Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh sách giáo khoa văn tuyển cấp II trong cuộc cải cách giáo dục năm 1950 và...

Tài liệu So sánh sách giáo khoa văn tuyển cấp II trong cuộc cải cách giáo dục năm 1950 và sách giáo khoa ngữ văn trung học cơ sở trong cuộc cải cách giáo dục năm 2000 (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
107
170
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI THỊ HẠNH SO SÁNH SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYỂN CẤP II TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 1950 VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 2000 Chuyên ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Mai Diễn THÁI NGUYÊN - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Mai Diễn. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Bùi Thị Hạnh i LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu để triển khai luận văn này, tác giả luận văn đã thực sự gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn tên luận văn, tài liệu nghiên cứu, cách thức triển khai và trình bày một công trình nghiên cứu khoa học. Nhưng được sự chỉ bảo, định hướng của các giáo sư, nhà khoa học về lĩnh vực giáo dục Ngữ văn, đặc biệt là hướng dẫn tận tình, tỉ mỉ của TS Hoàng Mai Diễn, bản thân đã nỗ lực hoàn thành luận văn đúng thời hạn và được bảo vệ trước Hội đồng khoa học. Chúng tôi trân trọng được gửi lời cảm ơn đến các nhà khoa học về giáo dục Ngữ văn như GS.TS Lê A, PGS. TS Vũ Nho, PGS. TS Nguyễn Văn Lộc, PGS. TS Nguyễn Huy Quát, PGS. TS Đỗ Ngọc Thống …các cán bộ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo của Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu và các giáo viên dạy học môn Ngữ văn Trường THCS Nguyễn Văn Cừ, thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ tôi, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp và người thân trong gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, như trên đã nói đề tài được thực hiện trong thời gian tương đối ngắn và chúng tôi chưa thực sự có kinh nghiệm nên khó tránh khỏi các sai sót. Vì vậy chúng tôi thực sự mong các độc giả thông cảm và gửi các ý kiến đóng góp. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016 Tác giả Bùi Thị Hạnh ii MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ....................................................................................................i Lời cảm ơn .......................................................................................................ii Mục lục............................................................................................................iii Danh mục các chữ viết tắt ..............................................................................iv MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.........10 1.1. Quan niệm về sách giáo khoa................................................................... 10 1.2. Chức năng của sách giáo khoa ................................................................. 11 1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức .............................................................. 13 1.2.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh học tập .............................. 15 1.2.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập ................................................. 16 1.2.4. Chức năng giáo dục nhân văn ............................................................... 16 1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa ............................................................ 17 1.3.1. Yêu cầu về nội dung ............................................................................. 18 1.3.2. Yêu cầu về cấu trúc............................................................................... 21 1.3.3. Yêu cầu về hình thức ............................................................................ 25 1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam........... 26 Chương 2. SO SÁNH CẤU TRÚC, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYẾN VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN .34 2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn .. 34 2.1.1. So sánh cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.......................................................................................................... 34 2.1.2. So sánh cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn ................................................................................................. 47 iii 2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.......................................................................................... 50 2.2.1. So sánh mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 50 2.2.2. So sánh hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 56 2.2.3. So sánh hệ thống phụ trợ dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................... 63 2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn ................................................................................................. 71 2.3.1. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển............................. 72 2.3.2. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Ngữ văn ............................... 73 2.3.3. Điểm giống nhau và khác nhau về hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................... 74 Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN TRONG TƯƠNG LAI76 3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn Trung học cơ sở .............................................................................................. 76 3.1.1. Kiến nghị mục tiêu xây dựng chương trình ........................................... 76 3.1.2. Kiến nghị về xây dựng nội dung chương trình ...................................... 79 3.1.3. Kiến nghị về đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập....................... 82 3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở .... 83 3.2.1. Kiến nghị về cấu trúc của sách giáo khoa.............................................. 83 3.2.2. Kiến nghị về hình thức trình bày sách giáo khoa Ngữ văn .................... 88 KẾT LUẬN ....................................................................................................94 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................95 PHỤ LỤC iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ SGK Sách giáo khoa GV Giáo viên HS Học sinh iv MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Đối với giáo dục phổ thông, SGK có một vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. SGK là nơi cung cấp kiến thức, tri thức bên cạnh đó còn nêu ra các ý tưởng dạy học. SGK là tài liệu thể hiện một cách cụ thể nội dung và phương pháp giáo dục của mỗi môn học trong nhà trường phổ thông. Theo quan điểm biên soạn mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay, SGK còn là công cụ tự học tập, tự phát triển nhân cách của HS. SGK là một thành tựu khoa học, là công trình khoa học sư phạm thể hiện những mục tiêu giáo dục. Tổ chức UNESCO từng nhấn mạnh “SGK là một trong ba yếu tố quyết định nhất đến chất lượng giáo dục của một quốc gia bên cạnh yếu tố giáo viên và hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống chương trình” [54. tr 5]. Để làm việc với SGK, GV phải hiểu được những nội dung bài học cơ bản, cấu trúc bài học và quan điểm biên soạn bộ sách qua từng thời kì. Đồng thời bộ SGK mới cũng thể hiện sự tiến bộ hơn so với bộ SGK cũ. Mỗi bộ SGK chứa đựng những kiến thức cơ bản thích hợp với nhận thức của HS, là bộ sách dùng chung cho GV và HS. SGK có mục đích nhằm hình thành, phát triển phương pháp tự học cho HS, nâng cao năng lực làm việc độc lập, hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học ở từng cấp học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của HS. Như vậy SGK có vai trò quan trọng trong quá trình học tập và nghiên cứu của GV và HS. 1.2. Để có thể dạy tốt bộ SGK mới GV phải có cái nhìn tổng thể, có sự so sánh, phân tích đánh giá với bộ SGK cũ. Việc lựa chọn bộ SGK Văn tuyển năm 1950 để so sánh vì đây là bộ SGK đầu tiên của Việt Nam trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất sau năm 1945. Nghiên cứu, so sánh bộ SGK Văn tuyển năm 1950 với bộ SGK Ngữ văn hiện nay giúp chúng ta thấy 1 được những ưu, nhược điểm của hai bộ sách. Qua đó rút kinh nghiệm để xây dựng bộ SGK sắp tới. Nghị quyết số 44- NQ – CP ngày 09/06/2014 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có viết: “Khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên soạn sách giáo khoa (sách in và sách điện tử) trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, sử dụng thống nhất trong toàn quốc. Xây dựng hệ thống ngân hàng bài giảng điện tử để giáo viên có thể tham khảo trong quá trình dạy học”. 1.3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI đã xác định mục tiêu của giáo dục: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Giáo dục là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tiến hành đổi mới giáo dục, vấn đề tự học giữ vai trò quan trọng. Để tiến hành việc tự học, người học và người dạy không thể thiếu sự hỗ trợ của bộ sách giáo khoa . Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924]. Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo 2 quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở trường Trung học” [11. tr 144]. Vì lí do trên chúng tôi chọn đề tài “So sánh sách giáo khoa Văn tuyển cấp II trong cuộc cải các giáo dục năm 1950 và sách giáo khoa Ngữ Văn Trung học cơ sở trong cuộc cải cách giáo dục năm 2000” để xem xét một cách tương đối toàn diện về hai bộ SGK này. Đồng thời chúng tôi cũng có tiến hành đối chiếu, so sánh hai bộ SGK để thấy được những điểm giống và khác nhau giữ hai bộ sách. Chúng tôi hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc biên soạn bộ SGK Ngữ văn trong tương lai. 2. Lịch sử vấn đề Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hai bộ SGK Văn tuyển cấp II và SGK Ngữ văn không nhiều. Có thể nêu ra một số công trình của các nhà nghiên cứu sau: Bài viết “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK Ngữ văn hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới” của GS. Nguyễn Minh Thuyết in trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam”, trong bài viết tác giả đề cập đến vấn đề quan niệm đối tượng, tên gọi, ưu điểm và hạn chế của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Môn Ngữ văn là một môn học tích hợp nhằm kết hợp năng lực phân tích với việc hình thành 4 kĩ năng nghe – nói – đọc – viết vốn là hai quá trình gắn bó hữu cơ và hỗ trợ nhau hết sức tích cực. Vấn đề biên soạn chương trình, SGK Ngữ văn mới cũng được tác giả đề cập đến. “Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác giả Đỗ Ngọc Thống đã nêu ra những vấn đề về phát triển chương trình môn học Ngữ văn, nội dung chương trình môn Ngữ văn qua trong nhà trường phổ thông qua các thời kì lịch sử, quan niệm dạy học tác phẩm văn chương qua 3 chương trình và phát triển chương trình giáo dục phổ thông và chương trình môn Ngữ văn trong bối cảnh mới. Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa” của Trần Bá Hoành. Tác giả nhận định CT phổ thông ở nước ta trải qua ba lần thay đổi, mỗi lần thay đổi CT là mỗi lần biên soạn lại SGK. Bộ SGK Ngữ văn được áp dụng “một chương trình - vài ba bộ SGK”. Theo tác giả do những biến đổi bất lợi trong thực tế sử dụng ở từng địa phương thì nên thống nhất một bộ SGK. Tài liệu “Ngữ văn 6 sách giáo viên tập 1” do GS Nguyễn Khắc Phi làm tổng chủ biên, tác giả đề cập đến chương trình Ngữ văn, cấu trúc nội dung và mô hình SGK Ngữ văn Trung học cơ sở và một số vấn đề cần lưu ý trong việc giảng dạy phân môn. Nhan đề “Sách giáo khoa một số vấn đề lí luận và thực tiễn” là phần bốn trong tài liệu “Nguyễn Khắc Phi tuyển tập”. GS. Nguyễn Khắc Phi giới thiệu một số bài viết trao đổi về chương trình và SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở, nhấn mạnh một số điểm về phương pháp tiếp cận SGK mới nhằm phát huy ưu thế của phương châm tích hợp trong quá trình dạy học bộ môn. Trong cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông” (NXB Giáo dục – 1981) các tác giả có nhận định SGK trên thế giới có nhiều chuyển biến cơ bản, từ những hình thức sơ khai như viết trên đất sét, cuốn sách viết tay, cho đến những quyển SGK hiện đại về mọi mặt nội dung và hình thức ra đời với những hình ảnh minh họa màu sắc phong phú, tươi đẹp. Đáp ứng và phù hợp với những thành tựu văn hóa, khoa học, kỹ thuật đặc biệt là những thành tựu về tâm lý, giáo dục học ở các nước hiện đại trên thế giới. Chính vì vậy đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay cần gấp rút xây dựng một bộ SGK mới đáp ứng được yêu cầu cải cách giáo dục. Bộ SGK Ngữ văn cũng cần có sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh đất nước hiện nay. 4 “Giáo trình phương pháp dạy học văn Trung học cở sở” của GS. Nguyễn Thanh Hùng, tác giả có nói đến những vấn đề về phương pháp dạy học môn Ngữ văn, nguyên tắc tích hợp trong dạy học Ngữ văn ở Trung học cơ sở. Trong chương 2 tác giả có nói về nguyên tắc tích hợp dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Theo tác giả dạy học ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn hòa trộn trong nhau, hợp nhất với nhau. Và “Việc sử dụng tích hợp ngang và tích hợp dọc khi dạy học Ngữ văn cũng nên quan niệm một cách tương đối linh hoạt không rập khuôn” [46. tr 23]. Tác giả Phan Trọng Luận trong cuốn “Văn học Giáo dục thế kỉ XXI” đưa ra một số nhận xét về bộ SGK hiện nay. Theo tác giả bộ SGK hiện nay không thể viết theo lối cũ. “Không ai lại cực đoan cho rằng những SGK chúng ta vừa viết ra cho tiểu học và THCS hoàn toàn cũ kĩ nhưng thật sự nghiêm khắc và khách quan thì không phải không còn những chỗ này, chỗ nọ, ở tác giả này hay tác giả kia sự thay đổi vẫn còn manh mún chưa thực sự được hướng dẫn một cách thật minh triết về yêu cầu hiện đại hóa phương pháp sự phạm trong từng bài soạn SGK thế kỉ XXI. Một sự thay đổi có tính hệ hình về nguyên lí soạn SGK hiện đại chưa thật định hình và thấu triệt” [49. tr 118]. Trong cuốn “Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác giả Đỗ Ngọc Thống đã tiến hành khảo sát SGK môn Văn từ Cách mạng tháng Tám đến nay. Tác giả đưa ra nhận định “chúng tôi nhận thấy sự thay đổi, cải cách chương trình, tên gọi môn học cũng có sự thay đổi” [67. tr 22]. Trước đây bộ SGK Văn có tên là “Văn tuyển”, năm 1956 có tên gọi là “Quốc văn”, đến năm 1979 bộ SGK lúc này có tên gọi ngắn gọn là “Văn”, hiện nay bộ SGK có tên gọi là “Ngữ văn”. Bộ SGK Ngữ văn trung học chính thức đầu tiên đã được biên có tên là “Văn tuyển” xuất bản từ lớp 5 đến lớp 9. Bậc trung học cơ sở bao gồm sáu cuốn có tên đầy đủ là: Văn tuyển lớp 5 (tập 1, 2), Văn tuyển lớp 6 (tập 1, 2), Văn tuyển lớp 7 (tập 1, 2). Bộ SGK Văn Tuyển được xuất bản đầu tiên vào năm 1955. 5 Tác giả cũng đã so sánh chương trình, SGK Ngữ văn với các bản chương trình SGK môn Văn ở Việt Nam thuộc những lần cải cách giáo dục trước đó. Qua sự so sánh đó ta thấy có sự khác nhau căn bản trong việc xác định mục tiêu dạy học. “Chương trình, SGK trước đây nhấn mạnh mục tiêu giáo dục tư tưởng tình cảm của môn Văn, hoặc là tư tưởng, đạo đức chính trị, hoặc là những tình cảm nhân văn cao đẹp và theo đó là sự coi trọng đặc biệt đến kiến thức (cái cần dạy cho HS) thì chương trình, SGK lần này lại nhấn mạnh trước hết đến mục tiêu rèn luyện năng lực văn học cho HS và cái nhấn mạnh hàng đầu chính là kĩ năng (dạy như thế nào)” [54. tr 242]. Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình THCS ban hành kèm theo Quyết Định số 03/2002/QĐ- BCD & ĐT ngày 24 tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo, cụ thể theo hướng “tích hợp” ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn gộp vào một bộ sách có tên gọi là Ngữ văn. Qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy vấn đề so sánh hai bộ SGK chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu chi tiết và có hệ thống. Tuy nhiên những đánh giá, ý kiến và nhận định nêu trên là cơ sở giúp chúng tôi thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn nhằm giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ những vấn đề lí luận cơ bản về SGK, đồng thời tiến hành so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” với bộ SGK “Ngữ văn”. Luận văn còn chỉ ra những điểm khác nhau giữa hai bộ sách và ưu nhược điểm của chúng, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc biên soạn bộ SGK sau này. Qua đó, giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy các chức năng cơ bản của bộ SGK trong quá trình giảng dạy. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” cấp II và “Ngữ văn” Trung học cơ sở để thấy được điểm giống và khác nhau, ưu điểm và nhược điểm của 6 từng bộ SGK. Từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị trong việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn trong thời gian tới phù hợp với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Bộ SGK Văn tuyển cấp 2 bao gồm: + “Văn tuyển lớp 5” (tập 1, 2) do tác giả: Nguyễn Tiến Cường - Nguyễn Đăng Châu - Nguyễn Đăng Ngọc - Nguyễn Nghĩa Dân - Hoàng Trọng Oanh, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955. + “Văn tuyển lớp 6” (tập 1, 2) Nguyễn Nghĩa Dân - Nguyễn Đăng Châu Nguyễn Đăng Ngọc, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955. + “Văn tuyển lớp 7” (tập 1, 2) Nguyễn Đăng Ngọc - Hoàng Trọng Hanh - Nguyễn Nghĩa Dân, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955. - Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở bao gồm: + “Ngữ văn 6” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Bùi Mạnh Nhị - Nguyễn Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn. “Ngữ văn 6” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Nguyễn Văn Long – Nguyễn Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn. + “Ngữ văn 7” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn Đình Chú- Nguyễn Minh Thuyết- Đỗ Kim Hồi- Nguyễn Văn Long- Bùi Mạnh Nhị- Lê Xuân Thại - Đỗ Ngọc Thống biên soạn. “Ngữ văn 7” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng 7 Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Văn Long – Bùi Mạnh Nhị - Đỗ Ngọc Thống biên soạn. + “Ngữ văn 8” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn Hoàng Khung (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Lê A- Diệp Quang Ban- Hồng Dân - Đỗ Kim Hồi - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lê Xuân Thại- Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống - Phùng Văn Tửu biên soạn. “Ngữ văn 8” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Hoành Khung (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp Quang Ban – Hồng Dân – Đỗ Kim Hồi – Bùi Mạnh Hùng – Lê Quang Hưng – Lê Xuân Thại – Lã Nhâm Thìn – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn. + “Ngữ văn 9” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn Văn Long (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Diệp Quang Ban - Hồng Dân - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống Trịnh Thị Thu Tiết - Phùng Văn Tửu biên soạn. “Ngữ văn 9” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Văn Long (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp Quang Ban – Lê Quang Hưng – Lê Xuân Thại – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu và so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển năm 1955” bao gồm: Văn tuyển lớp 5, 6 và 7 (tập 1 và 2). Bộ SGK “Ngữ văn năm 2002” bậc Trung học cơ sở bao gồm: Ngữ văn lớp 6, 7, 8 và 9 (tập 1 và 2). 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp sử dụng trong luận văn là: + Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu liên ngành, phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài đang được triển khai. 8 + Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm đưa ra những kết luận, những quan điểm về bộ SGK từ đó đề xuất ý kiến cá nhân xây dựng bộ SGK mới sau 2015. 6. Đóng góp của đề tài 6.1. Luận văn hệ thống hóa về SGK nhằm giúp giáo viên và học sinh hiểu những vấn đề cơ bản, khái quát về hai bộ sách. 6.2. Luận văn là cơ sở lí luận để giáo viên và học sinh phát huy vai trò tích cực của bộ SGK, sử dụng trong giảng dạy thực tế một cách hiệu quả. Từ việc phân tích, so sánh cấu trúc hai bộ SGK luận văn đề ra một số ý kiến đóng góp thiết kế bộ SGK mới sau năm 2015. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung của đề tài. 1.1. Quan niệm về sách giáo khoa 1.2. Chức năng của sách giáo khoa 1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa 1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam Chương 2: So sánh cấu trúc, nội dung và hình thức của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn. 2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn 2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn 2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn Chương 3: Một số kiến nghị về xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa môn Ngữ văn trong tương lai 3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn Trung học cơ sở 3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Trong chương 1 này, tác giả luận văn sẽ tổng hợp một số vấn đề chung liên quan đến đề tài như khái niệm, chức năng, yêu cầu của sách giáo khoa và sơ lược về lịch sử phát triển SGK Ngữ văn ở Việt Nam. 1.1. Quan niệm về sách giáo khoa SGK là một tài liệu dạy học quan trọng trong nhà trường phổ thông, nhưng cho đến nay khái niệm về SGK chưa có sự thống nhất. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924]. Luật Giáo dục, chương 2 mục 2 điều 29 quy định: “Sách giáo khoa cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở những lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giảng dạy phổ thông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa” [10. tr 16]. Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở trường Trung học” [11. tr 144]. Tác giả Trần Bá Hoành đưa ra quan niệm về SGK như sau: “SGK theo cách hiểu thông thường là sách viết cho học sinh, căn cứ và chương trình đã được xác định chính thức” [43. tr 189]. Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, tác giả…… đưa quan niệm về SGK như sau: “Sách giáo khoa trường phổ thông là một loại hình sách dành cho học sinh nghiên cứu học tập với sự chỉ đạo của giáo viên. Đó là cách học tập chính thức, có tính tiêu chuẩn đối với học sinh, giúp các em nắm vững 10 kiến thức, rèn luyện kĩ năng và tư duy một cách tích cực, có ý thức để phát triển nhân cách và đào luyện mình thành con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [55. tr 10]. TS Trần Đức Tuấn trong bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu sách giáo khoa ở Việt Nam” đưa ra khái niệm về SGK (được hiểu là một bộ SGK) “là loại sách dùng riêng cho các trường phổ thông, là phương tiện dạy học đặc biệt do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn thẩm định, duyệt và sử dụng chính thức, thống nhất ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác nhằm thực hiện những mục tiêu cơ bản của giáo dục phổ thông” [54.tr 37]. Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng các khái niệm trên đều đề cập đến những nội dung cụ thể sau: SGK là sách soạn theo chương trình trong nhà trường phổ thông, được biên soạn với mục đích dạy và học nhằm cung cấp những kiến thức và kĩ năng cho HS. 1.2. Chức năng của sách giáo khoa Chức năng của SGK đã được đề cập đến trong một số cuốn sách và bài viết cụ thể sau: Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu vế nội dung và cấu trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, (NXB Giáo dục – 1981) các tác giả đã đưa ra ba chức năng của SGK: 1. Chức năng thông tin: Đây là chức năng thông báo những nội dung: khoa học, tài liệu, bao gồm phương pháp của bộ môn khoa học, phương pháp tư duy và và phương pháp học tập bộ môn. 2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập: SGK phải góp phần phát triển tư duy, năng lực độc lập học tập và sáng tạo. Ngoài ra SGK còn phát triển kỹ năng và năng khiếu, giúp HS có thể tự học, tự rèn luyện, và tự kiểm tra đánh giá. 3. Chức năng kích thích hứng thú học tập: Ngoài hai chức năng trên, SGK phổ thông còn có nhiệm vụ kích thích HS lòng say mê học tập, yêu thích bộ môn và thấy được vui, hạnh phúc trong lao động, học tập và khám phá. 11 Bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu sách giáo khoa ở Việt Nam” trong cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại” TS. Trần Đức Tuấn đã chỉ ra SGK có hai chức năng sau: 1. Chức năng trung tâm (định hướng và hỗ trợ phát triển bền vững): SGK những kiến thức, những vấn đề, những kĩ năng, những viễn cảnh và những giá trị phát triển bền vững về 3 phương diện: môi trường, kinh tế và xã hội phải được thể hiện đầy đủ rõ nét trong chương trình SGK. 2. Các chức năng cơ bản gồm 4 chức năng: thông tin/ tái tạo, định hướng tổ chức dạy học (Điều khiển), tạo động cơ, gây hứng thứ và kiểm tra, đánh giá. Trong bài viết tác giả đã đưa ra một số ý kiến của các tác giả ở châu Âu về chức năng của SGK: “Trong những thập kỉ cuối thế kỉ thứ XX, khi đề cập các chức năng của SGK nhiều tác giả ở châu Âu thường nhấn mạnh đến các chức năng sư phạm và lí luận dạy học và thống nhất khi cho rằng các chức năng tái tạo (thông tin), chức năng điều khiển, chức năng luyện tập và kiểm tra, chức năng tạo động cơ, gây hứng thú học tập là những chức năng rất cơ bản của SGK” [54. tr 38]. Tuy nhiên, các tác giả còn đề cập đến một số chức năng khác nữa. Dưới đây là kết quả nghiên cứu chức năng của SGK của một số tác giả: Hacker (CHLB Đức, Sujew (Liên Xô cũ, 1983) 1980, 1992) Quan niệm chung ở CHDC Sorina (Liên Xô cũ, 1983) Đức (1980) 1. Tái hiện 1. Chuyển đạt thông 1. Thông tin 1. Thông tin/ 2. Điều khiển tin 2. Điều khiển Chuyển đạt thông 3. Ôn tập, kiểm tra, 2. Củng cố, tự kiểm tra 3. Củng cố kết tin đánh giá 3. Tự giáo dục, quả 2. Điều khiển 4. Cấu trúc Liên kết/ phối hợp 4. Kích thích 3. Tự giáo dục, 5. Tạo động cơ 4. Nghiên cứu 5. Hợp lí hóa tổ Liên kết/ phối hợp 6. Phân hóa giáo dục/ phát chức DH triển 4. Nghiên cứu giáo dục/ phát triển 12 Trong cuốn sách “Các vấn đề sách giáo khoa” (NXB Giáo dục- 1998) tác giả đưa ra hai chức năng của SGK: 1. Chức năng thông tin tức là chức năng cung cấp kiến thức cho HS. 2. Chức năng dạy học và phát triển. Là chức năng hướng dẫn phương pháp học tập, nghiên cứu, trên cơ sở củng cố và phát triển năng lực tư duy của HS. Trong luận văn này, tác giả luận văn quan niệm SGK gồm có bốn chức năng sau: chức năng thông tin kiến thức, chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập, chức năng kích thích hứng thú học tập và chức năng giáo dục nhân văn. 1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức Chức năng thông tin kiến thức là chức năng truyền thống, chức năng quan trọng nhằm thông báo nội dung khoa học, nội dung tài liệu, phương pháp dạy học. Một số quan điểm cho rằng chức năng thông tin kiến thức là chức năng duy nhất còn các chức năng khác có thể không cần thiết, chỉ là sự kéo theo. Trong quá trình giảng dạy, GV phải thực hiện được chức năng thông tin, bản thân GV phải hướng dẫn HS kích thích hứng thú học tập cho HS. Vì vậy, SGK cần được tổ chức tốt hệ thống thông tin kiến thức nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và học tập của GV và HS. Chức năng thông tin thể hiện qua nội dung SGK, được trình bày dưới dạng kênh hình (hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ…) và kênh chữ. Thông thường, sách giáo khoa bậc Tiểu học kênh hình và kênh chữ gần như tương đương nhau. Còn SGK Trung học cơ sở và Trung học phổ thông kênh hình chiếm số lượng ít hơn kênh chữ. Kênh chữ trong SGK giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chức năng thông tin. Lượng kênh hình trong SGK phải có sự tính toán phù hợp sao cho HS lĩnh hội kiến thức một cách phù hợp và không để HS phân tán. Kênh chữ và kênh hình là những thông tin được dùng chủ yếu trong SGK ở các cấp học. Vì vậy, chúng cần phải được thể hiện chính xác, khoa học, hài hòa về mặt thẩm mỹ, phù hợp với tâm lí từng cấp học và đặc biệt phải mang tính sư phạm. Các thông tin trong SGK qua kênh chữ và kênh hình thường đa dạng, phong 13 phú được đưa ra dưới dạng gợi mở, đòi hỏi ở người học tư duy linh hoạt mới có thể giải quyết vấn đề được đặt ra. Kênh hình bao gồm ảnh chụp, tranh ảnh, hình vẽ, sơ đồ, các hình ảnh khá rõ nét chi tiết mang tính cân đối thẩm mỹ…phù hợp với kênh chữ, thể hiện đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với môi trường sư phạm. Kênh hình có khả năng kích thích hứng thú học tập, tạo tâm thế học tập cho HS, nó có giá trị rất lớn về vấn đề nhận thức của HS. Nội dung và lượng thông tin trong SGK gồm những đơn vị kiến thức môn học. Kiến thức không bao giờ đứng yên mà luôn vận động, kiến thức trong SGK thì phải ổn định, lâu dài. Giải quyết vấn đề này chức năng thông tin phải hướng đến tính khoa học, ổn định, tính vừa sức và tính hấp dẫn. SGK là bộ sách được biên soạn phù hợp với từng cấp học, chính vì vậy lượng kiến thức phải đảm bảo vừa sức với học sinh từng cấp học. Kiến thức được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau như: khái niệm, quy luật, định lí, định nghĩa, quy tắc…SGK cấp trên không thể dùng được cho cấp dưới và ngược lại. Đặc biệt đơn vị kiến thức được đưa vào SGK phải phù hợp với từng lứa tuổi, đặc điểm tâm lí của HS. Khác với những loại sách khác kiến thức trong SGK phải được lựa chọn, đưa vào chương trình những kiến thức phổ thông cơ bản, chuẩn mực và ổn định. Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp thông tin trong mỗi bài học phải đảm bảo yêu cầu vừa sức với mỗi HS. Tiến trình những kiến thức được chuyển tải qua nội dung các môn học ở các khối lớp từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. SGK không những cung cấp thông tin kiến thức mà còn chỉ dẫn các cách lĩnh hội những kiến thức đó, trang bị cho HS phương pháp tư duy, học tập, rèn luyện kỹ năng thực hành. SGK trong nhà trường phổ thông đã trở thành tài liệu định hướng, hỗ trợ phương pháp dạy và học cho GV và HS. Hệ thống bài tập, câu hỏi trong SGK phải bám sát nội dung bài học, vừa kích thích hứng thú học tập của HS, giúp HS tự nghiên cứu, tìm ra phương pháp tự học. Qua đó tạo điều kiện cho HS khai thác kiến thức mới của bài học, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan