Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sơn mài bình dương - chất liệu và nghệ thuật thể hiện...

Tài liệu Sơn mài bình dương - chất liệu và nghệ thuật thể hiện

.PDF
234
604
120

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Nguyễn Văn Minh SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG CHẤT LIỆU VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội – 2013 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Nguyễn Văn Minh SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG CHẤT LIỆU VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 62 21 20 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS. NGUYỄN LƯƠNG TIỂU BẠCH 2. TS. TRỊNH DŨNG Hà Nội – 2013 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ: Sơn mài Bình Dương-chất liệu và nghệ thuật thể hiện là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng Tác giả luận án Nguyễn Văn Minh năm 2013 3 MỤC LỤC Lời cam đoan 1 Mục lục 2 Danh mục các chữ viết tắt 3 MỞ ĐẦU 4 Chương 1: SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG TRONG BỐI CẢNH SƠN MÀI VIỆT NAM 1.1. Giới thuyết khái niệm 15 1.2. Khái quát lịch sử nghề sơn và nghệ thuật sơn mài Việt Nam 23 1.2.1. Giai đoạn từ thời tiền sử đến năm 1858 23 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1985 30 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay (2012) 35 1.3. Nhận diện sơn mài truyền thống Việt Nam 38 1.3.1. Các loại hình sơn mài truyền thống 38 1.3.2. Mối quan hệ giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện trong sơn mài VN 45 Tiểu kết chương 1 52 Chương 2: NGHỆ THUẬT SƠN MÀI ỨNG DỤNG BÌNH DƯƠNG 2.1. Lịch sử sơn mài Bình Dương 54 2.1.1. Vài nét về vùng đất, con người Bình Dương 54 2.1.2. Tiến trình hình thành và phát triển nghề sơn mài và làng nghề…. 57 2.1.3. Làng nghề sơn mài Bình Dương 69 2.2. Chất liệu sơn mài Bình Dương 72 2.2.1. Các loại chất liệu 72 2.2.2. Quy trình xử lý chất liệu 75 2.3. Nghệ thuật thể hiện 88 Tiểu kết chương 2 96 Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT SƠN MÀI BD 3.1. Những giá trị của nghệ thuật sơn mài Bình Dương 99 3.1.1. Giá trị kinh tế, văn hóa và xã hội 99 3.1.2. Giá trị thẩm mỹ 103 3.2. Bảo tồn và phát huy các giá trị của nghệ thuật sơn mài BD 117 3.2.1. Một số định hướng phát triển sơn mài ứng dụng Bình Dương 117 3.3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của nghệ thuật sơn mài BD 123 Tiểu kết chương 3 141 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 143 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO 151 PHỤ LỤC 161 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN 1. BD : Bình Dương 2. CN : Công nguyên 3. H. : Hình 4. HN : Hà Nội 5. Hs. : Họa sĩ 6. NCNT : Nghiên cứu nghệ thuật 7. Nxb : Nhà xuất bản 8. PL : Phụ lục 9. Tc. : Tạp chí 10. TDM : Thủ Dầu Một 11. Tk : Thế kỷ 12. Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh 13. tr. : Trang 14. VH : Văn hóa 15. VHDG : Văn hóa dân gian 16. VHNT : Văn hóa nghệ thuật 17. VN : Việt Nam 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, khi nói đến mỹ thuật VN, đồ sơn và nghệ thuật sơn mài được xem như là một trong những loại hình truyền thống, mang đậm nét văn hóa dân tộc, luôn được thế giới quan tâm. Đồ sơn đã xuất hiện từ rất sớm và lưu truyền qua nhiều thế hệ, ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Phú Thọ, Hà Nam, Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định đến Quảng Bình, Thuận Hóa... và đặc biệt là Bình Dương, nơi tập trung nhiều thợ sơn giỏi và phát triển mạnh nghề sơn mài ở phía Nam. Với lịch sử phát triển gần ba trăm năm, nghề sơn mài trên đất BD được xem là vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc văn hóa của địa phương. Nó kế thừa đồ sơn và sơn mài cổ truyền, vừa phát huy những giá trị nghệ thuật của dân tộc, vừa tiếp cận với các xu hướng mỹ thuật hiện đại, nên đã sớm định hình và ghi dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển vùng đất. Đất nước ta, giống như các nước trong khu vực, có kho tàng văn hóa quý báu, đó là hàng trăm nghề thủ công truyền thống với hàng ngàn chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú, đóng góp tích cực cho văn hóa tiêu dùng trong quá khứ cũng như hiện tại. Song, hiện nay lối sống đô thị, hiện đại đang làm cho một bộ phận người dân VN giảm đi ý thức tiêu dùng những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, một số khác có xu hướng sùng bái hàng ngoại nhập với các chất liệu mới... Sơn mài truyền thống cũng dần bị mai một và không còn nhiều tác phẩm đỉnh cao, có kỹ thuật chế tác tinh xảo cũng như sự phong phú trong kiểu dáng của mỗi sản phẩm. Với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm và tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Người ta chạy theo thị hiếu khách hàng cùng sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta”, dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém chất lượng có mặt ở khắp các cửa hàng, nhà sách, 6 văn hóa phẩm và cả các phòng triển lãm... Từ đó, bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật truyền thống là cổ hủ và một loạt sản phẩm, tranh sơn phủ bạc, dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản xuất hiện, làm cho vàng thau lẫn lộn. Từ những năm 1990, một lớp họa sĩ trẻ đã và đang tiếp tục tìm tòi về chất liệu và ngôn ngữ nghệ thuật sơn mài. Trên bề mặt các sáng tác của họ có gắn cả xi măng, sỏi đá và mảnh cổ vật... để thể hiện ý tưởng và tạo ấn tượng mới lạ. Như vậy có phải là một bức tranh sơn mài hay không? Hay tranh sơn mài “hiện đại” đã đánh mất giá trị truyền thống? Tình hình trên đã ít nhiều ảnh hưởng và tác động đến chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài BD. Một trong những hiện trạng nổi bật nhất đó là bên cạnh sơn ta còn có sự hiện diện của sơn Nhật, sơn điều và các loại sơn công nghiệp khác cùng với kỹ thuật sơn phủ bóng, cán láng bề mặt, tạo nên sự thay đổi triệt để trong công nghệ chế tác đồ sơn truyền thống… Đây chính là một thách thức lớn đối với các họa sĩ, nghệ nhân, những doanh nghiệp, cơ sở sơn mài phải tìm hướng đi cho mình trước sự khác biệt ngày càng nhiều giữa các sản phẩm cũ và mới! Để gìn giữ, lưu truyền và phát triển nghệ thuật sơn mài Bình Dương trong xu thế hội nhập hiện nay, luận án Sơn mài Bình Dương-chất liệu và nghệ thuật thể hiện được thực hiện nhằm đóng góp nhận thức về sự hình thành và phát triển, về các giá trị của sơn mài ứng dụng Bình Dương. Đồng thời, giúp các nhà quản lý, nhà doanh nghiệp và người làm nghề sơn nâng cao hơn ý thức giữ gìn, trân trọng nghề sơn mài trong bối cảnh đời sống xã hội và nghê thuật có nhiều chuyển biến, cũng như rút ra những bài học hữu ích cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị nghệ thuật của sơn mài Bình Dương. Bản thân là người được đào tạo về sơn mài và giảng dạy chuyên khoa sơn mài ở Trường Đại học Mỹ thuật Tp.HCM, nghiên cứu sinh mong muốn thực hiện đề tài này để đóng góp nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa 7 chất liệu và nghệ thuật thể hiện, về vai trò của chất liệu trong sự phát triển của mỹ thuật đương đại. Từ đó, giúp cho nghiên cứu sinh có cách nhìn và phương pháp chuẩn mực hơn, sâu sắc hơn trong nghiên cứu, sáng tác và giảng dạy. 2. Tình hình nghiên cứu Về nghề sơn, đồ sơn cổ truyền và sơn mài Việt Nam Theo sách Hải Dương cảnh chí, phần truyện Trần Ứng Long, cho thấy rằng, ngay từ đầu thời Đinh (giữa Tk X), chất liệu sơn đã được dùng để trát thuyền phục vụ chiến đấu. Còn Dư địa chí của Nguyễn Trãi, điều thứ XX có ghi: “Huyện Sơn Vi có trĩ trắng, sơn, tơ” [74, tr.56-58]. Trong quyển Nghề sơn cổ truyền Việt Nam của Lê Huyên, tác giả đã trình bày, thống kê một cách khoa học và đầy đủ về nguồn gốc nghề sơn, về kỹ thuật, về loại hình và chức năng của đồ sơn Tk XVII-XIX ở đồng bằng Bắc Bộ. Phần lịch sử nghiên cứu, cùng với nhiều tài liệu khác, có đề cập đến một số quyển sách như: Bình Vọng Trần thị gia phả, viết ở thời Lê, nói về ông tổ nghề sơn làng Bình Vọng, huyện Thường Tín là Trần Lư, sinh năm Canh Dần (1476), đỗ Đồng Tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1502). Quyển Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, có nói đến một số quy định dùng màu sơn trên kiệu đối với tôn thất là các quan Tướng quốc thời Trần, hoặc dùng nón sơn đỏ đối với quân Cấm vệ thời Lê... Quyển Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, vào thời Tống (Trung Quốc) cũng có nói về kiệu “Đinh giai” sơn đen mát và đẹp của VN đã được dùng làm đồ cống nạp cho phương Bắc và rất được ưa chuộng [44, tr.16-18], [52, tr.29-33], [74, tr.56-63], [110, tr.953-1007]. Các học giả và các nhà buôn người Pháp cũng có viết đôi điều về đồ sơn VN Tk XVIII như: William Dampier trong cuốn Một chuyến đi Đàng Ngoài có nhắc đến việc dùng sơn làm kiệu, làm quan tài và làm mũ (nón) thời Tây Sơn; Những cây sơn ở Đông Dương của Ch. Crevost và cuốn Sơn và dầu sơn Bắc Bộ, Trung Quốc và Nhật Bản của Mountier ghi chép khá sâu về cây 8 sơn, về chế biến nhựa sơn ở VN đầu Tk XX. Tuy nhiên, các sách này không nhắc tới đồ sơn ở những thế kỷ trước đó [44]. Những phát hiện khảo cổ học qua các báo cáo, các tư liệu trong các Viện Khảo cổ học, Viện Bảo tàng lịch sử, Viện Bảo tàng mỹ thuật, Viện Mỹ thuật… Một số bài viết của các nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu sơn mài về những di vật đồ sơn trong các di tích đình, chùa, đền, miếu, trong các bảo tàng và trong nhân dân… là nguồn tài liệu giúp tìm hiểu vấn đề về nguồn gốc đồ sơn trên đất nước ta. Một số nhà nghiên cứu văn hóa có đề cập đến nghề sơn trong các công trình của mình như Nghề cổ nước Việt của Vũ Từ Trang [95], Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam của Bùi Văn Vượng [110]. Các giới thiệu này đã khái lược những nét chung nhất về nghề sơn cùng với các nghề thủ công truyền thống khác. Kỷ yếu hội thảo Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam [100], là quyển sách tập hợp một số tham luận và ý kiến chuyên ngành của các nghệ nhân, họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật tại hội thảo khoa học do Viện Mỹ thuật (thuộc Trường Đại học Mỹ thuật VN) tổ chức tại HN ngày 14 tháng 4 năm 1999. Nội dung bao gồm các phần về lý luận cơ bản chung của nghề sơn và đồ sơn, về kỹ thuật truyền thống, về sơn mài mỹ nghệ và sơn mài mỹ thuật, cũng như phần đào tạo và chuyển giao công nghệ truyền thống cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, hai công trình: Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây, luận án tiến sĩ Văn hóa học của Nguyễn Xuân Nghị [65] và Làng nghề sơn quang Cát Đằng xưa và nay của Nguyễn Lan Hương [41] là các công trình nghiên cứu chuyên sâu, có giá trị khoa học về quá trình hình thành và phát triển, về những đặc trưng giá trị của nghề sơn quang ở làng nghề truyền thống Cát Đằng và nghề sơn ở các làng nghề truyền thống tỉnh Hà Tây (Hà Nội ngày nay). 9 Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết, nghiên cứu, khảo luận và giới thiệu về đồ sơn và sơn mài ứng dụng của các họa sĩ, nhà nghiên cứu như: “Đồ sơn cổ truyền” của Du Chi và Hoài Linh [52]; “Sơn quang dầu-một loại hình mỹ thuật trang trí dân gian cần được phục hồi phát triển” của Lê Quốc Lộc [55]; Sơn mài Việt Nam của Nguyễn Đăng Quang [77]; “Thủ công mỹ nghệ có còn là một bộ phận của mỹ thuật?” của Vũ Hy Thiều [84]; “Cần quan tâm đến các nghề thủ công truyền thống” của Vũ Huy Thiều [85]; “Về ngành nghề sơn mài và sơn quang dầu của ta” của Nguyễn Đức Cường [18]; “Cụ phó Thành với nghề sơn mài” của Nguyễn Xuân Nghị [64]; v.v… Những bài viết trên đã khẳng định giá trị tinh thần và ứng dụng của nghề sơn truyền thống như là một bộ phận không thể thiếu của mỹ thuật nước nhà, vừa phục vụ nhu cầu thẩm mỹ vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng trong đời sống hàng ngày, cần phải được quan tâm gìn giữ và phát triển. Đặc biệt, về nghệ thuật sơn mài VN có các công trình nghiên cứu tổng hợp của Nguyễn Quang Phòng trong quyển Các họa sĩ Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương [73]; Quang Việt trong quyển Hội họa sơn mài Việt Nam [106] và một số bài viết gần đây của ông trên Tạp chí Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật VN, đã giới thiệu chi tiết về lịch sử nghề sơn, sự ra đời và phát triển của hội họa sơn mài VN qua các trích dẫn tư liệu nước ngoài, các nhân chứng, đối chiếu và bình chú hết sức sâu sắc. Về kỹ thuật có sách Kỹ thuật sơn mài [19] của Phạm Đức Cường; Kỹ thuật sơn của Nguyễn Văn Lộc [56], giới thiệu đầy đủ các quy trình, phương pháp thể hiện từ việc đánh sơn, làm cốt vóc đến thể hiện màu sắc, phủ toát, ủ và đánh bóng… Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết, trao đổi trên các báo, tạp chí chuyên ngành như “Nét độc đáo của tranh sơn mài” của Nguyễn Quang Hải [31]; “Sơn mài cổ truyền qua bút pháp hiện đại” của Lê Hiểu [37]; “Về khả năng diễn tả của sơn mài Việt Nam” của Lê Kim Mỹ [62]; “Về bước phát triển của tranh sơn mài” của Sỹ Ngọc [68]; “Chất liệu sơn ta và giá trị của nó trong hội họa” của Nguyễn Vinh Phúc [74]; “Sơn mài 10 hiện đại Việt Nam-một chặng đường nhìn lại” của Hoàng Đình Tài [81]; “Tranh sơn mài Việt Nam” của Trần Đình Thọ [88]; “Giữ vững tính truyền thống, phát huy cái đẹp trong nghệ thuật sơn mài hiện đại Việt Nam”[89] và “Họa sĩ Nguyễn Gia Trí với sơn mài và nghệ thuật tranh sơn mài của ông” của Trần Thức [90]; “Đôi nét về tiến trình phát triển của tranh sơn mài Việt Nam” của Đặng Thanh Vân [105]; “Sơn mài” của Tô Ngọc Vân [104]; v.v… đã nhận định, phân tích và tổng hợp về các tác giả, tác phẩm của một giai đoạn sáng tác, về tiến trình phát triển của tranh sơn mài cũng như vai trò, khả năng diễn tả của chất liệu sơn mài, trình bày những đúc kết kinh nghiệm và những thành quả, những nét đặc trưng trong nghệ thuật thể hiện mang tính truyền thống của nghệ thuật hội họa sơn mài VN. Về sơn mài Bình Dương Có nhiều công trình nghiên cứu, khảo luận, bài viết… đã xuất bản hoặc đăng rải rác trên các báo, tạp chí và sách như: Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức [27], có mô tả về cảnh sinh hoạt, làm đồ sơn của cư dân BD xưa ở làng Tương Bình Hiệp, Địa chí Bình Dương [7], Địa chí Sông Bé [23], Thủ Dầu Một-Bình Dương 300 năm hình thành và phát triển [80], Thủ Dầu Một-Bình Dương đất lành chim đậu [82], trong phần mỹ thuật có giới thiệu về nghề sơn mài nhưng ở dạng tổng quát lịch sử hình thành chung với các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khác như gốm, điêu khắc gỗ… nhưng chưa phân tích sâu các yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật. Sơn mài Bình Dương vận dụng kỹ thuật truyền thống trong sáng tác nghệ thuật của Thái Kim Điền [25] và Mỹ thuật Bình Dương xưa và nay [36] là hai công trình nghiên cứu khá sâu về kỹ thuật chuyên môn. Nhưng do giới hạn đề tài nên chưa nghiên cứu toàn diện về nghề sơn mài BD trong quá trình tiến triển của lịch sử có những đặc điểm kỹ thuật và nghệ thuật riêng. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của một số nhà nghiên cứu như: Cao Xuân Phách, Huỳnh Ngọc Trảng… và các phóng viên trong cả nước, đã được 11 đăng rải rác trên các báo Bình Dương, Phụ nữ, Thanh niên, Tuổi trẻ…, các tạp chí Xưa và Nay, tạp chí Mỹ thuật, một số trang web: www.thuvienbinhduong.org.vn/; http://www.baobinhduong.org.vn; v.v… Nội dung giới thiệu về làng nghề Tương Bình Hiệp, về nét đẹp sơn mài BD… Tài liệu nước ngoài có bài viết “Art et technique de la laque au Vietnam” đăng trong tạp chí của Viện Pháp tại Sài gòn (Institut Français de Saigon) số 7-15, tháng 1 năm 1974, có đề cập đến giá trị ứng dụng của chất liệu sơn ta và sự hình thành nghề sơn ở VN, đặc biệt từ năm 1940 với sự phát triển mạnh của sơn mài mỹ nghệ tại TDM [119]. Nhìn chung, tuy các bài viết, các bài nghiên cứu không hoàn toàn đề cập trực tiếp đến đề tài nghiên cứu hay chỉ đề cập đến khía cạnh tổng quát hoặc một phần của đề tài nhưng đó là những tư liệu quý, có giá trị khoa học, gợi mở cho tác giả luận án nghiên cứu về đặc điểm, tiến trình hình thành nghề sơn và các giá trị nghệ thuật sơn mài BD trong bối cảnh sơn mài truyền thống VN. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tổng quan về đồ sơn và nghệ thuật sơn mài VN, để thấy được tiến trình hình thành và phát triển sơn mài BD trên nền tảng của sơn mài truyền thống VN. Nghiên cứu nghệ thuật sơn mài BD, qua đó, khẳng định những thành tựu, giá trị nghệ thuật và đóng góp của các nghệ nhân, họa sĩ đối với sự phát triển vượt bậc của nghề sơn mài, đặc biệt là loại hình sơn mài ứng dụng. Qua nghiên cứu chất liệu và nghệ thuật thể hiện sơn mài BD, tổng hợp và đúc kết các giá trị thẩm mỹ để làm cơ sở đưa ra các yếu tố hợp lý, cần thiết trong việc thể nghiệm và sử dụng chất liệu và xây dựng tiêu chí các loại sản phẩm sơn mài. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng phát triển của sơn mài ứng dụng BD. Từ đó, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị nghệ thuật của 12 nó, sự cần thiết xây dựng các chiến lược củng cố làng nghề, doanh nghiệp, hiệp hội sơn mài và nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Luận án chọn loại hình sơn mài làm đối tượng nghiên cứu chính và tập trung vào chất liệu, kỹ thuật chế tác và nghệ thuật thể hiện của sơn mài BD. Những thành tựu nghệ thuật và nét đẹp truyền thống mà sơn mài BD đã đạt được trong một thế kỷ qua, nhất là từ những năm 1940 đến nay, ở mảng sơn mài ứng dụng. Phạm vi nghiên cứu Sơn mài là thể loại tạo hình bao trùm trong các lĩnh vực trang trí, ứng dụng và nghệ thuật, mang tính cộng đồng xã hội, tôn giáo... Trong luận án phạm vi nghiên cứu chủ yếu là quá trình hình thành và phát triển, những đặc trưng về chất liệu và nghệ thuật của sơn mài ứng dụng BD. Tác giả dành trọn chương hai để nghiên cứu về nghệ thuật sơn mài ứng dụng. Về thời gian, luận án tập trung tìm hiểu sơn mài BD từ đầu Tk XX đến nay (2013), được nhìn theo từng thời điểm lịch sử để bảo đảm tính liên tục trong nghiên cứu quá trình phát triển có những đặc điểm và kế thừa riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án phân tích và nhận định các vấn đề trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Luận án thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử mỹ thuật nên phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học có vai trò chủ đạo. Đặc biệt là sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, mô phỏng các tác phẩm, sản phẩm thông qua việc tham khảo các bài viết, các nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với các họa sĩ, nghệ nhân, nhà nghiên cứu mỹ thuật trong nước và nước ngoài để khai thác nguồn tài liệu. Đề tài được thực hiện trên cơ sở khảo sát điền dã, 13 qua đó tổng hợp, đánh giá rút ra những giá trị cơ bản, những đặc trưng chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài BD. Tác giả còn sử dụng phương pháp dựa trên thành tựu của các ngành khoa học có liên quan như phương pháp tiếp cận liên ngành (sử học, văn hóa học, xã hội học, dân tộc học, triết học, mỹ thuật học… ) để nghiên cứu một cách tổng quát mối quan hệ biện chứng giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện, giữa sơn mài ứng dụng và sơn mài hội họa, nhằm giải quyết các vấn đề mỹ thuật ứng dụng nói chung và sơn mài BD nói riêng một cách căn bản theo quy luật phát triển của lịch sử, văn hóa, xã hội VN. 6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống lý luận tổng hợp về lịch sử hình thành nghề sơn và nghệ thuật sơn mài BD trong tiến trình phát triển của sơn mài truyền thống VN. Luận án đã chứng minh và lý giải: sự phong phú và đa dạng về chủng loại, thể loại và đề tài của sơn mài ứng dụng BD trong nền kinh tế thị trường là tích hợp của nhiều yếu tố mang giá trị truyền thống. Giá trị đó chính là bệ đỡ đảm bảo cho sơn mài BD phát triển theo hướng hiện đại với xu hướng thẩm mỹ-ứng dụng có tính nghệ thuật cao. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế của sơn mài ứng dụng BD trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Sơn mài BD có những cái chung với các vùng khác, nhưng cũng có những đặc trưng của địa phương, góp phần vào kho tàng văn hóa dân tộc. Luận án bổ sung vào nguồn tư liệu tham khảo, nghiên cứu chung cho chuyên ngành và là nguồn tài liệu cho quá trình biên soạn giáo trình, bài giảng, chuyên đề về sơn mài. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận và kiến nghị (7 trang), tài liệu 14 tham khảo (10 trang), phụ lục (66 trang), phần nội dung chính của luận án được chia ra làm ba chương theo trình tự như sau: Chương I: Sơn mài Bình Dương trong bối cảnh sơn mài Việt Nam (40 trang). Chương II: Nghệ thuật sơn mài ứng dụng Bình Dương (44 trang). Chương III: Bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật sơn mài Bình Dương (43 trang). 15 Chương 1 SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG TRONG BỐI CẢNH SƠN MÀI VIỆT NAM 1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Chất liệu Sách Tự điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, cho biết quan niệm về chất liệu như sau: Chất liệu là vật chất, phương tiện chủ yếu mà người ta dùng để thể hiện một tác phẩm nghệ thuật. Ví dụ: sơn dầu, lụa, sơn mài, màu nước, bột màu, chì, mực nho, giấy dó… (trong hội họa); đất nung, thạch cao, đồng, đá, gỗ… (trong điêu khắc). Vật chất được đặt trong tác phẩm chính là chất liệu xây dựng nên tác phẩm đó [63, tr.40]. David A. Lauer và Stephen Pentak thì cho rằng “có hai dạng chất liệu: chất liệu xúc giác và chất liệu thị giác” [116, tr.158]. Chất liệu xúc giác là tên gọi ám chỉ các dạng vật liệu nghệ sĩ sử dụng để thể hiện tác phẩm mà ta có thể tiếp xúc bề mặt của chúng trực tiếp. Còn chất liệu thị giác để chỉ các hình thức diễn tả chất của bề mặt vật thể bằng sáng tối, đậm nhạt trên mặt phẳng, không gian mà ta hoàn toàn có thể cảm nhận được bằng thị giác chứ không thể tiếp xúc trực tiếp bằng xúc giác. Như vậy, chất liệu vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm trừu tượng. Cụ thể khi ta hiểu chất liệu là vật chất, là cái hữu hình, cái có thể sờ được, thấy được và trừu tượng khi chất liệu là cảm giác về chất, là cái vô hình, hay nói cách khác, là xúc cảm về chất liệu thông qua nghệ thuật thể hiện của người nghệ sĩ. Chất liệu tạo hình không những gây ấn tượng hấp dẫn người xem bởi tính vật lý của nó, mà còn tạo nên sự say mê lắng đọng trong lòng người xem bằng ngôn ngữ biểu cảm riêng của từng chất liệu. “Nếu hiểu chất (matière) là lớp biểu bì màu (épiderme coloré) của bức tranh thì nó phải được hiện ra trong hiệu quả điều hòa của hình và sắc. Kết cấu (texture), ở khía cạnh nào 16 đó, cũng vậy” [106, tr.40]. Do đó, mối quan hệ tương tác ở hai mặt lý tính và cảm tính này đòi hỏi phải được đặt ra khi nghiên cứu về chất liệu. 1.1.1.1. Sơn ta Theo Tự điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, sơn ta là “nhựa của cây sơn, mọc nhiều ở vùng rừng núi trung du nước ta-nhất là vùng Phú Thọ. Cây sơn ta từ lâu đã được trồng theo quy hoạch. Nhựa cây sơn được chế để dùng nhiều trong nghệ thuật tạo hình, mỹ nghệ, công nghệ và xuất khẩu. Sơn ta không giống sơn tây. Sơn tây được làm bằng hóa chất, pha lỏng, có nhiều màu, đựng trong hộp và thường dùng để sơn lên gỗ, kim loại, nhằm trang trí hoặc để chống gỉ, chống ẩm, chống mối mọt…”[63, tr.130-132]. Sơn ta có tên khoa học là Rhus Succdanea, có đặc tính cao trong độ kết dính, giãn nở, chịu các yếu tố nhiệt, ẩm, axít, mài mòn… Nhờ các đặc tính này khi chuyển sang các loại sơn chín như cánh gián, then cho hiệu quả trong trẻo, sâu thẳm, có độ bóng cao, có khả năng diễn tả trong hội họa. 1.1.1.2. Sơn Nam Vang Là loại sơn được khai thác ở vùng Nam Vang (Phnom Penh, Campuchia), cây sơn ở đây có tên khoa học là Malanorrhera. Nhựa sơn Nam Vang đậm và đặc hơn sơn ta nhưng các đặc tính lý hóa và thời gian khô đều không tốt bằng sơn ta. “Thời chiến tranh chống Mỹ, do đất nước bị chia cắt nên các làng nghề sơn mài ở phía Nam không có sơn ta chuyển vào phải dùng sơn Nam Vang là chính. Hiện nay do giá thành hạ, người ta vẫn dùng sơn Nam Vang trộn với sơn ta theo tỷ lệ nhất định làm sản phẩm” [100, tr.37]. 1.1.1.3. Sơn Nhật Còn gọi là Polycite, gồm hai loại sơn cánh gián và sơn đen, có nguồn gốc từ sơn thảo mộc được chiết xuất độc tố bằng phương pháp công nghiệp và sản xuất hàng loạt. Sơn Nhật có ưu điểm khô nhanh tự nhiên dưới ánh sáng mặt trời, dễ sử dụng, pha trộn được với tất cả các màu, có độ bóng đẹp, trong suốt nhưng độ dai, khả năng chịu nhiệt, độ sâu của màu… đều không thể sánh 17 bằng sơn ta. Theo một số họa sĩ, nhà nghiên cứu cho rằng “Có thể xuất xứ của sơn Nhật chính là cuộc hợp tác của các chuyên gia sơn mài Nhật Bản với xưởng mỹ nghệ Quốc gia của ta vào các năm 1965-1972. Khi đó xưởng đang sơ tán ở Thanh Trì, Hà Nội đã cung cấp loại sơn tốt nhất ở vùng Phú Thọ cho họ, từ nguyên liệu sơn sống các chuyên gia đã tách axít và một số tạp chất ra khỏi sơn, sau đó mới tinh luyện theo phương pháp công nghiệp để thành loại sơn kể trên” [100, tr.37] 1.1.1.4. Sơn điều Là loại sơn được tổng hợp từ dầu vỏ hạt điều, có tên khoa học là Polycashew, cũng gồm hai loại sơn cánh gián và sơn đen. Cánh gián có màu đỏ hơn sơn ta, màu đen lại bợt hơn, tuy nhiên nó giống sơn Nhật là khô tự nhiên, pha được với tất cả các màu, đặc biệt sơn điều cho độ mọng cái tốt, giá thành rất rẻ. Chính vì vậy khi phục chế hoặc gia công đồ mỹ nghệ, để giảm giá thành xuống mức thấp nhất các nghệ nhân không tránh khỏi phải dùng sơn điều làm vật liệu chủ yếu, cho dù chất lượng sơn điều kém hiệu quả hơn so với sơn ta và sơn Nhật. 1.1.2. Sơn mài Theo Đại từ điển tiếng Việt, “sơn mài là chất liệu hội họa, chế từ nhựa sơn, trong và bóng, dùng để vẽ tranh” hay còn gọi tắt là “tranh sơn mài”. Còn “sơn son thếp vàng là phủ sơn đỏ, dát vàng ở ngoài (thuộc loại đồ đạc quý, sang trọng thời xưa)” [12, tr.1463]. Qua chặng đường phát triển từ đồ sơn cổ truyền đến sơn mài nghệ thuật, nghề làm sơn của ông cha ta đều được gọi là “sơn ta”. Nói là sơn ta để phân biệt với loại sơn tổng hợp của Pháp và các nước du nhập vào nước ta dùng cho sơn nhà, sơn cửa, gọi chung là “sơn Tây”. Sơn ta bao gồm toàn bộ kỹ thuật làm sơn, có khâu nhựa sơn cần pha dầu trẩu, có khâu cần phải pha nhựa thông, nhưng nước sơn áo cuối cùng vẫn là loại sơn pha dầu trẩu, sơn phủ bên ngoài, nên còn được gọi là sơn quang dầu. Những hàng mỹ nghệ như: 18 tráp, quả, lẳng, thúng, cơi trầu… đều làm bằng chất sơn quang dầu. Mặt hàng dân dụng này khi được trang trí toàn bằng nét vẽ thếp bạc phủ sơn quang dầu thì được đặt tên là hàng nét. Còn các loại tượng thờ làm bằng gỗ mít không phủ sơn quang, khâu cuối cùng là sơn thếp-thếp vàng, bạc quỳ. Vào trước năm 1930, người ta chỉ dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng, làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này, một số họa sĩ VN đầu tiên đang học trường mỹ thuật Đông Dương, đã cùng với các nghệ nhân, kiên trì tìm tòi, thể nghiệm kỹ thuật dùng sơn sống có pha nhựa thông để tạo ra sơn cánh gián, cho khả năng mài và đánh bóng được. Từ đó kỹ thuật làm sơn mài được nhiều nghệ nhân, họa sĩ áp dụng và họ đặt luôn cái tên kỹ thuật đó là “sơn mài” (nhưng người Pháp không dùng thuật ngữ này mà vẫn gọi là “la laque”là chất sơn có nguồn gốc thảo mộc để phân biệt với “la gomme laque” hoặc “stick-laque”-là chất sơn công nghiệp được pha chế từ côn trùng; hay “le laque”-chỉ chất sơn đen và sơn son của Trung Quốc) [119, tr.5]. Trên thế giới chữ “lacquer” chỉ chung các đồ dùng phủ sơn, chúng gồm các đồ thủ công mỹ nghệ có tính trang trí cao, cốt nền (phần bên trong) thường bằng gỗ, mùn cưa ép, hay mây tre đan, bên ngoài phủ sơn… Còn cái mà ta gọi là sơn mài thì thêm hẳn một bước là mài, nếu không mài, không thành… sơn mài (mà còn mài đi mài lại)… thường chỉ dùng cho tranh sơn mài VN. Trong từ “lacquer painting” nay đã được dùng rất phổ biến, lại không chứa từ mài này, thành ra người ta “đánh đồng” với nhau. Trên thực tế, làm nghề sơn (thủ công mỹ nghệ) và tranh sơn mài (hội họa sơn mài) khác nhau khá nhiều cả về công đoạn lẫn vật liệu, cách thực hiện. Ở trong ngành phân biệt rất rõ cái gì là đồ sơn mỹ nghệ và đâu là tranh sơn mài. Mọi người vẫn dùng chữ “lacquer painting” để chỉ tranh sơn mài. Trong các trường mỹ thuật, nói đến chữ này, người ta nghĩ đến tranh sơn mài, nhưng ở bên ngoài thì khái niệm “tranh sơn mài” được “ám chỉ” rộng hơn rất nhiều. 19 Như vậy, sơn mài là một chất liệu mỹ thuật để chỉ các tác phẩm hội họa sơn mài, nhưng từ lâu do thói quen trong dân gian và trong cả các làng sơn truyền thống, người ta thường gọi chung các sản phẩm có sử dụng sơn ta là “sơn mài”. Do đối tượng nghiên cứu của luận án khá rộng nên chúng tôi tạm sử dụng thuật ngữ sơn mài cho các dạng kỹ thuật và loại hình sản phẩm, tác phẩm có sử dụng sơn ta như: sơn mài mỹ nghệ (sơn mài ứng dụng), sơn mài nhẵn (phẳng), sơn mài đắp nổi… 1.1.3. Hội họa sơn mài Thuật ngữ chỉ các hoạt động sáng tạo hội họa (tranh vẽ) bằng chất liệu sơn ta, phủ dày và mài vẽ. Đây là những tác phẩm biểu đạt tư tưởng và tình cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống xã hội, thông qua ngôn ngữ tạo hình và phương thức diễn tả, tái tạo thế giới khách quan bằng các hình tượng điển hình mang tính kinh viện, bao gồm: khả năng biểu cảm, sự diễn đạt và yếu tố thẩm mỹ. Hội họa sơn mài được xem là một ngành của mỹ thuật tạo hình và được thể hiện thông qua nhiều thể loại như: sơn mài phẳng, sơn mài đắp nổi, sơn khắc… Sơn mài phẳng: xuất phát từ kỹ thuật vẽ lặn (vẽ chìm), nhiều lớp, sau đó mài phẳng để tạo các hiệu ứng bề mặt, cuối cùng là đánh bóng bằng tay với bột than (bột chu). Đây là kỹ thuật khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm. Mặt tranh luôn phẳng nhưng vẫn đảm bảo được quy trình khắt khe qua nhiều công đoạn từ gắn vỏ trứng đến nét đen, từ thể hiện màu sắc đến cách xử lý vàng, bạc… từ mài vẽ đến đánh bóng. Dạng tranh sơn mài phẳng này đã và đang được rất nhiều họa sĩ, nghệ nhân tuân thủ trong quá trình sáng tác và thao tác. Sơn mài đắp nổi: dựa trên khả năng kết hợp cao của chất liệu sơn ta với các chất liệu khác, sơn mài đắp nổi là dạng sơn mài cho phép tạo nền tranh bằng cách pha trộn sơn ta với bột đất theo một tỷ lệ nhất định để đắp nổi các chi tiết trong tranh theo nguyên tắc của nghệ thuật chạm nổi hoặc tạo độ cao
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất