Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học So sánh thi pháp truyện thơ tum tiêu của dân tộc khơme campuchia với vượt biển c...

Tài liệu So sánh thi pháp truyện thơ tum tiêu của dân tộc khơme campuchia với vượt biển của dân tộc tày ở việt nam tt

.PDF
27
411
68

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CÙ THỊ ÁNH NGỌC SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂN CỦA DÂN TỘC TÀY Ở VIỆT NAM Ngành: Lí luận văn học Mã số: 9.22.01.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2018 Công trình được hoàn thành tại : HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học : GS.TS Nguyễn Đức Ninh Phản biện 1: GS.TS Lê Chí Quế Phản biện 2: PGS.TS Trương Đăng Dung Phản biện 3 : PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Vào hồi….. giờ, ngày …. Tháng…. năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại : - Thư viện Quốc gia Việt nam - Thư viện Học viện Khoa học Xã hội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Truyện thơ là một thể loại phát triển phong phú và có thành tựu trong văn học Đông Nam Á. Truyện thơ không thuộc loại hình văn học nói - kể mà thuộc loại hình hát - kể, nghĩa là cốt truyện tự sự được truyền đạt bằng phương thức dân ca. Và như thế, truyện thơ các cư dân vùng Đông Nam Á ra đời, có vai trò, vị trí và tác động sâu sắc tới đời sống văn hóa cũng như trong tiến trình lịch sử phát triển văn học các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. 1.2. Tum Tiêu là một tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu đánh dấu chặng đường phát triển quan trọng của văn học và chứa đựng nội dung xã hội, lịch sử của đất nước Campuchia. Khảm hải (Vượt biển) là một truyện thơ dân gian nổi tiếng của người Tày ở vùng núi phía Bắc. Với giá trị phản ánh sâu sắc trong từng tác phẩm thì cả hai đã được các nhà nghiên cứu chú trọng khai thác những giá trị của từng văn bản, nhưng chưa sử dụng văn học so sánh để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt về mặt thi pháp truyện thơ Tum tiêu của người Khơme Campuchia với Vượt biển của người Tày ở Việt Nam. So sánh văn học giữa các quốc gia hay liên quốc gia sẽ bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học riêng lẻ từng quốc gia vốn vẫn tồn tại từ trước đến nay ở Việt Nam. 1.3. Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, nhân dân hai nước là anh em gắn bó. Việc nghiên cứu văn học các nước trong khu vực Đông Nam Á còn có ý nghĩa làm thay đổi nhận thức của giới văn nghệ và văn học của Việt Nam vốn: “chỉ quen thuộc những chủ nhân từ phương xa - vốn xa lạ với chúng ta trên nhiều phương diện, trong khi đó chúng ta lại rất lạ với người bà con ở ngay bên cạnh - vốn rất gần gũi, có quan hệ gắn bó về mọi mặt với chúng ta trong cộng đồng khu vực mà chúng ta là một thành viên” [102; 3]. Vì vậy, nghiên cứu văn học Campuchia vừa có ý nghĩa củng cố tình hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam Campuchia vừa có đóng góp vào sự phát triển chung của khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Để góp phần khai thác các giá trị văn hóa và văn học trong sự tương đồng, khác biệt của truyện thơ hai nước chúng tôi chọn So sánh thi pháp truyện thơ Tum tiêu của dân tộc Khơme Campuchia với Vượt Biển của dân tộc Tày ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu của mình. Đây là việc làm vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn. Nghiên cứu văn học Campuchia song hành với văn học Việt Nam còn góp phần mở rộng hơn về mối quan hệ văn hóa - văn học giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Từ đó, những vấn đề của văn học Việt Nam cũng sẽ được làm sáng tỏ, thuyết phục hơn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích: Luận án đi sâu nghiên cứu để tìm ra những đặc điểm thi pháp của Tum Tiêu, Vượt biển và so sánh thi pháp của những tác phẩm đó để thấy tư duy nghệ thuật, mĩ cảm, tâm lí, tính cách của người Khơme và người Tày ở hai quốc gia Campuchia và Việt Nam. 1 2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là phân tích các khía cạnh, các bình diện thi pháp của hai tác phẩm Tum Tiêu, Vượt biển, xem xét môi trường văn hóa, lịch sử của các tác phẩm để có thể tiến hành so sánh loại hình truyện thơ Khơme và truyện thơ Tày. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản truyện thơ Tum Tiêu của người Khơme Campuchia, các văn bản truyện thơ Vượt biển của người Tày Việt Nam để nghiên cứu thi pháp các tác phẩm đó và tiến hành so sánh thi pháp của chúng trên các bình diện: cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi văn bản: Chúng tôi chủ yếu dùng văn bản Tum Tiêu theo bản dịch của Phùng Huy Thịnh (Nxb Khoa học Xã hội, 2000). Còn Vượt biển (Khảm hải) chúng tôi chọn văn bản do Hoàng Hạc sưu tầm và giới thiệu in trong cuốn Truyện thơ Tày - Nùng, tập 2 (Nxb Văn học, 1964). Phạm vi nghiên cứu: Khi nghiên cứu thi pháp truyện thơ có những bình diện khác nhau. Ở luận án này, chúng tôi giới hạn sử dụng chủ yếu phương pháp so sánh song song để tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp vừa nêu trong hai tác phẩm này. 4. Phương pháp nghiên cứu Ở luận án này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp tiếp cận thi pháp học, Phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành, Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích, tổng hợp, Phương pháp so sánh song song. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về so sánh thi pháp truyện thơ Tum Tiêu của người Khơme ở Campuchia với Vượt biển của người Tày ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu căn cứ vào quá trình hình thành sẽ làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp: cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật của hai tác phẩm thuộc hai tộc người của hai đất nước khác nhau. Thông qua sự phân tích, so sánh này để tiến tới giải mã các mã văn hóa từ không gian văn hóa, từ chỗ tải đạo đến tải đời. Đặc biệt, luận án đưa ra được những kết luận có tính chất khái quát về sự sáng tạo độc đáo của các tác giả trong từng bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt biển: Xây dựng thành công cốt truyện tự sự trữ tình với mô hình cấu trúc “kết thúc bi kịch” đã phá vỡ kiểu mô hình vòng tròn khép kín của “kết thúc có hậu” để tạo nên một kiểu kết thúc mở và việc chọn cách kết thúc cốt truyện đúng như thực tế sự việc đã diễn ra; Kiểu nhân vật có ngoại hình, tính cách và tâm lí duy mĩ, duy tình dám bẻ lái số phận bằng cách chọn cái chết để giữ lòng thủy chung trong tình yêu và sự tinh khiết trong tâm hồn; Mô hình không gian - thời gian gắn liền với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và truyền tải được các giá trị văn hóa của con người trong đời sống khi cùng sinh tụ trên một 2 khu vực địa lí. Qua đó, hai tác phẩm còn khơi dậy những khoái cảm thẩm mĩ và làm sáng tỏ bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của họ. Đồng thời, nó còn góp phần làm phong phú và đa dạng hơn trong thể loại truyện thơ Campuchia và Việt Nam. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.2. Ý nghĩa lí luận: 1) Chúng tôi giới thuyết cụ thể một cách hệ thống diễn trình vận động của lí thuyết: thi pháp và thi pháp học lịch sử; văn học so sánh và so sánh song song; thi pháp truyện thơ và truyện thơ Đông Nam Á thông qua các công trình tiêu biểu của các đại diện quan trọng. Một số công trình nghiên cứu ứng dụng được xem là có tính chất hệ thống khi nghiên cứu thi pháp học lịch sử và thi pháp truyện thơ: 2) Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh song song để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt biển. Qua đó, luận án sẽ góp phần làm phong phú hơn lí luận về thể loại truyện thơ; 3) Hơn nữa, việc luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu song song để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt biển còn góp phần quan trọng vào tìm hiểu quá trình biến đổi và tiếp nối trong nghiên cứu lí thuyết thi pháp truyện thơ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Từ luận án này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần bổ sung cho việc nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số của Việt Nam, Campuchia và các dân tộc trong khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, luận án còn là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho các giảng viên, giáo viên, học sinh các trường; những người có nhu cầu tìm hiểu truyện thơ của người Khơme Campuchia và người Tày ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành 04 chương: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài Chương 3: Những điểm tương đồng của hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển Chương 4: Những điểm khác biệt của hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện thơ ở Việt Nam và nước ngoài 1.1.1. Một số vấn đề lí luận về truyện thơ Ở Việt Nam có ba khái niệm “truyện thơ”, “truyện Nôm” và “truyện thơ Nôm”. Để hiểu một cách cụ thể về khái niệm “truyện thơ” chúng tôi sẽ tìm hiểu từ khái niệm về “truyện thơ Nôm” một thể loại tương đối hoàn chỉnh trong nền văn học truyền thống của Việt Nam. Nhìn nhận một cách tổng quát, truyện Nôm tuy có từ xa xưa nhưng khái niệm và thuật ngữ “truyện Nôm” đã được các học giả cụ thể hóa thông qua các công trình tiêu biểu như: Việt Nam văn học sử yếu 3 của Dương Quảng Hàm, Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại của Kiều Thu Hoạch; Quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại trong văn học Việt Nam và một số nước Đông Nam Á của Đức Ninh... Theo chúng tôi thì “truyện Nôm” là để nói về tác phẩm tự sự ở Việt Nam viết bằng các loại chữ Nôm (Nôm Việt, Nôm Tày…) dưới hình thức văn vần hoặc văn xuôi. Còn “truyện thơ Nôm” chỉ để nói về một loại tác phẩm tự sự ở Việt Nam, viết bằng thơ (của tác giả khuyết danh hoặc có tên), văn tự là chữ Nôm các loại, chủ yếu xuất hiện ở Việt Nam trong các thế kỉ XVIII, XIX. Và “truyện thơ” là để phân biệt đây là hình thức tự sự bằng văn vần khác với hình thức tự sự bằng văn xuôi, thuộc cả dân gian lẫn văn học viết. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu lí luận truyện thơ ở Việt Nam Như chúng tôi đã trình bày ở Việt Nam có ba khái niệm “truyện thơ”, “truyện Nôm” và “truyện thơ Nôm”. Truyện thơ chủ yếu nói về các tác phẩm của các dân tộc ít người ở Việt Nam (như truyện thơ Mường, truyện thơ Tày - Nùng, truyện thơ Thái). Để làm rõ tình hình nghiên cứu lí luận về truyện thơ (truyện thơ Tày) ở Việt Nam một cách chính xác và khoa học còn là một thách thức lớn. Hầu hết các học giả đều quan tâm đến nghiên cứu truyện thơ từ góc độ văn học như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của Phan Đăng Nhật (1981), Văn học dân gian các dân tộc ít người của Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian do Vũ Anh Tuấn chủ biên (2012)… 1.1.3. Tình hình nghiên cứu lí luận truyện thơ ở nước ngoài Việc nghiên cứu truyện thơ đã bắt đầu từ các nhà nghiên cứu văn học Nga vào những năm 50 của thế kỉ XX. Truyện thơ đã được nhiều học giả nước ngoài quan tâm chủ yếu theo hướng nghiên cứu từ góc độ văn học với các công trình của Niculin. N.I Văn học Việt Nam trong đó ông có hẳn chuyên đề nghiên cứu về Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương (1972), Những vấn đề văn học và mĩ học của Bakhtin. M (1975). Văn học Nga cổ và thời hiện đại của Likhachốp. D.X (1978) Sự phát triển của truyền thống trong văn học dân gian... 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển 1.2.1. Hướng nghiên cứu Tum Tiêu và Vượt biển từ góc độ văn học 1.2.1.1. Hướng nghiên cứu Tum Tiêu từ góc độ văn học: Điều đáng chú ý là, trong quá trình chứng minh cho sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và nghệ thuật ở góc độ nghiên cứu văn học của Tum Tiêu thì những phát hiện tinh tế về kết cấu cốt truyện, nhân vật tuy mới chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát, song sẽ là những ý kiến quí báu cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài như: Vũ Tuyết Loan, trong cuốn Riêm kê và Tum Tiêu trong văn học Campuchia (1992), Đỗ Thu hà trong cuốn Văn học khu vực Đông Nam Á (2000)… 1.2.1.2. Hướng nghiên cứu Vượt biển ở góc độ văn học: Về cơ bản các nghiên cứu đều nên nhận định khái quát về nội dung và nghệ thuật của Vượt biển như: công trình Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của Phan Đặng Nhật (1981); Văn học dân gian các dân tộc ít người của Võ Quang Nhơn (1983)... Nhưng 4 chưa có một công trình nào đi sâu phân tích một cách chi tiết những vấn đề về từng bình diện thi pháp của Vượt biển và so sánh những bình diện thi pháp này với truyện thơ Tum Tiêu. Dựa trên những ý kiến đánh giá của những công trình đi trước sẽ là nguồn tài liệu quí báu để chúng tôi có thể lấp đầy khoảng trống này. 1.2.2. Hướng nghiên cứu Tum Tiêu và Vượt biển từ góc độ tôn giáo 1.2.2.1. Hướng nghiên cứu Tum Tiêu từ góc độ tôn giáo: Quan điểm này được thể hiện trong công trình Tìm hiểu lịch sử văn hóa Campuchia của Vũ Tuyết Loan (1994, tập 2) có bài viết Ảnh hưởng của Phật giáo vào văn học Campuchia. Đồng quan điểm với tác giả Vũ Tuyết Loan trong công trình Văn học so sánh - lí luận và ứng dụng, có bài viết Suy nghĩ về vai trò của văn học dân gian trong văn học Đông Nam Á lục địa của Phan Ngọc (2001). Quan điểm này còn được thể hiện trong tập bài giảng chuyên đề Truyện thơ Đông Nam Á của Trần Thúc Việt (2011). Có thể nói, những ý kiến về Tum Tiêu được soi chiếu từ góc độ tôn giáo sẽ là những gợi ý cho chúng tôi nghiên cứu về cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm. 1.2.2.2. Hướng nghiên cứu Vượt biển từ góc độ tôn giáo: Quan điểm này được thể hiện rõ trong nhưng công trình của Dương Kim Bội, Lê Chí Quế… Những ý kiến, đánh giá của các nhà nghiên cứu khi khai thác các giá trị mà Vượt biển mang lại ở góc độ tôn giáo bản địa. Những ý kiến trên đã cung cấp cho chúng tôi những kiến thức nền tảng để chúng tôi nghiên cứu vấn đề của mình. Trên cơ sở tìm hiểu lí luận truyện thơ, tìm hiểu việc nghiên cứu truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển, chúng tôi nhận thấy: hầu hết các tác giả đã nhận ra tầm quan trọng và tầm ảnh hưởng của hai tác phẩm này trong nền văn học dân tộc và vị trí của nó trong lòng thể loại văn học Đông Nam Á. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu Tum Tiêu và Vượt biển, có thể khẳng định, những công trình nghiên cứu truyện thơ ở nước ngoài, nghiên cứu Tum Tiêu ở Campuchia và Vượt biển ở Việt Nam cho chúng ta thấy cái nhìn tổng thể về tình hình nghiên cứu lí luận truyện thơ nói chung và hai tác phẩm này ở hai quốc gia nói riêng. Chúng tôi rút ra những nhận xét, đánh giá như sau: Một, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài chủ yếu tập trung nghiên cứu đặc trưng nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ, quan điểm nghệ thuật của Bôtum Mắthê Xôm và tác giả dân gian Tày, các thủ pháp nghệ thuật ở một số bình diện khác nhau để làm nổi bật, ở Tum Tiêu là: Tình yêu tự do cá nhân và tố cáo xã hội phong kiến quân chủ chuyên chế khắc nghiệt; Hệ tư tưởng và giáo lí Phật giáo khuyên răn con người. Còn Vượt biển là: Phản kháng chế độ bất công trong xã hội Tày cổ; Vấn đề tôn giáo kết hợp với loại hình diễn xướng Then. Hai, một số công trình nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu cách thức tổ chức nghệ thuật tác phẩm ở hai cấp độ, cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật (cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật…). Tuy nhiên, vấn đề này mới được thực hiện và khai thác với 5 tư cách là “phương tiện” để làm nổi bật nội dung của tác phẩm, cụ thể: 1) Về cốt truyện thì các yếu tố nghệ thuật tổ chức cốt truyện mới chỉ nghiên cứu ở phương diện tóm tắt và tìm hiểu nội dung câu chuyện trên cơ sở phân tích nội dung và nghệ thuật chưa khai thác sâu những yếu tố tự sự và trữ tình và cấu trúc mô hình “kết thúc bi kịch”. Đặc biệt là kiểu cốt truyện tâm lí, cốt truyện lồng trong truyện với các biểu tượng và thủ pháp nghệ thuật thì chưa được đề cập đến. Vì thế, các công trình nghiên cứu chưa làm nổi bật được cách thức tổ chức cốt truyện độc đáo gắn với từng kiểu mô hình “kết thúc bi kịch” thể hiện trong Tum Tiêu và Vượt biển; 2) Về nghệ thuật xây dựng nhân vật đã được các nhà nghiên cứu chú ý ít nhiều nhưng mới chỉ dừng lại ở một số thủ pháp kĩ thuật xây dựng nhân vật mà chưa chú ý đến việc xây dựng một hệ thống nhân vật từ tiểu sử đến các mối quan hệ xung quanh với tất cả chiều sâu và chiều rộng của nội dung tác phẩm để thấy nhân vật thoát khỏi kiểu nhân vật chức năng hướng đến kiểu nhân vật loại hình với mô hình nhân vật tâm lí duy mĩ, duy tình trong dòng chảy của văn học, văn hóa Campuchia và Việt Nam; 3) Về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật các nhà nghiên cứu cũng nói đến nhưng còn ở mức độ khái quát, chung chung chưa đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chưa nói rõ không gian và thời gian cụ thể và ảnh hưởng của những yếu tố nào chi phối tới nó và môi trường sống của nó trong đời sống sinh hoạt của con người trong nền văn hóa chung của đất nước Campuchia và Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu thành tựu của những tác giả đi trước chúng tôi thấy còn thiếu vắng nghiên cứu so sánh thi pháp hai truyện thơ Tum Tiêu của người Khơme Campuchia với Vượt biển của người Tày ở Việt Nam một cách hệ thống. Nhưng đây là một đề tài đề cập tới rất nhiều lĩnh vực: 1) Lí luận văn học; 2) Văn học dân gian; 3) Văn học nước ngoài. Điều này đòi hỏi chúng tôi phải thu lượm, nghiên cứu ở các thư viện khác nhau, phải đi đến thực địa nơi cư chú của người Tày, người Khơme sống vùng Tây Nam Bộ của Việt Nam, người Khơme của Campuchia nhất là nơi xuất xứ của câu chuyện để tìm hiểu phong tục, tập quán, lối sống… của họ. Vì vậy, chúng tôi sẽ triển khai nghiên cứu so sánh thi pháp hai truyện thơ này theo hướng sử dụng lí luận của thi pháp học lịch sử và văn học so sánh để tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt của các bình diện thi pháp đã nêu trong hai tác phẩm. CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Trước khi so sánh thi pháp truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển, cần phải khái quát hóa vấn đề thi pháp học, thi pháp lịch sử, so sánh song song, thi pháp truyện thơ và quá trình hình thành văn bản của hai truyện thơ này làm cơ sở lí thuyết cho đề tài nghiên cứu. 2.1. Thi pháp và thi pháp học lịch sử 2.1.1. Thi pháp học Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học mạnh mẽ của thế kỉ XX. So với thi pháp thì thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp, là cái có sau. 6 Chính vì “thi pháp” có nội hàm rộng chứa đựng trong nó nội hàm vừa là văn học vừa là quá trình văn học. Xét về phương pháp tiếp cận, thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu: 1) Thi pháp học đại cương; 2) Thi pháp học chuyên biệt; 3) Thi pháp học lịch sử. 2.1.2. Thi pháp học lịch sử Thi pháp học lịch sử được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm như Trần Nho Thìn, Đỗ Lai Thúy, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Kính, Huỳnh Như Phương... Theo chúng tôi, có thể hiểu thi pháp học lịch sử là lĩnh vực nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các hình thức văn học, bắt đầu từ các thủ pháp ẩn dụ, ví von, vần điệu cho đến các thể loại, các phạm trù văn học như không gian, thời gian nghệ thuật, các hệ thống nghệ thuật như trào lưu, phong cách và cả bản thân văn học như một loại hình nghệ thuật bằng phương pháp so sánh lịch sử nhằm vạch ra các đặc điểm chung của các hệ thống văn học thuộc các nền văn hóa khác nhau, xác định cội nguồn của chúng cũng như các qui luật chung của ý thức văn học nhân loại. 2.2. Văn học so sánh và so sánh song song 2.2.1. Văn học so sánh Then chốt trong sinh mệnh và sức sống của văn học so sánh là ở chỗ phát triển các cá nhân và các cộng đồng người ngày một trở nên “người” hơn, ngày càng tiến lên đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn, những giá trị nhân văn xứng đáng với danh hiệu con người và đạo lí làm người. 2.2.2. So sánh song song Nghiên cứu so sánh song song là dùng phương thức suy luận lôgích để nghiên cứu hai nền văn học dân tộc, hoặc hai nền văn học dân tộc trở lên mà giữa chúng không có quan hệ trực tiếp. Đồng thời nó còn chú trọng đến tính văn học của đối tượng, chú trọng so sánh chủ đề, thể tài, thể loại văn học, hình tượng nhân vật, đặc điểm phong cách... 2.3. Thi pháp truyện thơ và truyện thơ Đông Nam Á 2.3.1. Khái niệm thi pháp truyện thơ Cũng giống như các thể loại khác trong văn học dân gian thì “truyện thơ ra đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại nó” [151; 401]. Lúc bấy giờ trong xã hội các dân tộc thiểu số xuất hiện nhiều mâu thuẫn đối kháng và đẩy người dân vào bế tắc, tuyệt vọng. Khi xem xét thi pháp truyện thơ có nghĩa là xem xét thế giới cảm xúc thẩm mĩ và tư tưởng, cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật... 2.3.2. Đặc trưng của thi pháp truyện thơ Đặc điểm nổi bật của truyện thơ là tính lưỡng thể, tức là có sự kết hợp nhuần nhị giữa thể truyện và thơ, giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình, giữa văn học nói và văn học viết, giữa tính dân gian và tính bác học. Ngoài ra đặc trưng của thi pháp truyện thơ còn được xem xét trên nhiều bình diện khác như: thể thơ, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật… 2.3.3. Thể loại truyện thơ Đông Nam Á. 7 2.3.3.1. Thể loại mang tính loại hình trong văn học: Truyện thơ bắt nguồn từ văn học dân gian, với tư cách là những thể loại, chúng tạo thành một bộ phận đặc biệt tiêu biểu cho thi ca Việt Nam. Có thể thấy, truyện thơ phát triển đến đỉnh cao, với số lượng rất lớn và tác động sâu sắc vào đời sống văn hóa khu vực. 2.3.3.2. Thể loại phát triển phong phú trong đời sống: Sự yêu thích của người dân Đông Nam Á đối với thể loại truyện thơ đã tạo cơ sơ cho thể loại này liên tục phát triển tăng dần về số lượng và nhiều tác phẩm trở thành kiệt tác, đỉnh cao của nền văn học dân tộc ở khu vực này. Điều độc đáo cho đến nay, hầu hết các tác phẩm đỉnh cao, các kiệt tác văn học cổ điển ở các quốc gia Đông Nam Á là các truyện thơ. Bởi vậy, chúng ta có thể khẳng định vị trí, vai trò và giá trị phản ánh của truyện thơ. 2.4. Sự hình thành văn bản hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển Về mặt lí thuyết các nhà lí luận phân biệt có: Văn học dân gian và Văn học thành văn. Ở Việt Nam có một thực tế, ít nhất vào khoảng thế kỉ XV có các ông như Vũ Quỳnh, Kiều Phú đã ghi lại các truyện cổ tích trong Lĩnh Nam trích quoái. Sau này, chúng ta biết các truyện cổ tích chủ yếu qua Vũ Quỳnh, Kiều Phú, còn trong dân kể thì rất khó xác định. Những người từ 70 tuổi trở xuống biết văn học dân gian qua những cuốn như: Tục ngữ ca dao - dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956) và Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi (1958) có thể chứng minh được điều ấy. Căn cứ vào điều này, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể về sự giống nhau trong quá trình hình thành của hai tác phẩm trên. 2.4.1. Sự hình thành truyện thơ Tum Tiêu 2.4.1.1. Nguồn gốc văn bản: Cho đến thế kỉ XX câu chuyện này tồn tại bốn văn bản khác nhau. Ngoài các văn bản kể trên truyện Tum Tiêu còn tồn tại dưới dạng hát kể trong cung đình. Điều này liên quan đến cả vấn đề tiếp nhận văn học. Căn cứ vào những luận chứng trên về nguồn gốc ra đời của Tum Tiêu, chúng tôi chọn văn bản của Đại Đức Bôtum Mắtthê Xôm làm tài liệu nghiên cứu chính vì: 1) Văn bản này có tên tác giả rõ ràng, được tác giả “nhuận sắc” thành công hơn so với những văn bản trước đó. Đặc biệt nó còn có thêm phần phần thuyết giảng răn dậy của tác giả. Nó có tác động tích cực khi khuyên răn những đôi bạn trẻ nên có những cách ứng xử khéo léo trong tình yêu và cuộc sống. 2) Văn bản này được Viện Phật học Phnôm Pênh xuất bản lần đầu tiên vào năm 1915 và đã in đến lần thứ tám vào năm 1972, được đánh dấu khổ thơ từ 01 đến 1.051, gồm 4.024 câu; 3) Tác phẩm này được Bộ giáo dục của đất nước Campuchia lựa chọn đưa vào dạy trong chương trình phổ thông. 2.4.1.2. Tác giả văn bản: Nói về tác giả của truyện Tum Tiêu đầu tiên phải kể đến XonThẹ Mốc (1846 - 1908). Truyện thơ Tum Tiêu được ông viết vào thế kỉ XIX. Sau đó nhà sư Xôm là người có công rất lớn biên soạn Tum Tiêu. Vì vậy, tác phẩm này đã được nâng cao giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 8 2.4.1.3. Nội dung văn bản Tum Tiêu: Câu chuyện kể về mối tình ngang trái của đôi nam nữ bình dân người Khơme. Và kết thúc câu chuyện bằng cái chết của nhân vật chính. 2.4.2. Sự hình thành truyện thơ Vượt biển 2.4.2.1. Nguồn gốc văn bản: Vượt biển tiếng Tày là Khảm hải có nguồn gốc ban đầu là một chương trong hệ thống những bài hát Then trong sinh hoạt nghi lễ dân gian của người Tày. Nhưng khi mạnh dạn đưa nó thoát khỏi màn khói nhang kì ảo thì nó lại trở thành một tác phẩm văn học đích thực mang nội dung hiện thực sâu sắc. 2.4.2.2. Nội dung văn bản: Câu chuyện kể về hai cuộc đời của nhân vật Sa dạ Sa dồng bị áp bức ở cả chốn mường Người và mường ma đến mức cùng quẫn không lối thoát. 2.4.2.3. Công tác sưu tầm và biên dịch truyện thơ Vượt biển: Truyện thơ Vượt biển phổ biến của dân tộc Tày các tỉnh miền núi phía Bắc. Với nội dung mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc nên nó được các nhà nghiên cứu quan tâm và họ tiến hành sưu tầm từ những năm 60 của thế kỉ XX như Hoàng Hạc, Nông Minh Châu, Dương Kim Bội, Lục Văn Pảo; Vi Hồng, Hoàng Kế Quang… 2.4.2.4. Vượt biển - truyện thơ tự sự trữ tình: Nhìn từ góc độ thể loại, Vượt biển được các nhà nghiên cứu văn học dân gian xếp vào những nhóm truyện thơ khác nhau. Nhưng chúng tôi lựa chọn: 1) Khẳng định Vượt biển là một truyện thơ chúng tôi theo quan điểm về khái niệm truyện thơ của Nguyễn Xuân Kính; 2) Vượt biển là truyện thơ tự sự trữ tình thuộc nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian theo quan điểm của Võ Quang Nhơn; 3) Vượt biển được sống động và uyển chuyển trong không gian sinh hoạt diễn xướng theo quan điểm của Lê Chí Quế. Bởi vậy, trong luận án này chúng tôi chọn văn bản Vượt biển của Hoàng Hạc sưu tầm và biên soạn có 249 câu thơ được in trong tuyển tập Truyện thơ Tày - Nùng (Nxb Văn học, tập 2, 1964). Vì nó đã hội tụ đầy đủ những yếu tố trên. Hơn nữa, văn bản Vượt biển do Hoàng Hạc sưu tầm và biên soạn còn đảm bảo các yếu tố sau: 1) Đây là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh đảm bảo đầy đủ yếu tố của một truyện thơ thuộc nhóm truyện thơ sinh hoạt gắn với nghi lễ dân gian. Hơn nữa, trong truyện thơ Vượt biển đã kết hợp đến mức nhuần nhị hai yếu tố: tự sự của truyện cổ dân gian với cốt truyện rõ ràng, nhân vật cụ thể, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật... và trữ tình của thơ ca dân gian đó là âm hưởng của những làn điệu Sli - Lượn; 2) Khi biên soạn lại Vượt biển các nhà sưu tầm trong đó có Hoàng Hạc vẫn giữa được phần dân gian là cốt truyện nói về cuộc sống của những người nghèo khổ không có tên ở chốn mường người. Sang thế giới mường ma các nhân vật đều phải vượt qua mười hai rán nước. Nhưng trong bản Vượt biển của Hoàng Hạc có dấu ấn của tác giả. Khi biên soạn lại ông đã đặt tên, kể tỉ mỉ về nguồn gốc, lai lịch của các nhân vật chính khi sống ở chốn mường người. Các tác giả khác không nói lên các điều đó. Khi sang chốn mường ma thì ông đã đặt tên nhân vật cụ thể là Sa dạ 9 Sa dồng. Cái tên Sa dạ Sa dồng mang biểu tượng cho những người “chèo thuyền vượt biển” [13; 308] đem lễ cung tiến cho Ngọc Hoàng. Qua đó, ông đã làm sáng tỏ cái chết bi thảm của nhân vật chính để tố cáo xã hội cũ đã chà đạp lên thân phận kiếp người nghèo khổ. Các tác giả khác lại cho rằng cái chết của nhân vật chính là sự giải thoát, sung sướng mang tính lãng mạn như trên chúng tôi đã trình bày. Hiện nay, tác phẩm này được giải thưởng của Hội Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (QĐ: 17/QĐ - VNDT, T12/2005 - Nghệ nhân Ưu Tú Hoàng Tương Lai con trai ông Hoàng Hạc cung cấp). Nó được nhân dân đón nhận, ca ngợi. Nghệ nhân ưu tú Hoàng Kế Quang người đã liêu tục biểu diễn thành công tác phẩm này trong các lễ hội; 3) Vượt biển được Bộ giáo dục và Đào tạo chọn để dạy trong nhà trường phổ thông và trong giáo trình Văn học dân gian bậc Đại học tiêu biểu về mảng truyện thơ. Đây chính là một cơ sở pháp lí quan trọng mà những văn bản khác không được lựa chọn. Điều này khẳng định vị trí, giá trị phản ánh và độ tin cậy của tác phẩm đối với độc giả. Có thể nói, căn cứ vào Quá trình hình thành Tum Tiêu và Quá trình hình thành Vượt biển khi các tác giả vừa “tái tạo” trên những tích truyện có thật trong dân gian, vừa “sáng tạo” thêm mà chúng tôi đã trình bày. Cùng với những luận điểm và viện dẫn kết quả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có uy tín như Võ Quang Nhơn, Phan Đăng Nhật, Lê Chí Quế, Nguyễn Xuân Kính… và những văn bản khẳng định Tum Tiêu và Vượt biển mang tính pháp lí như trên thì hai tác phẩm hoàn toàn so sánh được để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt. Và kết quả nghiên cứu sẽ càng kiểm chứng được tính tính ưu việt và mức độ tin cậy của hai tác phẩm này mang lại. Như vậy, cơ sở để chúng tôi sử dụng xuyên suốt trong đề tài này là những tri thức lí luận của thi pháp học lịch sử, thi pháp truyện thơ và phương pháp so sánh song song được coi là bộ công cụ hữu hiệu sử dụng để nghiên cứu làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt trên bốn bình diện đã nêu của hai tác phẩm. Từ đó, thấy được điểm mới khi cả hai tác phẩm có tính chất lưỡng thể: vừa có tính chất văn học dân gian vừa là tác phẩm văn học viết. CHƯƠNG 3 NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA HAI TRUYỆN THƠ TUM TIÊU VÀ VƯỢT BIỂN Những vấn đề lí luận về thi pháp lịch sử và thi pháp truyện thơ sẽ được chúng tôi soi chiếu và xem xét cụ thể trên hai tác phẩm Tum Tiêu và Vượt biển. Sử dụng phương pháp so sánh song song để tìm ra tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm này trên các mặt của thi pháp. Ở chương này là so sánh những điểm tương đồng. 3.1. Cốt truyện Sử dụng lí luận về cốt truyện của thể loại truyện thơ chúng tôi sẽ tiến hành so sánh thi pháp cốt truyện của chúng để tìm ra những điểm tương đồng ở cốt truyện tự sự - trữ tình, cốt truyện được xây dựng theo mô hình cấu trúc bi kịch. 10 3.1.1. Về cốt truyện tự sự Truyện thơ trước hết là “thể truyện” nên về hình thức nó mang yếu tố tự sự. Do đó, thể loại truyện thơ cũng như các thể loại tự sự khác có khả năng tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó bằng cách tạo nên một bức tranh mở rộng của đời sống không gian, thời gian của các biến cố, sự kiện và các chi tiết. Cốt truyện trong Tum Tiêu và Vượt biển thể hiện rất rõ những đặc điểm của tự sự khi trình bày chuỗi các sự việc nối tiếp nhau một cách mạch lạc, theo trật tự nhất định để dẫn đến một kết thúc đúng như diễn trình sự việc và truyền tải được ý nghĩa nhân văn cao cả. 3.1.2. Về cách thức thể hiện trữ tình Truyện thơ với tất cả sự kiện, chi tiết, hành động, tình huống cho đến cốt truyện đều được thể hiện bằng những lời thơ thấm đẫm chất trữ tình. Tum Tiêu và Vượt biển là tác phẩm tự sự trữ tình. Chất trữ tình được thể hiện thông qua ngôn ngữ thơ, nhịp điệu thơ, thể thơ. Điều này càng góp phần khẳng định, Tum Tiêu và Vượt biển hai truyện thơ tiêu biểu đã kết hợp một cách nhuần nhị cả hai yếu tố tự sự và trữ tình vào nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong tác phẩm. 3.1.3. Về mô hình cấu trúc bi kịch Một số truyện thơ nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á có cấu trúc truyện thơ được xây dựng theo mô hình tương đối ổn định của hệ thống truyện thơ, với ba sự kiện cơ bản theo mô hình kết thúc có hậu: Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn Tụ thì đến Tum Tiêu và Vượt biển thì mô hình cấu trúc tác phẩm đã có sự thay đổi: Gặp gỡ - Tai biến - Cái chết. Tum Tiêu và Vượt biển lại có cái kết hoàn toàn mới do ảnh hưởng của đặc điểm thi pháp thể loại và vai trò của ca dao, dân ca của hai dân tộc, hai đất nước khác nhau nhưng cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á. 3.2. Nhân vật Truyện thơ là một thể loại văn học phản ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự, cho nên, nhân vật trong truyện thơ cũng mang đầy đủ những đặc điểm của kiểu loại nhân vật trong văn tự sự. Đến với Tum Tiêu và Vượt biển thì nghệ thuật xây dựng nhân vật có những nét tương đồng. Cụ thể từng bình diện: 3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật Trong Tum Tiêu và Vượt biển chúng ta thấy, Bôtum Mắtthê Xôm và tác giả dân gian Tày đã cố gắng miêu tả ngoại hình nhân vật. Những nhân vật hiện ra dưới cái nhìn khách quan của người trần thuật, nhân vật được xem xét trong sự đánh giá của người khác, nhân vật tự bộc lộ qua lời đối thoại, độc thoại. Từ đó, góp phần giới thiệu đến độc giả, để họ có cái nhìn khái quát và những ấn tượng chung về ngoại hình nhân vật trong tác phẩm. 3.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động và tâm lí nhân vật Trong truyện thơ hành động và tâm lí nhân vật lại diễn biến nhẹ nhàng nhưng hết sức phức tạp. Trong Tum Tiêu thì nghệ thuật miêu tả hành động và tâm lí nhân vật thể hiện rất rõ qua hệ thống nhân vật chính như Tum, Tiêu và nhân vật phụ: bà Phăn, quan Ơ rơ chun, Pếch, Nô, vua… Và Vượt biển nghệ 11 thuật miêu tả hành động và tâm lí nhân vật thể hiện rất rõ trong hai tuyến nhân vật Thiện >< Ác thông qua nhân vật người em trai, anh trai, chị dâu, Sa dạ Sa dồng, quan Slay… Bởi vậy, cả Tum Tiêu và Vượt biển thì nhân vật hiện lên vừa có hình hài cụ thể, vừa có hành động và tâm lí phức tạp. 3.3. Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của sự sống con người, gắn liền với ý niệm về giá trị và sự cảm nhận về giới hạn giá trị của con người. Soi chiếu từ nguyên tắc này, chúng tôi xác định những điểm tương đồng trong không gian của hai tác phẩm Tum Tiêu và Vượt biển trên các cấp độ chi tiết như sau: 3.3.1. Không gian địa lí - văn hóa Không gian địa lí là bao gồm toàn bộ những yếu tố tự nhiên và xã hội tham gia vào bề mặt địa lí đó. Không gian địa lí rất quan trọng và là nền tảng để tìm hiểu lịch sử văn hóa, văn học mỗi quốc gia. Và thước đo về sức sống của một tác phẩm là phải đặt nó về môi trường sống. Tum Tiêu và Vượt biển có sức sống thể hiện mãnh liệt trong không gian đậm chất bản địa vùng lãnh thổ văn hóa Đông Nam Á. Hai tác phẩm của hai dân tộc, hai quốc gia khác nhau nhưng cùng xuất phát từ trong cái nôi lãnh thổ Đông Nam Á, nên về cơ bản chúng có những nét tương đồng về mặt địa lí, huyết thống chủng tộc, văn hóa của khu vực. 3.3.2. Không gian sinh hoạt Ở Tum Tiêu và Vượt biển không gian sinh hoạt được soi chiếu ở các cấp độ: từ cấp độ nhỏ (không gian gia đình) đến cấp độ lớn (không gian xã hội). Trong hai tác phẩm này đều xuất hiện không gian sinh hoạt hiện thực đời thường gần gũi với đời sống con người như không gian của mảnh ruộng, ngôi nhà sàn, ngôi chùa đến không gian rộng như Phum, Xóc, thành thị, cung điện (Tum Tiêu), rừng đại ngàn, âm ti, thượng giới (Vượt biển). Như vậy, ở cả hai tác phẩm này thì không gian sinh hoạt được nói đến gắn chặt với không gian hiện thực nơi con người sinh sống và hoạt động. 3.3.3. Không gian thiên nhiên Trong hai tác phẩm Tum Tiêu và Vượt biển thì không gian thiên nhiên đóng vai trò quan trọng thể hiện tâm trạng nhân vật, nội dung, chủ đề và bộc lộ tài năng của các tác giả. Đến với Tum Tiêu và Vượt biển không gian thiên nhiên hiện lên rõ nét bởi toàn tác phẩm được bao trùm bởi màu sắc thiên nhiên đậm chất Campuchia và vùng núi Việt Nam. Có lẽ tạo hóa đã ban tặng cho cư dân nông nghiệp lúa nước bầu tâm hồn tình cảm hết sức đặc biệt đối với thiên nhiên. Một khu vực nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp là chủ yếu, có rừng, sông, suối, đồng bằng và hải đảo… Cảnh sắc thiên nhiên kì vĩ đã góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên chất thơ cho tâm hồn con người. 3.4. Thời gian nghệ thuật Thời gian nghệ thuật là một yếu tố thuộc phương thức tồn tại của thế giới có cấu trúc riêng. Thời gian nghệ thuật vừa là phương diện của đề tài, vừa là một trong những nguyên tắc cơ bản để tổ chức nghệ thuật tác phẩm. Nếu trong sử thi chúng ta thấy nổi bật loại thời gian lịch sử - sự kiện thì đến với truyện thơ thời 12 gian thuận chiều, tuyến tính và không tách rời với cốt truyện. Đây là luận điểm sẽ xuyên suốt quá trình tìm ra những điểm tương đồng của Tum Tiêu và Vượt biển. 3.4.1. Thời gian lịch sử xã hội Xuất phát từ cách hiểu “xã hội” là hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài người ở một trình độ nhất định trong lịch sử, được xây dựng trên cơ sở của một phương thức sản xuất nhất định. Chúng tôi nhận thấy, trong Tum Tiêu và Vượt biển có hình thức sinh hoạt của con người theo một thiết chế xã hội nhất định trong cả đời sống vật chất lẫn thế giới tinh thần. Bởi vậy, trải bao thăng trầm của lịch sử, Campuchia và Việt Nam vẫn luôn giữ được tính chỉnh thể của một nền văn hóa vùng với một thể phức văn hóa thống nhất nhưng rất đa dạng. 3.4.2. Thời gian sinh hoạt Có thể hiểu, thời gian sinh hoạt là khoảng thời gian để nhân vật hoạt động, nó vừa phản ánh được nhịp độ vận động của cuộc sống, vừa biểu hiện tâm lí nghệ thuật của con người trước những biến cố, sự kiện của câu chuyện. Ở Tum Tiêu và Vượt biển thời gian sinh hoạt chính là khoảng thời gian ứng với các hoạt động của nhân vật trong tác phẩm. Như vậy, trong hai tác phẩm này thì thời gian sinh hoạt vừa là nơi để nhân vật thể hiện hành động vừa thể hiện diễn biến tâm lí con người. 3.4.3. Thời gian thiên nhiên Trong Tum Tiêu và Vượt biển, điểm nối kết giữa hai tác phẩm lại gần nhau hơn lại chính là sự tương đồng về thời gian thiên nhiên. Bởi bản tính của hai dân tộc có sự hòa hợp, yêu thích thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành bà mẹ mát tay nâng niu và hun đúc nên những tâm hồn con người giàu tính nhân văn. Như vậy, cả hai tác phẩm này các tác giả đã kế thừa và sáng tạo cách miêu tả thời gian thiên nhiên trong văn học dân gian. Hơn nữa, hai tác phẩm còn khắc họa được bức tranh đời sống đậm chất triết lí nhân sinh với bao số phận, bao thăng trầm mà cuộc đời mỗi nhân vật hiện lên như “tảng băng trôi” trong khoảng thời gian thiên nhiên đó. Như vậy, với việc sử dụng lí luận của thi pháp học lịch sử ở cấp độ so sánh song song, thi pháp truyện thơ vào Tum Tiêu và Vượt biển, chúng tôi đã làm rõ những điểm tương đồng trên từng bình diện: 1) Về cốt truyện, cả hai đều trải qua thăng trầm trong việc hình thành nên cốt truyện “hoàn hảo” kết hợp nhuần nhị yếu tố tự sự và phương thức trữ tình để lột tả được kiểu mô hình cấu trúc “kết thúc bi kịch”; 2) Về nhân vật cả hai đã xây dựng thành công hệ thống nhân vật. Từ những loại hình nhân vật trong tích cổ (dân gian) trong lịch sử quá khứ thì đến hai truyện thơ này đã xây dựng thành công kiểu loại nhân vật gần với đời thực. Trong hai tác phẩm này thì nhân vật hiện lên có ngoại hình, tính cách và tâm lí riêng; 3) Không gian nghệ thuật, cả hai các tác giả xây dựng không gian có những nét tương đồng: không gian địa lí - văn hóa, không gian sinh hoạt và không gian thiên nhiên; 4) Trong hai tác phẩm này thì thời gian nghệ thuật được xây dựng có những nét giống nhau: thời gian lịch sử, xã hội; thời gian 13 thiên nhiên. Những dấu mốc thời gian này không tách rời với chuỗi biến cố cốt truyện và hành động của nhân vật. Nó diễn ra theo dòng thời gian thuận chiều, tuyến tính, không có sự đảo lộn thời gian trong kết cấu. Qua đó có thể khẳng định, tác giả của hai truyện thơ này đã thể hiện được trình độ nhận thức xã hội của mình một cách rõ nét. CHƯƠNG 4 NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA HAI TRUYỆN THƠ TUM TIÊU VÀ VƯỢT BIỂN 4.1. Cốt truyện Cốt truyện trong Tum Tiêu và Vượt biển được hình thành từ những dạng thức khác nhau của đặc trưng thể loại. Bởi vậy, khi nghiên cứu chúng tôi tìm thấy nó có những nét khác biệt cơ bản về cốt truyện: Nếu như trong Tum Tiêu cốt truyện tâm lí và nghiêng về kiểu cốt truyện có yếu tố kịch cận đại thì đến với Vượt biển có cốt truyện lồng trong truyện và cốt truyện kết hợp nhuần nhị giữa tích cổ và dân ca. Đây là những điểm khác nhau cơ bản. 4.1.1. Cốt truyện tâm lí ở truyện thơ Tum Tiêu Tum Tiêu là một tác phẩm thuộc dòng văn học thành văn. Nó được xây dựng theo mô hình cấu trúc truyện thơ: gặp gỡ - tai biến - tự tử. Đây là mô hình truyện thơ “kết thúc bi kịch” khác với kiểu kết thúc có hậu vẫn thường thấy trong truyền thống truyện thơ các nước Đông Nam Á, khi nhân vật chính trải qua những thử thách, tai biến và đoàn tụ. Với kiểu kết thúc bi kịch làm cho diễn biến tâm lí của nhân vật chính phức tạp hơn và hình tượng nhân vật gần gũi với hiện thực cuộc đời. 4.1.2. Cốt truyện lồng trong truyện ở truyện thơ Vượt biển Vượt biển thì yếu tố cốt truyện lồng trong truyện được thể hiện rất rõ ở hai cấp độ: 1) Cấp độ cốt truyện là sự lắp ghép hai tiểu cuộc đời của nhân vật Sa dạ Sa dồng - phu thuyền; 2) Cấp độ biểu tượng thì Biển là sự đan cài của 3 vấn đề: sự sống, sự sáng tạo thế giới; cội nguồn sinh thành và sự sáng tạo các giá trị văn hóa của người Tày. Hơn nữa, việc nghiên cứu biểu tượng Biển trong truyện thơ này của người Tày còn gợi mở những tri thức nền tảng, một lối tư duy truyền thống, một hằng số văn hóa mang bản sắc riêng biệt, độc đáo của người Tày. 4.1.3. Yếu tố kịch cận đại trong cốt truyện của truyện thơ Tum Tiêu Bôtum Mắtthê Xôm đã có công nâng Tum Tiêu trở thành một tác phẩm kịch về quyền tự do yêu đương, hôn nhân và vấn đề mâu thuẫn xã hội trong thời đại: Xung đột kịch và Hành động kịch. Điều này, góp phần tạo nên sự thành công của cốt truyện, đồng thời cốt truyện được xây dựng mang màu sắc kịch cận đại đã góp phần làm cho Tum Tiêu trở thành một truyện thơ độc đáo, tiêu biểu về mặt loại hình so với Vượt biển và truyện thơ ở khu vực Đông Nam Á. 4.1.4. Cốt truyện kết hợp nhuần nhị truyện cổ tích và cao dao, dân ca của truyện thơ Vượt biển 14 Vượt biển là truyện thơ được hình thành từ một tích truyện của truyện cổ tích. Tuy nhiên cốt truyện này khi được cải biên, lắp ghép thành cốt truyện của Vượt biển thì mối quan hệ anh - em được đẩy lên gay gắt và trở thành tình huống truyện. Có thể thấy, sự kết hợp cốt truyện cổ tích với nghệ thuật trữ tình dân ca đã phát triển thành cốt truyện thơ Vượt biển theo thể tự sự trữ tình. Đây là cả một quá trình trưởng thành về mặt tư duy. Đó là bước chuyển mình mạnh mẽ từ không gian sân khấu ngoài trời vào không gian sân khấu tâm linh trên các ban thờ cúng của người Tày.Và nó đã thoát dần từ không gian sân khấu tâm linh đến với không gian cuộc đời. 4.2. Nhân vật Ứng với kiểu cốt truyện tự sự - trữ tình có kết thúc bi bịch, nhân vật trong Tum Tiên và Vượt biển được xây dựng những điểm khác nhau căn bản: Nếu nhân vật trong Tum Tiêu đậm màu sắc Phật giáo và được soi chiếu đa chiều thì nhân vật trong Vượt biển mang đậm chất Then và là nhân vật chức năng, thần kì. Và trên cái phông nền chung đó, mỗi tác phẩm có vẻ đẹp độc đáo riêng, tạo nên sự hấp dẫn khó quên đối với người thưởng thức. 4.2.1. Nhân vật đậm màu sắc Phật giáo trong truyện thơ Tum Tiêu Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất, là tiêu điểm bộc lộ chủ đề và giá trị tư tưởng nghệ thuật. Câu chuyện kể về nhân vật chính là một chú tiểu, về câu chuyện tình yêu oan trái éo le nhìn từ góc độ Phật giáo và bị chi phối bởi hệ tư tưởng giáo lí nhà Phật. Bi kịch được giải thích bằng tư duy và ngôn ngữ đạo Phật, giải quyết theo quan điểm nhân quả, luân hồi, nghiệp chướng của đạo Phật. Trong Tum Tiêu nhân vật là những con người có thật. Tính cách, suy nghĩ, hành động của họ diễn ra đúng với bản năng con người thực. 4.2.2. Nhân vật đậm chất Then trong truyện thơ Vượt biển Bản chất của Vượt biển là một chương trong các khúc hát Then của nhà Then. Nhưng khi vén bức màn khói nhang để trở thành một tác phẩm văn học đích thực thì những gì mà nhân vật truyền tải thông điệp đến người đọc lại vượt xa tầm kiểm soát của nó. Bởi vậy, không khó để giải thích tại sao người ta nghe khúc hát này cảm thấy thấu cảm và thấy đâu đó bản thân mình hòa vào từng nhân vật trong đó. Như vậy, nhân vật trong Vượt biển có môi trường sống vô cùng đặc biệt. Các nhân vật trong Vượt biển đã vượt xa hơn nhân vật có tính chức năng trong truyện cổ tích để trở thành những nhân vật loại hình, những con người có tính cách, số phận riêng trong cuộc đời. 4.2.3. Nhân vật soi chiếu đa chiều trong truyện thơ Tum Tiêu Trong Tum Tiêu, nhân vật hiện ra dưới cái nhìn khách quan của người trần thuật, được xem xét trong sự đánh giá của người khác, nhân vật tự bộc lộ qua lời đối thoại, độc thoại. Vì vậy, khi miêu tả đời sống nội tâm, những biểu hiện tinh tế của tâm hồn bằng đối thoại và độc thoại trong Tum Tiêu là một đặc sắc nghệ thuật. Bôtum Mắtthê Xôm đã xây dựng nên một hệ thống nhân vật có tâm lí khá phức tạp làm cho nó mang một hơi thở mới. Hơi thở của cái Tôi cá nhân, cá tôi khát khao muốn giải phóng khỏi sự ràng buộc, kìm kẹp của xã hội đương 15 thời. Nó đã tạo nên một hệ tư tưởng mới mẻ và là kim chỉ nan để nhân vật bộc lộ cảm xúc, bộc lộ cá tính riêng của mình. 4.2.4. Nhân vật thần kì trong truyện thơ Vượt biển Nhân vật hiện lên ở Vượt biển vừa có yếu tố rất thật của con người lại vừa mang yếu tố thần kì. Yếu tố con người thần kì ở đây hiện lên, nhưng cũng không làm giảm đi tính hiện thực mà tác giả dân gian muốn truyền tải thông điệp, phản kháng lại chế độ xã hội bất công của người dân nghèo miền núi lúc bấy giờ. Chiều hướng phát triển số phận nhân vật mang tính lí tưởng hóa, phản ánh lí tưởng thẩm mĩ cộng đồng Tày, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. 4.3. Không gian nghệ thuật Những điểm khác nhau về không gian nghệ thuật của Tum Tiêu và Vượt biển là ở chỗ: Nếu trong Tum Tiêu có không gian sinh tồn của con người và được diễn xướng trong sân khấu Yikê thì đến với Vượt biển xuất hiện không gian địa ngục và được diễn xướng trong nghệ thuật sân khấu Then. Việc làm rõ hai cấp độ khác nhau trong hai tác phẩm trên sẽ cho chúng ta hiểu hơn về phong tục, tập quán và mĩ cảm của người Khơme và người Tày ở hai quốc gia Campuchia và Việt Nam. 4.3.1. Không gian sinh tồn của con người trong truyện thơ Tum Tiêu Đây là một kiểu không gian mà ở đó tác giả gắn kết nhân vật chính vào trong từng dạng không gian cụ thể của tác phẩm. Không gian trong Tum Tiêu mang yếu tố của sân khấu kịch. Tum Tiêu của Bôtum Mắtthê Xôm kể về chuyện tình yêu bi thảm của hai nhân vật chính. Chuyện tình của họ được dệt trên nền rất nhiều không gian xa lạ khác nhau. Hơn nữa, ở không gian này sự xuất hiện của nhân vật còn góp phần khẳng định cốt truyện tự sự trữ tình triển khai theo mô hình cấu trúc kết thúc bi kịch đạt hiệu quả cao. 4.3.2. Không gian địa ngục trong truyện thơ Vượt biển Vượt biển còn khiến cho người đọc vô cùng ngạc nhiên bởi sự thần kì, ma quoái của nó. Nhân vật chết đi ở cõi người nhưng xuống địa ngục lại được tái hiện. Thần linh đã cho nhân vật người em đầu thai sang kiếp khác để hóa giả nỗi oan khuất. Tuy nhiên, việc đầu thai vào các Sa dạ Sa dồng thì kiếp nạn người em vẫn không thoát. Điều này đã khiến cho Vượt biển là một chương miêu tả toàn bộ đoàn quân Then vượt biển mênh mông để cung tiến lễ vật lên cho Ngọc Hoàng. Trong không gian địa ngục này thì nhân vật hiện lên thể hiện rõ ý đồ và tư tưởng của người sáng tác. Đây là bước phát triển mới đã đẩy nhân vật dần thoát khỏi kiểu nhân vật chức năng trong truyện cổ tích thành nhân vật loại hình trong văn học. 4.3.3. Không gian diễn xướng Yikê của truyện thơ Tum Tiêu Nghệ thuật sân khấu ở Campuchia được hình thành từ lâu đời và trở thành một hoạt động nghệ thuật không thể thiếu của dân tộc mỗi khi có lễ hội hoặc những lúc rảnh rỗi sau mỗi vụ mùa. Và sân khấu kịch Yikê (hay là Likê) là loại hình sân khấu ở Campuchia và ở một số tỉnh thuộc Tây Nam Bộ - Việt Nam. Với cốt truyện bắt rễ từ trong dân gian kết hợp với tư tưởng của nền văn hóa 16 nông nghiệp lúa nước khiến cho kịch Tum Tiêu phù hợp với nhu cầu của tầng lớp lao động và nghệ thuật sân khấu Yikê luôn là một công cụ được chuyển tải văn hóa dân gian, làm giàu đẹp bản sắc văn hóa. 4.3.4. Không gian diễn xướng Then của truyện thơ Vượt biển Một trong những sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Tày là hình thức sinh hoạt Then. Then của người Tày là hình thức nghi lễ dân gian độc đáo. Then có nhiều hình thức sinh hoạt phong phú. Sự phong phú ấy còn tùy thuộc theo phong tục tập quán từng vùng mà có mức độ khác nhau, tên gọi khác nhau như: bụt, pụt, vít… “Những chữ này đều xuất hiện từ tiếng Phạn là Bouddha, nghĩa gốc là sáng tỏ, thiêng liêng, nghĩa thông thường là hiểu biết” [140; 50]. Qua quá trình đi điền dã chúng tôi thấy có hai loại Then điển hình: 1) Trong nghi lễ cầu cúng và 2) Trong đời sống sinh hoạt. Trong quá trình đi thực địa tại Yên Bái, chúng tôi đã được Nghệ nhân Ưu tú Hoàng Kế Quang (sinh 1940, tổ 10, xã Hưng Khánh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái) cung cấp hai văn Vượt biển đại diện cho hai hoạt động nghi lễ này: Một, Vượt biển trong bài cúng Điệu lễ lên gốc số; Hai, Vượt biển trong Hội Then của người Tày. Với giá trị như vậy thì việc bảo tồn và phát huy những hoạt động diễn xướng Then nói chung và Vượt biển nói riêng là việc làm cần thiết. 4.4. Thời gian nghệ thuật Thời gian với tư cách là một sự kiện nghệ thuật. Thời gian trong truyện thơ cũng có mang trong mình những đặc trưng riêng. Tum Tiêu và Vượt biển có những điểm khác nhau rõ rệt về nghệ thuật tổ chức thời gian trong từng tác phẩm. Nếu Tum Tiêu có thời gian sinh tồn của con người và thời gian định mệnh thì Vượt biển có thời gian quá khứ và thời gian kì ảo. Sự khúc xạ của hai cấp độ thời gian trên phản ánh vào cốt truyện của Tum Tiêu và Vượt biển làm cho nhân vật hiện ra đa diện, đa chiều về tính cách, tâm lí, hành động. 4.4.1. Thời gian sinh tồn của con người trong truyện thơ Tum Tiêu Triết lí Phật giáo chi phối tất đạo đức, các giá trị truyền thống đến cả sinh hoạt của người Khơme. Thời gian sinh hoạt của các nhân vật trong Tum Tiêu cũng là thời gian của Phật giáo. Thời gian này cũng chi phối đến mọi mặt trong đời sống sinh hoạt của các nhân vật như nhân vật Tum, bà Phăn… Với họ niềm tin vào đức Phật vô cùng lớn lao. Vì vậy, Tum Tiêu vừa là hai nhân vật đáng trách nhưng họ lại vô cùng đáng yêu, đáng được trân trọng. 4.4.2. Thời gian quá khứ trong truyện thơ Vượt biển Nếu trong Tum Tiêu thời gian sống của con người chịu sự chi phối mạnh mẽ của thời gian sinh hoạt Phật giáo thì đến Vượt biển thời gian quá khứ chịu sự chi phối của thời gian sinh hoạt trong Then. Ở Vượt biển, thời gian đã thấm sâu vào từng hành động của nhân vật. Diễn biến tâm lí của nhân vật cũng đều được khắc họa trong diễn biến thời gian trong Then. Bởi vậy, đến với Vượt biển thì cảm quan thẩm mĩ của người Tày đã có sự thay đổi từ cảm quan mang cảm hứng thần tiên, kì ảo sang cảm quan hiện thực nghiệt ngã trước cuộc đời. 4.4.3. Thời gian định mệnh trong truyện thơ Tum Tiêu 17 Tum Tiêu là tác phẩm văn học bản địa đầu tiên quan tâm tới số phận, tâm lí, tính cách nhân vật một cách rõ nét nhất. Đặc điểm của thời gian định mệnh là tất cả mọi sự kiện, sự chuyển biến kết cục của đời người đều đã được định sẵn từ trước như một sự sắp xếp tất yếu của tạo hóa. Như vậy, cho dù nội dung được viết lại theo câu chuyện trong dân gian nhưng không thể phủ nhận được chính Bôtum Mắtthê Xôm đã góp phần to lớn làm nhuận sắc giá trị của tác phẩm làm cho nó vươn lên và đạt tới một hệ thống nghệ thuật mới gần gũi với cuộc đời. 4.4.4. Thời gian kì ảo trong truyện thơ Vượt biển Vượt biển nổi tiếng không chỉ vì cốt truyện vừa hiện thực lại vừa kì ảo. Nó nổi tiếng bởi việc các nghệ nhân dân gian Tày đã khéo léo tổ chức việc sắp xếp thời gian để nhân vật xuất hiện và bộc lộ tâm trạng của mình. Ở đây, thời gian cũng xuất hiện tương ứng với sự xuất hiện của nhân vật. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, thời gian kì ảo trong Vượt biển không được tạo ra từ những yếu tố có tính chất kì ảo như trong những giấc mơ, sự tiên tri hay sự báo ứng cùng với những yếu tố li kì như trong các truyền thuyết mà chủ yếu được tạo ra từ những câu chuyện trong cuộc sống đời thường có yếu tố kì ảo gắn với nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật miêu tả không gian sinh tồn của con người. Có thể thấy rằng, truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển có những điểm khác nhau căn bản trong các bình diện khác nhau của thi pháp: 1) Về cốt truyện: nếu như trong Tum Tiêu cốt truyện tâm lí và nghiêng về kiểu cốt truyện kịch cận đại thì đến với Vượt biển có cốt truyện lồng trong truyện và cốt truyện kết hợp nhuần nhị giữa tích cổ và dân ca; 2) Về nhân vật: nếu nhân vật trong Tum Tiêu đậm màu sắc Phật giáo và được soi chiếu đa chiều thì nhân vật trong Vượt biển mang đậm chất Then và là nhân vật chức năng, nhân vật thần kì; 3) Về không gian nghệ thuật: nếu trong Tum Tiêu có không gian sinh tồn của con người và được diễn xướng trong sân khấu Yikê thì Vượt biển lại xuất hiện không gian địa ngục và được diễn xướng trong nghệ thuật sân khấu Then; 4) Về thời gian nghệ thuật: nếu Tum Tiêu có thời gian sinh tồn của con người và thời gian định mệnh thì Vượt biển có thời gian quá khứ và thời gian kì ảo. Việc tìm ra những điểm khác nhau về cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật này nhằm củng cố, lấp đầy thêm những hiểu biết của chúng ta về tư duy văn học của hai dân tộc, về những nét văn hóa truyền thống và cao hơn nữa là tính liên văn hóa và xuyên văn hóa vùng miền. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan