Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu mẫu - Văn bản Văn bản So sánh phong cách thơ xuân quỳnh và xuân diệu nguyễn ngọc lan chi 12cv...

Tài liệu So sánh phong cách thơ xuân quỳnh và xuân diệu nguyễn ngọc lan chi 12cv

.DOCX
13
1187
111

Mô tả:

Nguyễn Ngọc Lan Chi – 12CV – 03 SO SÁNH PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ GIỮA XUÂN QUỲNH VÀ XUÂN DIỆU I. ĐẶT VẤN ĐỀ - Xuân Diệu, Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn, có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học dân tộc, đặc biệt là về mảng thơ tình. - Tuy Xuân Diệu, Xuân Quỳnh thuộc hai thế hệ ở hai thời đại khác nhau nhưng họ gặp nhau ở một điểm trong tâm hồn, đó là: niềm khát khao đến cháy bỏng yêu và được yêu. Chính vì vậy mà những vần thơ về tình yêu của họ là những vần thơ bất tử, bởi lẽ tình yêu là đề tài lớn của thơ ca và giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng định qua thời gian và qua dư luận công chúng. - Cùng thể hiện thành công và xuất sắc đề tài này, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã khiến cho thơ tình của họ trở thành đối tượng quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu phê bình. Người ta nhận ra hai nét phong cách vô cùng khác biệt của hai đại biểu thơ tình xuất sắc nhất nền thơ ca Việt Nam:: + Một Xuân Diệu - đại diện cho cái tình khao khát mãnh liệt, ồn ào, sôi nổi, vồ vập ở nam giới + Một Xuân Quỳnh - đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng không kém phần mãnh liệt. Thơ ca của mỗi thi sĩ mang một vẻ đẹp riêng, giá trị riêng; một trong những điểm tạo nên sự khác biệt về vẻ đẹp và giá trị đó chính là sự khác biệt về phong cách và ngôn ngữ thơ. ð II. NỘI DUNG: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ XUÂN DIỆU VÀ XUÂN QUỲNH A. NHẠC TÍNH TRONG NGÔN TỪ - “Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi” => Tính nhạc là nét đặc thù rất cơ bản của ngôn ngữ thơ. - Nhạc tính chính là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp trong thơ, đây cũng chính là yếu tố tạo mĩ cảm cho người thưởng thức. “Ly khai với nhạc tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên” => Ngôn ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ đặc biệt, vừa mang nhiều ý nghĩa hình tượng, vừa giàu nhịp điệu, phong phú về cách hoà âm, tiết tấu. - Nhạc tính trong thơ được tạo nên từ những yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh,.. + Một trong số đó chính là vần: bộ phận chủ yếu của âm tiết, là âm tiết trừ đi thanh điệu và phụ âm đầu. Hiện tượng lặp lại vần hoặc có vần nghe giống nhau giữa những âm tiết có vị trí nhất định trong câu (thường là câu thơ), được tạo ra để làm cho lời có nhịp điệu và tăng sức gợi cảm. + Thơ truyền thống thường tuân thủ rất nghiêm nhặt các quy tắc gieo vần. Đến thơ hiện đại, đặc biệt là thơ mới không còn bó buộc về hiệp vần, nhưng các nhà thơ vẫn sử dụng vần như một yếu tố biểu cảm làm tăng vẻ đẹp của thơ. ð Dùng nhạc của ngôn từ để mô phỏng nhạc của cuộc sống và tâm hồn mình. - Đề cập đến tính nhạc trong thơ, không thể không kể đến hồn thơ Xuân Diệu - có cái rạo rực của lòng khát khao được sống, được giao cảm với đời và nhạy cảm với những rung động nhỏ nhất của cuộc sống. Một hồn thơ như thế không thể không viết về nhạc. Cảm hứng về nhạc của nhà thơ là đi mãi vào cái thế giới bên trong nhạc. Vào thế giới riêng của Nguyệt Cầm, thi sĩ đã hoà tan vào một niềm thơ duy nhất, thành mối tương giao kỳ diệu giữa hồn người, hồn nhạc và hồn tạo vật. 1. Nhạc tính trong thơ Xuân Diệu - Ở những câu đầu của bài thơ, tác giả đã đưa tâm hồn người đọc vào thế giới của âm thanh, đó là một thế giới tràn đầy tiếng nhạc của trăng và đàn: Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm! Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. + Những điệp từ: “trăng” và “đàn”, cách ngắt nhịp 2/2/3 vừa tạo nên nhạc tính nhuần nhị cho câu thơ vừa gợi lên một bức tranh đã có hình lại có thanh. ð Nếu ngôn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi dây đàn ấy. Bằng khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, Xuân Diệu tạo ra âm điệu cũng chính là tạo nên nhạc tính trong thơ. Từ đó dẫn dụ người đọc đi vào thế giới lung linh màu nhiệm của Nguyệt Cầm. - Theo giáo sư Hà Minh Đức: “Nhịp điệu là kết quả của một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp lại đều đặn những âm thanh nào đó ở trong thơ” Câu thơ thu hút người đọc ngoài việc ý hay lời đẹp còn phải thu hút người nghe bằng nhịp điệu của sự hài hoà: Long lanh tiếng sỏi vang vang hận + Câu thơ trên sở dĩ “đầy nhạc” chính vì sự tập trung dày đặc các nguyên âm mở và phụ âm vang tạo âm điệu cho thơ. + Sử dụng những từ láy và lặp lại chúng: “long lanh”, “lung linh”… => tạo nhịp điệu trong thơ. Nhịp điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo nhạc tính trong thơ, đồng thời thể hiện một cách tinh tế những trạng thái cảm xúc của nhà thơ. - Ngoài ra, nhạc thơ chủ yếu còn do các thanh điệu tạo nên. Trong bài Nhị Hồ, để gợi tả điệu nhạc du dương, đưa tâm hồn phiêu diêu bay bổng cùng tiếng đàn, Xuân Diệu đã viết hai dòng thơ toàn vần bằng: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi… - Dùng nhạc của ngôn ngữ để tạo hình: Trong bài thơ Đây màu thu tới: + Sử dụng chuỗi phụ âm r: Những luồng run rẩy rung rinh lá. + Những từ láy: “run rẩy”, “rung rinh” + Mang đến những xúc cảm mạnh mẽ về mặt thính giác và những trải nghiệm về một mùa thu mới lạ và độc đáo. ð + Nhịp thơ 2/2/3 rất quen thuộc trong thể thơ 7 chữ của thơ Mới vẫn tạo được tính nhạc riêng nhờ nghệ thuật láy âm:  âm “iu” (liễu – đìu – hiu – chịu)  âm “ang” (tang – ngàn – hàng)  âm “uông” (buồn – buông – xuống) ð Các chữ thơ như quyện chặt vào nhau, dính vào nhau. Đặc biệt là ba chữ âm “ ang” (âm mở) lại là thanh không dấu và dấu huyền đứng ở cuối hai dòng thơ đã tạo nên một nhạc điệu buồn mênh mang lan toả thấm thía. ð Câu thơ không thể đọc nhanh mà phải đọc chậm theo một nhịp dàn trải từng chỗ lên bổng xuống trầm du dương thú vị. => Nhạc tính trong thơ Xuân Diệu là thứ nhạc tính mạnh mẽ với những âm sắc trầm độc đáo. Cách thể hiện mới lạ, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, dẫn dắt người đọc vào một thế giới hư hư thực thực, đầy âm sắc. => Cái tôi thi nhân mãnh liệt và giàu cá tính. 2. Nhạc tính trong thơ Xuân Quỳnh - Bên cạnh việc sử dụng những thể thơ tự do, Xuân Quỳnh là nhà thơ rất thích sử dụng những thể thơ truyền thống. => Thơ Xuân Quỳnh tồn tại sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, từ đó tạo nên mạch thơ trữ tình, tươi tắn. => Thơ của Xuân Quỳnh có nhạc điệu độc đáo, làm người thưởng thức có thể cảm thấy quen như đã gặp ở đâu, nhưng vẫn có trong thơ những cảm nhận mới lạ. - Ví như trong bài Thơ viết tặng anh: Tháng mười trời trải nắng hanh Có cô hàng phố phơi chăn trước thềm Gió qua lay động bức rèm Tấm gương trong suốt ánh đèn nê-ông + Sử dụng thể thơ lục bát => âm điệu du dương, nhẹ nhàng, đậm đà màu sắc dân tộc. + Xuân Quỳnh không quá chú trọng đến niêm luật, cho phép những cảm xúc được tự do trong thơ nhưng không vì thế mà thơ lục bát của bà mất đi vẻ mềm mại vốn có của nó. + Âm điệu trong thơ không trúc trắc mà vẫn êm ái như một lời thì thầm. Thơ lục bát của Xuân Quỳnh vẫn giữ được những uyển chuyển, dễ đọc và dễ thuộc như thể thơ truyền thống. - Thành công nhất của Xuân Quỳnh là phải kể đến thể thơ ngũ ngôn với những tác phẩm như: Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu… - Ngoài thành công trong việc sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật điển hình cho phong cách thơ của riêng mình, Xuân Quỳnh còn thể hiện được nhạc điệu quen thuộc, gần gũi, kéo gần khoảng cách giữa người sáng tác và người tiếp nhận thơ ca. - Thể hiện nhịp điệu trong thơ => Xuân Quỳnh đồng thời diễn tả nhịp điệu của trái tim mình, vừa nhẹ nhàng, duyên dáng nhưng cũng vừa sắc sảo, nồng nàn và da diết. B. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT - Macxim Gorki đã từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. => Nếu như âm nhạc lấy âm thanh làm chất liệu; hội hoạ dùng đường nét, màu sắc; kiến trúc được tạo nên từ những mảng khối, thì ngôn từ chính là chất liệu của tác phẩm thi ca. => Không có ngôn từ thì không làm nên được tác phẩm văn chương. - Ngôn từ trong thơ có những khác biệt so với ngôn từ bình thường, nó được xem là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ. + Ngoài việc biểu hiện tính nhạc còn biểu hiện hình ảnh, sắc màu trong thơ. + Là thứ ngôn ngữ có tính tinh luyện, hàm xúc; ngôn ngữ gợi hình cụ thể; và có tính biểu cảm cao Nhà thơ phải lựa chọn ngôn từ một cách khéo léo, sắp đặt chúng để tạo ra một bài thơ hoàn chỉnh. ð 1. Trong thơ Xuân Diệu - Cách sử dụng từ ngữ có vẻ tân kì và rất Tây: Trong bài thơ Đây mùa thu tới, tác giả sử dụng những từ như “hơn một” và “rụng cành”, thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng run rẩy”… => Những từ ngữ mới mẻ chưa từng có trước đây trong thi ca, đã tạo cho người đọc cảm giác kì lạ và độc đáo, đồng thời đó cũng là điểm đặc trưng cho thi cảm của Xuân Diệu. => Như một nhà quay phim cận cạnh tài ba, Xuân Diệu đã đưa sát ống kính thi ca vào từng cảnh vật, cảm nhận tinh tế dù chỉ là rung động khẽ khàng của nhánh cây nhỏ bé, mảnh mai, đang run lên tựa những dây đàn. => Người đọc không chỉ nhìn mà còn có thể nghe được, cảm được những rung động ấy. Chính vì vậy mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới” - Xuân Diệu là người đã đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế bằng việc sử dụng những động từ mạnh như: “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “cắn”, “ngoàm”, “hút” … Chúng ta đau, thôi em tới đây mà! Mơn man nào, em đừng khóc, đôi ta Thế, riết thế, hãy vòng tay chật nữa. Cho em hút những chút hồn đã rữa; Cho em chuyền hơi độc rất tê ngon (Sầu) + Tuy nhiên, không vì thế mà thơ Xuân Diệu trở nên trần trụi hay sống sượng, xác thịt mà trái lại thơ ông lại gợi lên những nồng nàn, thiết tha, rạo rực của tình yêu. ð Diễn tả một phần tất yếu của con người, mà khi đọc, người thưởng thức có thể dễ dàng đồng cảm với ông. 2. Trong thơ Xuân Quỳnh - Xuân Quỳnh ưu tiên sử dụng từ ngữ đơn giản, gần gũi với ngôn ngữ đời thường nhưng biết cách đặt chúng vào vị trí phù hợp nhất => Ngôn từ trong thơ Xuân Quỳnh có tính biểu cảm cao. - Viết về người phụ nữ rất gần, rất thật nhưng thơ vẫn hay và cuốn hút lạ thường: Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày (Thơ vui về phái yếu) + Hình ảnh người phụ nữ trong thơ được thi sĩ khắc hoạ rất đỗi bình thường và quen thuộc nhưng bằng cách nhìn nhận tinh tường và sự sắp xếp khéo léo => Xuân Quỳnh đã khẳng định vai trò không thể thiếu của phái yếu. - Làm nổi bật lên hình tượng người phụ nữ nhỏ bé nhưng giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó. Anh thân yêu, người vĩ đại của em Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối Một chút mặn giữa đại dương vời vợi Loài rong rêu chưa ai biết tới bao giờ Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua Là hạt bụi vô tình trên áo Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn. (Thơ vui về phái yếu) - Các nhân xưng gần gũi với những cách gọi thân mật hằng ngày: + Ngôi thứ nhất:“tôi”, “em”, “mẹ”, “ta”, “chúng tôi”... Ngôi thứ hai: “anh”, “con”, “các anh”… Ngôi thứ ba:“cha tôi”, “anh ta”, “cỏ”, “thuyền”, “sóng”..Đ - Đặc biệt, trong bài thơ Chị, Xuân Quỳnh đưa cả tên mình vào: Đi qua đường là phải trông xe Chị biết Quỳnh rất hay vô ý - Hình ảnh Xuân Quỳnh rất nữ tính, giàu cảm xúc, không chỉ dành cho chồng cho con mà bà còn thể hiện tình cảm của mình với mẹ chồng một cách tinh tế: Chắt chiu tự những ngày xưa Mẹ sinh anh để bây giờ cho em (Mẹ của anh) + “chắt chiu”: những tình cảm mà người mẹ đã dành cho con, sự biết ơn của người con dâu đối với mẹ chồng. ð Nhìn chung, Xuân Quỳnh là một giọng thơ trữ tình, linh hoạt, tự nhiên và đầy cá tính. Người ta nhận ra sự đằm thắm, sâu lắng trong mảng thơ tình; sự hồn nhiên, dí dỏm trong mảng thơ thiếu nhi; sự lạc quan, mạnh mẽ trong mảng thơ viết về cuộc sống. Những cảm xúc tươi mới kết hợp với kĩ thuật viết tài hoa đã tạo ra một Xuân Quỳnh rất đời mà cũng rất thơ. * Cách sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc: - Bằng nhãn quang bay bổng và lí tưởng của mình, Xuân Quỳnh đã vẽ ra những bức tranh thi ca đầy màu sắc và mê hoặc lòng người. + Thường sử dụng trong thơ những gam màu tươi sáng, là những màu mô phỏng màu có trong thực tế như: xanh, trắng, vàng, đỏ… Tần số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ Xuân Quỳnh là rất cao. => Người đọc thường nhận xét trong thơ Xuân Quỳnh có hoạ. Hàng bí ngô bên cạnh hàng bầu Xanh mườn mượt màu xanh rau muống Những bắp cải tròn vo đẫm nước Lớp rau cần óng ả xếp đầy quang Đỏ ối cà chua, vàng rực đậu vàng (Rau – Xuân Quỳnh) - Hay sử dụng nhất là màu xanh: màu sắc ưa nhìn, không chỉ biểu thị màu sắc của tạo vật mà đó còn là màu của ước mơ và hi vọng => tâm hồn thơ đầy mơ ước và luôn tươi mới của Xuân Quỳnh. Nắng đùa mái tóc Chồi biếc trên cây Lá vàng bay bay Như ngàn cánh bướm (Chồi biếc – Xuân Quỳnh) - Đa phần đều là những màu sắc cụ thể, không pha trộn, là những màu sắc của thế giới thực được phản ánh vào trong thơ, tạo cho người đọc cảm giác gần gũi và quen thuộc. => Điểm khác biệt của thơ Xuân Quỳnh so với thơ của Xuân Diệu. Thế giới màu sắc của Xuân Diệu có phần đa dạng hơn, vừa có màu thực, vừa có màu hư. Trong thơ của ông hoàng thơ tình thường tồn tại những màu sắc được pha trộn, đặc biệt là màu của cảm xúc. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu) Hay như: Trăng ở đó. Đất vườn thêu bóng lá Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng… Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời; Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa. (Hoa đêm – Xuân Diệu) - Xuân Quỳnh hầu như không sử dụng những màu sắc mang tính chất ước lệ, chỉ sử dụng những màu chuẩn của sự vật, không dùng màu đã pha trộn. + Trong thực tế những gam màu chuẩn thường không đủ để diễn tả hết những màu sắc của sự vật nên người ta thường dùng thêm những màu pha tạp của sự vật => cách sử dụng màu mang tính chất ước lệ và thường gặp trong thơ cổ. ð Điểm khác biệt giữa thơ Xuân Quỳnh và thơ Xuân Diệu. + Mặc dù được xem là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới nhưng Xuân Diệu vẫn sử dụng những màu sắc ước lệ trong thơ. Ta gửi trời ta giữa mắt nào Ở gần má lửa, cạnh mày dao... Khi ta trở lại, trời đâu vắng Lạnh lẽo mày xanh phản má đào. (Gửi trời – Xuân Diệu) - Đôi lúc các tác giả này cùng sử dụng những từ giống nhau nhưng lại mang ý nghĩa và hiệu quả thẩm mĩ khác nhau. Cách cảm nhận về biển của họ khác nhau, với Xuân Diệu: Đã hôn rồi hôn lại Cho đến mãi muôn đời Đến tan cả đất trời Anh mới thôi dào dạt... (Biển – Xuân Diệu) + Động từ “tan”: một tình yêu mạnh mẽ, ước muốn cháy bỏng muốn làm tan chảy mọi thứ xung quanh, khiến người đọc cảm nhận được tình cảm mãnh liệt của một người đàn ông với mong muốn khát khao chinh phục. >< Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng sử dụng động từ ấy trong bài Sóng nhưng lại mang đến cho người đọc những cách cảm hoàn toàn khác so với Xuân Diệu: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Ðể ngàn năm còn vỗ. (Sóng – Xuân Quỳnh) + Động từ “tan” được đặt trong câu thơ: “Làm sao được tan ra”: như một câu hỏi tu từ, diễn tả ước muốn được yêu trong một tình yêu rộng lớn và vĩnh cửu. => Cách thể hiện của Xuân Quỳnh có phần kín đáo, nhẹ nhàng và đằm thắm hơn. Nhà thơ hỏi để mà khẳng định ước muốn, khao khát có được tình yêu, chứ không bộc lộ một cách trực tiếp và mạnh mẽ như thi sĩ Xuân Diệu. C. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT - Một bài thơ hay và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai là một bài thơ có hình tượng nghệ thuật độc đáo => biểu hiện cho tư duy nghệ thuật của tác giả, là sự phản ánh hiện thực trong tính toàn vẹn, sinh động, cảm tính, cụ thể theo quy luật của cái đẹp, giúp người độc nắm bắt được quan niệm và phong cách sáng tác của tác giả. - Bằng việc lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ. + Những hình tượng nghệ thuật trong thơ tình của họ, thoạt nhìn có vẻ giống nhau, như cùng một môtíp nhưng khi tiến hành khảo sát và phân tích sẽ thấy được nhiều điểm dị biệt thú vị. 1. Hình tượng trái tim * Đối với Xuân Diệu: - Xuân Diệu không phải là người duy nhất đưa trái tim vào trong thi ca. + Trong văn học, đã từ lâu trái tim được coi là biểu tượng của tình yêu, của tình cảm con người, hình tượng này đã xuất hiện rất nhiều trong văn học cũng như trong đời sống. + Rất nhiều những tác gia lớn trên thế giới khi đề cập đến tình yêu thì thường hay nói tới trái tim: “Ái tình không nhìn bằng mắt mà cảm nhận bằng trái tim. Vì vậy nhân loại khắc hoạ thần tình ái có hai cánh nhưng con mắt mù loà” (W. Shakespeare). - Ở Việt Nam, hình ảnh trái tim vốn được du nhập từ phương Tây, đã được các nhà văn nhà thơ sử dụng làm biểu tượng về tình yêu trong các sáng tác của mình => Những sáng tác của Xuân Diệu cũng không ngoại lệ. - Hình ảnh “trái tim” được sử dụng rất hiệu quả trong việc diễn tả các cung bậc tình yêu trong thơ Xuân Diệu, giúp ông thể hiện một tình yêu đích thực, giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm hồn. Ông cảm nhận tình yêu bằng tất cả trái tim và tâm hồn nghệ sĩ của mình. Trái tim em thức đập Nơi gốc của thời gian Một nhịp mạnh nhịp khẽ Ẩy tay anh nồng nàn Anh gìn giữ trái tim Cho em yên giấc ngủ... … Trái tim em lạc đường Anh thức hoài thức huỷ Anh là trái tim thương (Trái tim em thức đập – Xuân Diệu) - Trái tim cũng chính là nơi thể hiện sự tự cảm thấy mình, là nơi suy nghĩ và thể hiện lăng kính nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc sống, con người của tác giả. Ngoài việc thể hiện trực tiếp hình tượng trái tim bằng chính từ ngữ ấy, tác giả còn thể hiện hình tượng bằng từ “lồng ngực” dựa trên mối quan hệ liên tưởng giữa chỉnh thể và bộ phận để nói về những cung bậc cảm xúc của tình yêu => mang lại những nhục cảm rất thực trong thơ. Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài! Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt! (Xa cách – Xuân Diệu) + Trong tình yêu, Xuân Diệu là người rất mãnh liệt => ông luôn cảm thấy không bao giờ là đủ. muốn người yêu sát lại gần mình, gần đến mức có thể nghe được từng nhịp thở của nhau, gần hơn nữa để hai trái tim cùng hoà nhịp yêu thương. * Đối với Xuân Quỳnh: - Xuân Quỳnh có xu hướng đi tìm một cách lí giải khác cho hình tượng trái tim: đưa trái tim về đúng với chức năng và nghĩa thực của nó. Em trở về đúng nghĩa trái tim Biết làm sống những hồng cầu đã chết Biết lấy lại những gì đã mất Biết rút gần khoảng cách yêu tin… Em trở về đúng nghĩa trái tim em (Tự hát – Xuân Quỳnh) - Xuân Quỳnh không nói đến những gì quá cao siêu, quá bóng bẩy mà chỉ đề cập đến một trái tim bình thường, một trái tim bằng máu thịt mà ai cũng có. Nhưng lại khác thường là bởi: “biết yêu anh cả khi chết đi rồi!”. Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim đập chẳng vì anh. (Chỉ có sóng và em – Xuân Quỳnh) => Tình yêu rất đỗi thiêng liêng nhưng cũng vô cùng giản dị, nó ở ngay xung quanh ta và ta có thể cảm nhận được, không đơn giản là bằng mắt nhìn mà phải cảm nhận nó theo từng nhịp đập của con tim. 2. Hình tượng hoa * Trong thơ Xuân Diệu - Xuân Diệu là nhà thơ vô cùng nhạy cảm với thiên nhiên => hình ảnh của cỏ, cây, hoa, lá được nhà thơ sử dụng làm chất liệu để viết lên những trang thơ tình lãng mạn. - Trong số đó, hoa là vật có hương sắc và năng lực quyến rũ nhất, không thể thiếu được trong thơ ông. Hình ảnh này xuất hiện trong thơ ông có khi là hoa thật trong đời sống. Chen lá lục, những búp lài mở nửa Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh; (Hoa đêm – Xuân Diệu) - Nhưng thông thường khi hình ảnh hoa đi vào thơ ông, ông luôn xem chúng như một chủ thể trữ tình sống động: Ôi vắng lặng! – Trong giờ mơ ngủ ấy Bông hoa lài thức dậy, sáng từng đôi… Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ, Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu! (Hoa đêm – Xuân Diệu) - Có lúc ông gọi thẳng: hoa kĩ nữ. Phải chăng kỹ nữ đẹp như hoa mà hoa cũng là kỹ nữ, người và hoa lúc này là một. “Miệng thở ra hương, hương toả tình ngầm/ Hoa kĩ nữ đã mở lời trêu ghẹo…” ð Tạo ra sự kết hợp từ độc đáo: người hoa “Có lẽ người hoa nay đã tươi” (Gặp gỡ I), môi hoa “Và các môi hoa như sắp nói:/ Ái tình đẹp tợ chúng em đây.” (Rạo rực). ð Hình ảnh hoa trong đời thực khi bước vào thơ của Xuân Diệu đã trở nên rất khác biệt, ông dùng hoa để nói đến người, nói đến vẻ đẹp của con người và tình yêu. ð Điểm khác biệt so với hình tượng hoa trong thơ của Xuân Quỳnh. * Trong thơ Xuân Quỳnh: - Có một hồn thơ nồng nàn và nhạy cảm => khi bắt gặp vẻ đẹp của hoa, Xuân Quỳnh cũng có những rung động của riêng mình. => Vì sao Xuân Quỳnh lại đặt tên hai tập thơ của mình có liên quan đến hình ảnh này, đó là tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968) và tập thơ Hoa cỏ may (1989). - Hình tượng hoa trong thơ Xuân Quỳnh so với thơ Xuân Diệu có nhiều điểm khác biệt. - Thơ tình Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp nao lòng của hoa dưới ánh trăng đêm: “Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời/ Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa” (Hoa đêm) >< thơ Xuân Quỳnh những hình ảnh hoa được đưa vào thơ lại là những cánh hoa rất bình dị và nhỏ bé như: “mùa hoa doi”, “hoa ti gôn”, “hoa tường vi”, “hoa cỏ may”, hay đơn giản chỉ là loài “hoa dại trên núi Hoàng Liên”… - Hoa trong thơ Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp mong manh, kín đáo và có phần thầm lặng, gợi hình ảnh e ấp, dịu dàng của những cô gái tuổi đôi mươi. Hoa nếp mỏng manh trước tầm gió thổi Hoa diếp vàng cô độc giữa thâm u Và bên đường hoa nghệ dại ngẩn ngơ Hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã Hoa lay ơn góc vườn xưa còn nhớ Mà thấy người cành lá khẽ lung lay… (Hoa dại trên núi Hoàng Liên) - Hình tượng hoa không gắn với người nào cụ thể mà gắn với những kỉ niệm về tình yêu. Mỗi bài thơ như một mảnh ghép nho nhỏ về ký ức. Và vẻ đẹp của hoa như một chất xúc tác mạnh mẽ thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương trong trái tim của người con gái. Anh có nghe hoa doi Quanh chỗ mình đứng đó? Hoa ơi sao chẳng nói Anh ơi, sao lặng thinh? (Mùa hoa doi) - Bằng hình tượng những loài hoa có thật trong đời sống, Xuân Quỳnh làm người ta ngạc nhiên trước những lời tâm tình rất ngây thơ, nồng nàn của một cô gái chớm yêu, nhưng lại mang giọng điệu trầm tĩnh của một người phụ nữ từng trải. Anh đừng hỏi tên hoa làm chi nữa Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi!… Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ… Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi. (Hoa dại trên núi Hoàng Liên) ð Nhà thơ thấy được vẻ đẹp thầm kín và lặng lẽ của mỗi loài hoa, thấy được sự hi sinh, không cần được đáp lại, không cần được biết đến. ð Phải là người tinh tế và nhạy cảm mới có thể rung động và cảm thông trước nỗi niềm của hoa kia. => Nhìn chung, thơ Xuân Quỳnh như là nhật kí, là tình yêu, là sự tri ân… được viết bằng tất cả cái sôi nổi, đắm say của trái tim, chắt hết phần tinh tuý nhất của mình vào sáng tạo nghệ thuật một cách có trách nhiệm và đầy tự chủ. => Không khó để nhận ra phong cách thơ Xuân Quỳnh, bởi trong mỗi trang viết tồn tại một cái tôi trữ tình: trẻ trung mà chững chạc, mãnh liệt mà nữ tính, mâu thuẫn mà thống nhất. => Thơ bà luôn gắn bó mật thiết với cuộc đời, mơ ước luôn trỗi dậy xanh tươi giữa hiện thực khắc nghiệt, đẹp như một bông cúc xanh tràn đầy hivọng giữa muôn ngàn sắc hương của thi đàn Việt Nam. III. KẾT LUẬN - Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là niềm tự hào của thơ ca Việt Nam. Cả hai người đều giống nhau ở giọng thơ nồng nàn, da diết và đều có chung tâm trạng lo lắng, cuống quýt trong tình yêu - Tuy nhiên, phong cách ngôn ngữ với những đặc điểm vừa khát biệt vừa tương đồng đã khiến họ trở nên nổi bật, lưu lại trong lòng độc giả những dấu ấn rất riêng khiến Xuân Diệu và Xuân Quỳnh trở thành “ông hoàng, bà hoàng thơ tình Việt Nam” - Chính sự đặc sắc và phong phú, độc đáo trong nghệ thuật ấy đã góp phần làm nên giá trị hấp dẫn cho những tác phẩm của hai “viên ngọc toàn bích” trong nền thơ tình Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/382/Default.aspx http://text.xemtailieu.com/tai-lieu/xuan-dieu-xuan-quynh-hai-phong-cach-tho-tinh-541760.html http://thayhieu.net/sanh-song-va-voi-vang/ http://nguyendinhminh.net/index.php/tu-lieu-van-hoc/chuyen-lang-van/258-v-mt-cuc-qoi-coqgia-hai-thi-s
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan