) - phủ Thượng Thiên (vùng trời), phủ Thượng Ngàn (vùng rừng), phủ Thủy (vùng nước) và phủ Địa (vùng đất). Đứng đầu và có quyền năng cai quản bốn vùng là bốn vị 10 Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy, Mẫu Địa. Tuy nhiên, trong điện thờ chỉ có Tam tòa gồm ba vị Thánh Mẫu: Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Thủy là thường xuất hiện; Mẫu Địa rất ít gặp trong điện Mẫu nên trong một số tài liệu Mẫu Địa không được đề cập đến khi nói về Tam phủ - Tứ phủ. Cũng có cách giải thích khác về Tam phủ, Tứ phủ. Theo đó sẽ có ba phủ thuộc về ba không gian địa lý: phủ trời (đứng đầu là Mẫu Thượng Thiên), phủ rừng (đứng đầu là Mẫu Thượng Ngàn), phủ nước (đứng đầu là Mẫu Thủy) và một phủ thuộc về con người - Nhân Phủ (Mẫu Liễu Hạnh). Trong một số trường hợp, Mẫu Liễu Hạnh hóa thân vào Mẫu Thượng Thiên nên trong điện chỉ có Tam tòa nhưng thực chất lại có sự hiện diện của Tứ phủ. Vì vậy gọi là Tam phủ - Tứ phủ. Việc thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ cũng đã bước đầu hình thành một hệ thống tổ chức, thờ cúng trong các đền phủ, những nghi thức đã được chuẩn hóa như nghi lễ Lên Đồng và lễ hội “tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Có thể thấy, sự ra đời của đạo Tam phủ - Tứ phủ ở đồng bằng Bắc Bộ vào giai đoạn thế kỷ XVI là điểm hoàn tất cho một quá trình phát triển lâu dài, mang tính tất yếu của tín ngưỡng thờ Mẫu được đánh dấu bằng sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyền thuyết, Mẫu Liễu là đệ nhị tiên chủ Quỳnh Nương trên thiên đình, trong một lần dâng rượu cho vua cha do lỡ làm vỡ chén ngọc nên bị đày xuống hạ giới, đầu thai vào gia đình Lê Thái Công ở thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản dưới cái tên Giáng Tiên. Nàng kết hôn với Đào Lang con nuôi Trần Công sinh được một trai, một gái. Đột nhiên, nàng không bệnh mà mất lúc 21 tuổi. Thực ra nàng hết hạn đi đày phải về trời. Nhớ chồng, thương con, nàng xin giáng trần và được phong làm Liễu Hạnh công chúa. Sau khi cha mẹ qua đời, chồng mất, con cái trưởng thành, nàng đi chu 11 du khắp nơi. Vào làng Sóc - Nghệ An, nàng kết hôn với người chồng trước đã thác sinh và sinh được một con trai. Nàng giúp chồng thi đỗ làm quan. Sau đó nàng lại phải về trời vì hết hạn. Do nặng lòng với cuộc sống dương gian, Ngọc Hoàng lại cho nàng giáng sinh lần thứ ba xuống vùng Phố Cát - Thanh Hoá. Lần này nàng mang theo hai người hầu là Quế và Thị. Nàng hiển linh ở đâu, người lành được phúc, kẻ ác bị tai vạ… Câu chuyện về Mẫu Liễu Hạnh cho chúng ta cảm nhận hư hư thực thực, vô hình chung là sự hoài nghi về Mẫu, nói khác đi là hình tượng Mẫu Liễu mờ mờ ảo ảo, vừa đáng kính vừa đáng sợ. Đó cũng là sáng tạo thể hiện sự phát triển mang tính nội tại của tín ngưỡng thờ Mẫu, đồng thời phản ánh nhu cầu tâm linh của nhân dân và của xã hội lúc bấy giờ. Với “vị thần chủ” này, thờ Mẫu vốn là “một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, đất trời, nay được “đời thường hóa”, gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, nhất là người phụ nữ trong đời sống hằng ngày: tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, đạo Mẫu Tam phủ - Tứ phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước”[67, tr. 55-56]. Đồng thời, thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ cũng đánh dấu sự xác lập của một loại phủ rất đặc trưng đó là Phủ Trần triều - một phủ thuần tuý mang tính chất Nhân thần, là nơi thờ Đức Thánh Trần cùng với thuộc hạ của ông. Đức Thánh Trần chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người có công lớn trong việc đánh thắng sự xâm lược của giặc Nguyên Mông. Từ một vị anh hùng dân tộc, ông bước vào điện thần Tứ phủ, trở thành một vị Thánh thuộc dòng Long Vương, Bát Hải Đại Vương được đặt riêng một phủ và về hàng bậc, có lúc ông được đồng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ, ngày giỗ và lễ hội kèm theo của ông cũng đồng nhất với ngày giỗ Cha "Tháng Tám giỗ Cha" cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ ông ở Kiếp Bạc, có ngọn 12 núi xòe rộng ra ôm lấy thung lũng. Trước mặt ngôi đền là Núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy, trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên ông được coi như Ngọc Hoàng, một loại Vua Cha cao hơn cả Đức Thánh Trần. Việc khoác lên người anh hùng dân tộc hình ảnh của thần linh như với Hưng Đạo Vương chính là sự thể hiện ý thức dân tộc, lòng yêu nước đã được linh thiêng hóa trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở những biểu tượng cao nhất. Có thể thấy, với ba lớp thờ Nữ thần, Mẫu thần, Tam phủ, Tứ phủ và sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh là bước hoàn thiện, cũng là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ. Sự gắn kết giữa ba lớp thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ là một điển hình của mô hình kinh điển thờ Mẫu trong lịch sử. Đó là mối quan hệ diễn tiến theo chiều hướng phát triển của lịch sử nhưng đồng thời cũng mang tính nội tại khi có sự tương tác, sắp xếp lại của tục thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đến tục thờ Nữ Thần, Mẫu Thần. Như vậy, qua các phân tích trên đây, tín ngưỡng thờ Mẫu có thể được hiểu như sau: Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành bởi sự tích hợp các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu và thờ Tam phủ - Tứ phủ, là sự ngưỡng mộ, tôn vinh và tin tưởng với niềm tin thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của quê hương, đất nước, con người. 1.1.2. Cơ sở hình thành, phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ *Về vị trí địa - văn hóa Như ta đã biết, con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình phải thông qua quá trình tác động vào giới tự nhiên, những điều kiện địa lý, môi trường khí hậu mà họ đang sống thì họ mới có thể trở thành con người theo đúng nghĩa của nó, tức là con người sáng tạo ra các phương thức sản xuất vật chất và các hoạt động tinh thần của mình. Nói cách khác, môi trường 13 tự nhiên tạo ra thần thái, bản sắc của mỗi nền văn hóa để căn cứ vào đó con người tìm ra những phương thức sống khác nhau sao cho phù hợp, đó có thể là tập quán, lối sống, tôn giáo, tín ngưỡng, phương thức sản xuất, canh tác … Bởi vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu một loại hình tôn giáo, tín ngưỡng nào đó thì không thể không đề cập đến những điều kiện thuộc về địa - văn hóa của nơi đã sản sinh ra nó. Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh từ buổi ban đầu, đồng thời cũng là nơi khai sinh của các triều đại, các trung tâm kinh tế, là vùng văn hóa bảo lưu nhiều giá trị truyền thống trong lịch sử cũng như ở hiện tại. Vùng ĐBBB, sau hàng triệu năm hình thành và phát triển đã được kiến tạo nên bởi sông Hồng và sông Thái Bình bao gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, một phần Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc. Về vị trí địa lí vùng đồng bằng Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Về mặt địa hình, đồng bằng Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều. Trong số diện tích đất của vùng đồng bằng Bắc Bộ thì đất phù sa sông Hồng (khoảng 455.000 ha) được đánh giá là có độ phì nhiêu tốt, còn đất phù sa sông Thái Bình thì ít màu mỡ hơn, chua 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan