Trên cơ sở lý luận về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân và điều kiện địa tự nhiên, đặc điểm văn hóa của người nông dân ở xã Đông Yên. Khóa luận làm rõ thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
Kiều Thị Minh Châu
SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN,
HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
Kiều Thị Minh Châu
SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN,
HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: TS. Phạm Quỳnh Chinh
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Phạm Quỳnh Chinh. Các tài liệu, tư liệu số liệu, dẫn
chứng được sử dụng trong khóa luận là trung thực, khách quan và có nguồn
gốc rõ ràng.
Nếu có bất kỳ vấn đề gì tôi xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019
Sinh viên
Kiều Thị Minh Châu
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, trước tiên, em xin cảm ơn các Thầy,
các Cô trong khoa Triết học, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội suốt bốn năm qua đã dày công dạy dỗ, truyền đạt
cho em những kiến thức, phương pháp, kỹ năng trong việc học tập, tìm hiểu,
hoàn thiện bài khóa luận.
Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các vị cán bộ, công nhân viên công tác
tại Ủy ban nhân dân xã Đông Yên và đặc biệt là người nông dân tại xã Đông
Yên đã cung cấp tài liệu và hướng dẫn sử dụng số liệu phục vụ bài nghiên
cứu.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Phạm Quỳnh Chinh –
người Thầy vô cùng tâm huyết và tận tình đã chỉ bảo, hướng dẫn, động viên
giúp em hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này
Trong quá trình viết bài, do kiến thức của bản thân em còn hạn hẹp cho
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những
đóng góp ý kiến quý báu của Thầy, Cô để bài khóa luận của em được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019
Sinh viên
Kiều Thị Minh Châu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
NỘI DUNG..................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
ĐÔNG YÊN ............................................................................................... 12
1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa
tinh thần của người nông dân .............................................................. 12
1.1.1.
thần
Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh
................................................................................................... 12
1.1.2.
Đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam .............................. 19
1.2. Khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đời sống
văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên ............................ 24
1.2.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ............................................ 24
1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở
xã Đông Yên............................................................................................ 29
CHƯƠNG 2. SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP .............................................................. 40
2.1. Thực trạng sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông
dân xã Đông Yên hiện nay ........................................................................ 40
2.1.1. Sự biến đổi trong nhận thức, tư tưởng .......................................... 41
2.1.2. Sự biến đổi trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ. ........................................................................................................ 45
2.1.3. Sự biến đổi trong đạo đức, lối sống .............................................. 51
2.1.4. Sự biến đổi trong hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo. ............ 54
2.1.5. Sự biến đổi trong hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể thao - giải trí.
................................................................................................................. 59
2.2. Nguyên nhân và một số giải pháp phát huy tích cực, hạn chế tiêu
cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên
hiện nay. ..................................................................................................... 61
2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần
của người nông dân xã Đông Yên hiện nay ............................................ 61
1
2.2.2. Một số giải pháp phát huy tích cực và hạn chế tiêu cực trong đời
sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay ...... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 82
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH: công nghiệp hóa
HĐH: hiện đại hóa
NTM: nông thôn mới
UBND: ủy ban nhân dân
3
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước có phần lớn dân số sống và làm việc tại khu vực
nông thôn nên việc nghiên cứu về nông dân và đời sống văn hóa tinh thần của
người nông dân là một việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng. Nó sẽ góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH như hiện nay.
Đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân Việt Nam nhìn chung là
tổng hòa các hoạt động sản xuất, trao đổi và tiêu dùng các giá trị văn hóa và
cơ bản là văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước. Vì vậy, nó mang nhiều nét
hài hòa với tự nhiên nhưng cũng rất đặc sắc, phong phú. Những năm gần đây
quá trình CNH – HĐH đất nước đã thúc đẩy kinh tế và văn hóa ở các vùng
nông thôn Việt Nam tạo ra sự phát triển nhanh và mạnh, làm thay đổi mọi mặt
đời sống của người nông dân. Theo đó, các yếu tố văn hóa mới hình thành,
nét văn hóa truyền thống có nhiều biến đổi. Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh
thần của người nông dân đã có sự thay đổi vượt bậc. Tuy nhiên, do sự tác
động từ nền kinh tế thị trường và sự xâm nhập nhanh chóng của lối sống đô
thị gây ra một số tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của họ. Điều này
thể hiện rõ trong các lĩnh vực như: lĩnh vực nhận thức, lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, khoa học – công nghệ, lĩnh vực đạo đức - lối sống, lĩnh vực tôn giáo – tín
ngưỡng, lĩnh vực thể thao – giải trí,... Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu sự
biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân là một việc làm
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Đông Yên là một xã nằm phía Tây huyện Quốc Oai thuộc thành phố Hà
Nội là địa phương làm nông nghiệp truyền thống điển hình với 75% dân số
lao động chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Không nằm ngoài xu
thế phát triển chung, những năm gần đây đời sống sản xuất kinh tế của người
nông dân xã Đông Yên gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Do vậy, đời sống
vật chất của người nông dân được đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày
4
càng đa dạng. Song, bên cạnh đó còn nhiều vấn đề nảy sinh, nổi cộm trong
việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân nơi
đây. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần
của người nông dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện
nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu của tập
thể cũng như các nhà khoa học về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và sự
biến đổi trong đời sống văn hóa của người nông dân điển hình là:
Tập thể nhiều tác giả (2008) trong cuốn Nông dân, nông thôn và nông
nghiệp- những vấn đề đang đặt ra, Nxb Tri thức. Nhóm tác giả đã tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau, nghiên cứu về vấn đề tam nông. Điển hình là tác giả
Tương Lai từ cách tiếp cận xã hội học và căn cứ vào thực trạng ở vùng đồng
bằng sông Hồng nhấn mạnh các giải pháp gắn liền mục tiêu phát triển kinh tế
với phát triển xã hội. Vấn đề dân chủ cơ sở và nền tảng văn hóa nông thôn
cũng được tác giả phân tích sâu sắc. Từ cách tiếp cận kinh tế học, tác giả Đào
Thế Tuấn và Đặng Kim Sơn đã đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế
nông thôn nhằm gắn kết một cách hữu cơ giữa phát triển công nghiệp và phát
triển nông nghiệp, giữa đô thị và nông thôn, giữa bảo hộ sản xuất nông nghiệp
và hội nhập kinh tế toàn cầu...
Tác giả Đặng Kim Sơn (2008) trong Kinh nghiệm quốc tế về nông
ngiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb chính trị Quốc gia Hà
Nội. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa nhiều nước trên thế giới như Pháp, Đài Loan,
Mỹ Latinh, Nhật Bản, Trung quốc,... Tác giả đã liên hệ vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn như vai trò của
nông nghiệp trong công nghiệp hóa, vấn đề cơ cấu sản xuất, giải quyết các
vấn đề đất đai, lao động, môi trường trong quá trình CNH – HĐH đất nước.
5
Vũ Quang Hiển (chủ biên) (2013), Đảng với vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn (1930 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia. Là một trong bốn
công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề tam nông được đánh giá cao. Nội
dung cuốn sách gồm 5 chương. Trong đó chương 1, nhóm tác giả đã đề cập
đến những quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh đó
các tác giả cũng nêu rõ tình hình nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở Việt
Nam trong thời kì thuộc địa. Đến chương 2 và chương 3, các tác giả giúp
người đọc hiểu rõ những chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề nông
dân, nông nghiệp và nông thôn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) và ở miền ắc (1954-1975). Ở chương 4, nội dung chính là nêu
rõ quan điểm của Đảng về nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở miền Nam
(1954-1975). Chương 5, nhóm tác giả khép lại nội dung cuốn sách bằng vấn
đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và kh ng định
vấn đề tam nông trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự tiếp nối của lịch
sử.
Tác giả Quý Lâm - Kim Phượng (2014) trong Chính sách quốc gia về
đầu tư và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nxb Nông nghiệp.
Hai tác giả đã triển khai nội dung cuốn sách thành 9 phần. Gồm các nội dung
như, bộ tiêu chí quốc gia để đánh giá tiêu chuẩn nông thôn mới, quy chuẩn
quốc gia về quy hoạch xây dựng nông thôn mới, tiêu chí xã hội hóa giáo dục
– đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường đáp ứng yêu cầu nông
thôn mới,... Từ đó cho người đọc thấy một bức tranh đầy đủ về những chính
sách của Đảng và Nhà nước để xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nông dân.
Tập thể tác giả gồm Đặng Kim Sơn, Đỗ Liên Hương, Phạm Thị Kim
Dung, Trần Công Thắng, Võ Thị Thanh Tâm (2014) trong Đổi mới chính
sách nông nghiệp Việt Nam – bối cảnh, nhu cầu và triển vọng, Nxb chính trị
6
Quốc gia. Trình bày nội dung trong 6 chương về tình hình kinh tế nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Bên cạnh
đó, đề cập đến những cải cách, chính sách và công tác thi hành các chính sách
nông nghiệp trong thời gian qua, phân tích những thách thức và cơ hội cho
phát triển nông nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra những
đề xuất cho đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam theo hướng phát triển
bền vững.
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đời sống
văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần như:
Trần Hữu Tòng (1998), Hỏi và đáp về văn hóa làng, gia đình văn hóa,
nếp sống văn hóa, tổ chức lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội. Tác phẩm được trình bày dưới dạng hỏi đáp, giải đáp tất cả những vấn đề
có liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn
hóa và tổ chức các lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai trò tuyên truyền,
hướng dẫn mọi người hiểu được bản chất, cách thực hiện những vấn đề đã
nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Trong cuốn sách này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học, tác giả
đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù của dân
tộc Việt Nam. Cuồn sách gồm 11 chương, trong đó 3 chương đầu khái quát cơ
bản về các khái niệm giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng của
lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền thống. Từ chương 4 đến
chương 10 tác giả tập trung phân tích 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa. Cách trình bày các phạm trù có hệ thống và mang tính khoa học với ý
nghĩa như một “bảng giá trị tinh thần” của người Việt.
Trương Công Thấm, Vũ Hải (biên soạn) (2012), Xây dựng đời sống
văn hóa nông thôn mới, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội. Tác giả đã trình những
vấn đề của người nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt
7
nhấn mạnh công tác xây dựng văn hóa cấp cơ sở. Từ đó, cho đọc giả một hình
dung rõ nét về nhiệm vụ, việc làm cần thiết của các cấp chính quyền cũng như
người nông dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới.
Phạm Quỳnh Chinh (2007), Đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành hà nội hiện nay, luận văn thạc sĩ
triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Tác giả dựa
trên cơ sở lý luận về đô thị hóa và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần chỉ ra
những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến đời sống văn hóa tinh thần ở
ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành Hà Nội trước ảnh hưởng của đô thị
hóa.
Lương Thị Thu Trang (2012), Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), luận văn thạc sĩ xã hội học, trường Đại học khoa học
xã hội và nhân văn, Hà Nội. Từ những kết quả thu được từ cuộc khảo sát đời
sống văn hóa tinh thần ở xã Vũ Đoài, tác giả đã phân tích các quan điểm sống,
cách hưởng thụ văn hóa tinh thần, cách ứng xử với xã hội và sự biến đổi tâm
lý của họ trước những ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa.
Tác giả cũng đưa ra một cái nhìn tổng quan về sự khác biệt của đời sống văn
hóa tinh thần giữa các nhóm dân cư ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay đang diễn
ra như thế nào.
Lê Minh Chi (2015), Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, LVTS Triết học, Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn. Tác giả triển khai nội dung thành hai chương, ở
chương một trình bày một số vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần trong xây dựng nông thôn mới. Chương hai trình bày thực trạng và
giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới
ở Việt Nam hiện nay- qua khảo sát ở tỉnh Thanh Hóa.
8
Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu khác như: Lê Thị Anh, Ảnh
hưởng của văn hóa nước ngoài đến văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay,
Tạp chí Cộng sản số ra ngày 5/12/2013. Chu Thái Thành, Xây dựng đời sống
văn hóa mới trong mỗi cộng đồng dân cư, Tạp chí Cộng sản số ra ngày
25/1/2010. Đỗ Thị Minh Thúy, Các chính sách nhằm tăng cường nguồn lực
và phương tiện cho hoạt động văn hóa ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn
hóa số 4. Nguyễn Thị Linh Giang, Để phong trào “toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, Tạp chí cộng
sản số ra ngày 18/4/2018,...
Nhìn chung, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh
thần của người nông dân. Tuy nhiên, chưa có một bài nghiên cứu một cách hệ
thống về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở xã Đông Yên,
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Vì vậy, kế thừa những giá trị nghiên cứu
của các tác giả đi trước và dựa trên tình hình thực tế tại xã Đông Yên hiện
nay. Tác giả đã lựa chọn nghiên cứu cụ thể về những biến đổi trong đời sống
văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần. Từ đó, đưa ra những giải pháp góp phần
nâng cao chất lượng và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của
người nông dân xã Đông Yên.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh
thần của người nông dân và điều kiện địa tự nhiên, đặc điểm văn hóa của
người nông dân ở xã Đông Yên. Khóa luận làm rõ thực trạng và nguyên nhân
của sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông
Yên, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đời sống
văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay.
Nhiệm vụ:
9
Thứ nhất, đưa ra các quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa và đời sống
văn hóa tinh thần của người nông dân
Thứ hai, khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm
đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên
Thứ ba, làm rõ sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân
xã Đông Yên hiện nay
Thứ tư, phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp phát huy tích cực
và hạn chế tiêu cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã
Đông Yên hiện nay.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã
Đông Yên, Quốc Oai, Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người
nông dân xã Đông Yên từ năm 2010 đến nay.
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Khóa luận nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn
hóa, đời sống văn hóa, về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đời sống văn
hóa tinh thần của người nông dân,... Khóa luận cũng tham khảo, kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các công trình trước đây.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp – phân tích, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh,...\
10
Ý nghĩa của khóa luận
6.
Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản
và sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông
Yên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, học tập của các đề tài liên quan đến người nông dân, nông
nghiệp nông thôn và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân.
7.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN ĐÔNG YÊN
1.1.
Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa
tinh thần của người nông dân
1.1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh
thần
*Văn hóa
Văn hóa ra đời cùng với quá trình lao động, sản xuất của con người. Vì
vậy, ngay từ thời cổ đại khái niệm văn hóa đã xuất hiện và ngày càng hoàn
thiện hơn. Thời kỳ Trung quốc cổ đại “văn hóa” được hiểu là “văn trị” và
“giáo hóa”, nghĩa là dùng cái hay cái đẹp để cảm hóa, giáo dục con người,
làm cho trở nên có đạo đức hơn. Thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Khổng
Tử đã dùng thuật ngữ “hóa” nghĩa là cải biến, biến đổi và thuật ngữ “văn” có
nghĩa là những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, trong giao tiếp, ứng xử giữa
con người với con người. Từ đó, có thể hiểu văn hóa có nghĩa là sự bồi đắp,
cải biến, hướng con người đến những giá trị tốt đẹp hơn.
Văn hóa là khác biệt, văn hóa là đa dạng, văn hóa là hồn cốt của một dân
tộc. Nó là tất cả những hoạt động lao động, sáng tạo và cả những giá trị tinh
thần được sinh ra từ quá trình sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, trên nhiều lĩnh vực, nó liên quan đến mọi mặt
đời sống vật chất, đời sống tinh thần của con người và xã hội. Vì vậy, khái
niệm về văn hóa được tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong tác phẩm Những cơ sở triết học của thời đại - cội nguồn của thế kỷ XX
Sapovalop đã nhận định rằng văn hóa là một khái niệm không thích hợp với
những loại định nghĩa chỉ có một định nghĩa.
12
Tại Hội nghị liên chính phủ về chính sách văn hóa tại Venise năm 1970,
F. Mayor nguyên tổng giám đốc UNESCO cho rằng: Văn hóa là “tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong
quá khứ và hiện tại” [46, 798]. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành trên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu- những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Còn nhà dân tộc văn hóa Anh E.
.
Taylor cho rằng: “Văn hóa hoặc văn minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm
trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực
thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là mọt thành viên của xã
hội”[46, 798]
Chủ nghĩa Mác - Lênin khi đề cập đến vấn đề văn hóa cho rằng con
người chính là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Theo nghĩa đó văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn, văn hóa là sự biểu
hiện năng lực bản chất con người. Quá trình nghiên cứu quy luật phát triển
của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát quá trình hoạt động
xã hội cơ bản của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần, xét theo hình thái giá trị thì tương ứng với văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con
người được kết tinh trong các sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là những
sản phẩm lao động trí óc của con người được sáng tạo trong quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Đó là tổng thể các tư tưởng, lý luận và các giá trị
được sáng tạo trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người
được biểu hiện dưới dạng các hiện tượng tinh thần. Văn hóa tinh thần bao
gồm các giá trị trong hoạt động giáo dục, tư tưởng, tôn giáo, lễ hội,… mối
quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh là người đầu tiên đưa ra khái niệm
về văn hóa (năm 1938). Ông cho rằng: “văn hóa là chỉ những học thuật tư
tưởng. Có lẽ gì văn hóa của các dân tộc lại khác nhau đến thế? Vì rằng cách
13
sinh hoạt của các dân tộc không giống nhau. Chính vì những điều kiện tự
nhiên về địa lí khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho
nên cách sinh hoạt cũng khác nhau vậy”. Ông còn kh ng định “nghiên cứu
xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của một dân tộc nay
chuyển biến thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy vậy” [1;
10, 11]. Như vậy, tác giả Đào Duy Anh quan niệm dựa trên những điều kiện
khác nhau sẽ tạo nên nền văn hóa không giống nhau.
Kế thừa tất cả những quan điểm đó, trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao vị trí, vai trò của văn
hóa. Năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng đã xác định văn hóa
là một trong ba mặt trận quan trọng của đất nước đồng hành cùng kinh tế và
chính trị. Đến Nghị Quyết Trung Ương 5, khóa VIII (1998) của Đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
lần đầu tiên văn hóa được đề cập đến trên phạm vi rộng lớn. Ngoài văn học,
nghệ thuật còn có cả môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng đạo đức, lối
sống, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông
tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc
thiểu số, chính sách văn hóa đối với tôn giáo, hoàn thiện thể chế văn hóa,…
Từ đó Đảng cộng sản Việt Nam đi đến kết luận: văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Quan điểm này cho thấy góc độ tiếp cận văn hóa ở bề sâu bởi có những
giá trị do chính nó tạo nên. Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân cùng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Kh ng định những nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống và loại
dần những yếu tố không phù hợp nhằm tạo nên những điểm hợp lý cho nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện đổi mới của đất nước.
Tính đến nay, có hàng trăm ngàn định nghĩa về văn hóa, các định nghĩa
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất khi cho rằng:
Văn hóa là một dấu ấn đặc trưng cho xã hội loài người, khác về cơ bản với tổ
14
chức của xã hội động vật. Mọi văn hóa đều được hình thành và phát triển từ
các hoạt động lao động, sáng tạo của con người trong toàn bộ tiến trình lịch
sử của các dân tộc và toàn thể nhân loại. Văn hóa chỉ có ở con người và đó là
quá trình sáng tạo đặc trưng của con người, do con người và vì con người.
Văn hóa thường được phân chia thành hai dạng là văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tuy
nhiên, cách chia này chỉ mang tính tương đối. Trong một số trường hợp văn
hóa vật chất là dạng tồn tại, thể hiện, chất chứa trong nó các giá trị văn hóa
tinh thần, những giá trị thẩm mỹ, tốt đẹp mang đậm cá tính của người sáng
tạo ra các giá trị tinh thần dưới cái vỏ bọc của vật chất, ẩn chứa trong các sản
phẩm của văn hóa vật chất.
Kế thừa tất cả những quan điểm trên và dựa trên góc độ nghiên cứu của
chủ nghĩa xã hội khoa học, trong phạm vi của khóa luận, tác giả đồng tình với
quan điểm của Hồ Chí Minh khi kh ng định “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn” [29; 431]. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là một cái nhìn toàn
diện và sâu sắc về nguồn gốc, phạm vi và sự biểu hiện của văn hóa trong toàn
bộ đời sống sinh hoạt của con người. Nguồn gốc của văn hóa là do lẽ sinh tồn
và mục đích sống của con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải
tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người có được là cơ sở để hình thành
văn hóa. Với sự khắc nghiệt của môi trường tự nhiên và tính quy luật nghiêm
khắc của môi trường xã hội buộc con người phải có sự sáng tạo, phải lao động
để tạo ra các giá trị văn hóa sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc.
15
*Đời sống văn hóa
Từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX, trong các công trình nghiên cứu về
văn hóa cụm từ “Đời sống văn hóa” được sử dụng tương đối rộng rãi. Tiền
thân của cụm từ này là cụm từ “Đời sống mới”. Đây là tiêu đề của bài viết
dưới dạng hỏi - đáp của tác giả Tân Sinh - một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được công bố vào năm 1947. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhân
dân ta vùng lên làm cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh đuổi thực
dân Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân,
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (mồng 2 tháng 9 năm 1945).
Đây cũng là lúc cụm từ “Đời sống mới” xuất hiện trong văn kiện đường lối
của Đảng. Sau khi giành chính quyền nhân dân ta bắt tay vào xây dựng sự
nghiệp kiến quốc. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hóa lúc bấy giờ là diệt giặc
dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, diệt giặc đói, cổ
vũ tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng,
chỉnh đốn sửa đổi lề thói sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà,
mỗi làng bản, mỗi đơn vị. Những nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo của Đảng
lần đầu tiên được thực hiện dưới chính quyền nhân dân còn non trẻ. Trong
suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc chưa từng có những nhiệm vụ
nào như vậy cho nên gọi là xây dựng “Đời sống mới”.
Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta lúc bấy giờ còn thấp, hơn
90% người dân mù chữ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay
cho từ “văn hóa” để cho dân dễ hiểu về xây đựng đời sống văn hóa. Cụm từ
“đời sống văn hóa” xuất hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng IV (1976) đoạn
viết: “Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hóa ở các vùng kinh tế mới,
các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở miền núi,
hải đảo” [15]. Cho đến Đại hội V (1982) Đảng ta đã xác định rõ hơn nhiệm
vụ xây dựng đời sống văn hóa và đặc biệt nhấn mạnh đời sống văn hóa ở cơ
sở, coi đó là chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược xây dựng văn hóa
và con người: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn
16
- Xem thêm -