PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
................
MÃ SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI,
THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ
Lĩnh vực : Chủ nhiệm
Cấp
: Tiểu học
Năm học 2016 – 2017
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
................
MÃ SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI,
THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ
Lĩnh vực : Chủ nhiệm
Cấp
: Tiểu học
Năm học 2016 –2017
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................... 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 2
III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................... 2
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 2
V. ỨNG DỤNG..................................................................................................... 2
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ......................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................................... 3
1.1.Những căn cứ khoa học. .................................................................................. 3
1.2 Cơ sở lí luận của đề tài. .................................................................................. 3
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN ........................................................................................ 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.................................... 5
I. Mục đích của việc nghiên cứu thực trạng: ......................................................... 5
II. Cách tiến hành nghiên cứu thực trạng .............................................................. 5
III. Kết quả khảo sát học tập của học sinh đầu năm học 2016 - 2017: ................. 5
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN .................................................. 6
I. Tạo ấn tượng tốt đẹp trong học sinh ngay từ buổi đầu tiên gặp mặt. ................ 6
II. Tạo sự gần gũi, thân thiện với học sinh trong từng tiết học. ............................ 9
III. Gần gũi, thân thiện với học sinh trong các hoạt động khác của trường, lớp. 16
IV. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. . 17
1. Đổi mới phương pháp dạy học. .................................................................... 17
2. Tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau ................................................ 17
3. Phát huy tối đa hiệu quả của đồ dùng dạy học............................................. 20
4. Tạo ra môi trường học tập công bằng, thân thiện, hứng thú cho học sinh. . 21
V. Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh............................................................ 23
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................... 28
1. Kết luận ......................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Khuyến nghị .................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..30
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công cuộc đổi mới của xã hội hiện nay, một nền giáo dục tiến bộ
được coi là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Sinh thời Bác Hồ đã nói:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai cùng với cường quốc năm châu được hay không
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đúng vậy, tất cả những
điều đó đều bắt đầu từ giáo dục mà nên, mà khởi nguồn là giáo dục Tiểu học.
Trong bậc Tiểu học thì lớp Một là môi trường đầu tiên các em được làm
quen với trường Tiểu học. Đây là một việc rất mới lạ nên các em thường bỡ ngỡ
và lúng túng. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm lớp Một là cầu nối rất quan
trọng giúp các em làm quen và nhanh chóng hòa nhập với môi trường học tập.
Giáo viên chủ nhiệm lớp Một luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc dạy dỗ và giáo dục học sinh. Ngoài việc truyền thụ kiến thức cho các
em chúng ta còn phải uốn nắn, rèn luyện cho các em từ lời ăn, tiếng nói và rèn
luyện kĩ năng hình thành nhân cách cho học sinh.
Đúng vậy, các cụ xưa đã có câu:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc thôi.”
Mỗi viên ngọc muốn có một giá trị nhất định như chúng ta hằng mong
muốn thì cần phải có những người thợ khéo tay mài dũa mà nên. Học sinh lớp
Một ví như những viên ngọc thô nếu được giáo dục toàn diện thì sẽ trở thành
công dân có ích cho xã hội, góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất
nước sau này. Đúng là: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.
Thực tế cho thấy việc định hướng, kích thích học sinh Tiểu học, đặc biệt
là học sinh lớp Một hăng say học tập là một điều vô cùng quan trọng.
Học sinh lớp Một được ví như tờ giấy trắng rất hồn nhiên trong quan hệ
với các bạn và mọi người xung quanh. Học sinh rất tin vào những điều được
học, được nghe hằng ngày thầy cô dạy bảo. Vậy làm thế nào để tạo dựng được
mối quan hệ thân thiện giữa cô và trò để từ đó lôi cuốn học sinh tham gia tích
cực vào việc học tập là điều mà tôi đã từng băn khoăn trăn trở bấy lâu nay. Cuối
cùng tôi cũng tìm ra được một giải pháp tốt nhất cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm,
đó là: “Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.” Từ đó kích
thích học sinh hăng say học tập.
1/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu nội dung của đề tài nhằm giúp giáo viên chủ nhiệm lớp đặc
biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp Một có điều kiện để xây dựng mối quan hệ thân
thiện giữa cô và trò từ đó góp phần kích thích học sinh hăng say học tập.
III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHẠM VI NGHIÊN cøu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp Một.
- Thời gian tôi tiến hành nghiên cứu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 4
năm 2017.
- Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành được đề tài này tôi cần làm tốt các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận cơ bản làm cơ sở khoa học của đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng việc xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện
giữa cô và trò.Trên cơ sở đó phân tích thực trạng để tìm ra biện pháp đổi mới
việc xây dựng mối quan hệ này, kích thích học sinh hăng say học tập.
- Tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng mối quan hệ gần gũi,
thân thiện giữa cô và tròđể các em tích cực học tập góp phần nâng cao chất
lượng dạy học và kết quả giáo dục toàn diện của nhà trường.
V. ỨNG DỤNG
Đối với học sinh lớp Một việc ứng dụng quan hệ gần gũi thân thiện giữa
cô và trò sẽ thu hút học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập, giúp các
con tự tin hơn khi tiếp thu các kiến thức, phát huy khả năng tư duy độc lập sáng
tạo một cách phong phú và đa dạng, tạo nguồn cảm hứng, sự say mê học tập của
học sinh lớp Một.
2/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. C¬ së lÝ luËn.
1.1.Những căn cứ khoa học.
1.1.1 Luật giáo dục (ban hành năm 2005)
Chương 2, mục 2, điều 23 của luật giáo dục đã chỉ rõ mục tiêu của giáo
dục Tiểu học: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”
Chương 2, điều 3 có chỉ rõ hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên
lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội.
1.1.2 Điều lệ trường Tiểu học.
Trong điều lệ quy định hoạt động giáo dục trong nhà trường Tiểu học
được chia thành hai bộ phận: hoạt động giáo dục trên lớp và hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp. Mỗi bộ phận trên đều có chức năng là thực hiện mục
tiêu giáo dục.
1.1.3 Nhiệm vụ năm học của các trường Tiểu học.
Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội có hướng dẫn: Mục tiêu giáo dục Tiểu học
được thực hiện thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học trong trường Tiểu
học. Hoạt động dạy học được thực hiện với hình thức lên lớp là hoạt động đặc
trưng, là hoạt động chủ yếu của nhà trường. Việc tổ chức các hoạt động tập thể
cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, nhằm hỗ trợ và bổ sung cho hoạt độngdạy
học chính khoá nhằm thay đổi không khí học tập, tạo nên hứng thú tích cực cho
các em.
1.2 Cơ sở lí luận của đề tài.
Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm, sự gần gũi, thân thiện của cô giáo có
vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn liền với sự nhận thức của trẻ. Sự thân
thiện ấy không chỉ kích thích trẻ nhận thức mà còn thúc đẩy trẻ hoạt động, khám
phá, tự vươn lên trong học tập.
Học sinh lớp Một lần đầu tiên đến lớp nên rất e ngại khi tiếp xúc với cô,
với bạn mới. Có em còn khóc lóc, bám chặt lấy bố mẹ không chịu vào lớp. Có
em lại nhất định đòi bố mẹ phải vào ngồi cùng trong lớp. Đây cũng là lúc giáo
viên cần khéo léo tạo sự an tâm, tin tưởng cho các em để các em có thể tự tin
vào ngồi trong lớp học mà không còn lo sợ nữa. Sự gần gũi, ân cần, sự quan tâm
nhẹ nhàng, sự cởi mở chân tình của cô giáo ngay từ lần đầu tiên đến lớp sẽ tạo
nên những xúc cảm mạnh mẽ và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ
3/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
của các em. Như vậy xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò
tức là chúng ta đã đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách cho
học sinh lớp Một nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Lứa tuổi học sinh Tiểu học đang trong thời kì phát triển, đây cũng là lúc
các em chuyển từ hoạt động chủ đạo chơi là chủ yếu (ở trường Mầm non) sang
hoạt động học là chủ yếu (ở trường Tiểu học). Các em thường rất dễ nhớ những
cũng rất dễ quên, mức tập trung chú ý còn thấp, vì vậy giáo viên cần tạo hứng
thú học tập và niềm tin cho trẻ để trẻ có thể yên tâm ngồi học mà không phải lo
sợ bất kì một việc gì cả.
Có một câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó
uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi
ngay ngắn trong lớp nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được.
Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người thầy, tôi
nghĩ rằng mình cần phải biết tạo niềm tin và gây hứng thú học tập cho học sinh
để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách
tự nhiên, không gượng ép. Đó là điều làm tôi phải suy nghĩ, trăn trở để tìm cách
gây dựng được mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò từ đó gây hứng
thú học tập cho học sinh.
4/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG:
Khảo sát thực trạng việc xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện với
học sinh để từ đó kích thích tinh thần hăng say học tập cho các em nhằm mục
đích là:
- Xác định biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp mà tôi được phân
công chủ nhiệm.
- Phân tích thực trạng để tìm hiểu và xác định nguyên nhân dẫn đến hạn
chế của việc giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân thiện với học sinh và học sinh
cũng rất lo sợ khi phải nói chuyện với các thầy cô giáo. Đây chính là cơ sở khoa
học cần thiết để cải tiến, xây dựng những biện pháp đổi mới của đề tài nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạtđộng dạy học trong nhà trường.
Để nghiên cứu thực trạng đạt kết quả tốt, cần thực hiện nghiêm túc một số
yêu cầu: đảm bảo tính kế hoạch, có sự chuẩn bị chu đáo, có tính linh hoạt, mềm
dẻo, tính thực tiễn, tính khoa học, tính kế thừa, tính hệ thống…
II. CÁCH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
Tôi đã tiến hành phối kết hợp một số cách thức và biện pháp là:
- Dự giờ đồng nghiệp đặc biệt là các tiết dự thi của các đồng chí tham gia
hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi.
- Tham khảo ý kiến của Ban giám hiệu về kế hoạch xây dựng công tác
chủ nhiệm lớp cho giáo viên.
- Trao đổi, trò chuyện với học sinh và cha mẹ học sinh về mối quan hệ
gần gũi giữa giáo viên và học sinh, thu thập thêm những thông tin cần thiết để
xây dựng đề tài.
III. KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ĐẦU NĂM
2016 - 2017:
Kiến thức – Kĩ năng
HTT
HT
CHT
13HS 36HS
3HS
Năng lực
Tốt
Đạt
CCG
35HS
14HS
3HS
Phẩm chất
Tốt
Đạt
CCG
35HS 14HS
3HS
Việc nghiên cứu để xác định rõ thực trạng và tìm hiểu kĩ về biện pháp xây
dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh chính là cơ sở
để tôi suy nghĩ, mạnh dạn cải tiến và tìm ra các biện pháp xây dựng mối quan hệ
gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học sinh hăng say học tập đồng
thời góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học.
5/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
CHƯƠNG III:CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một khi đến trường các em còn nhiều
bỡ ngỡ, lần đầu tiên được làm quen với nội quy trường lớp, với những môn học
và biết bao hoạt động khác mà ở trường Mầm non các em chưa từng được trải
qua. Vậy phải làm thế nào để giúp trẻ tập trung học tập, có ý thức rèn luyện để
trở thành con ngoan, trò giỏi.Người dìu dắt, giúp đỡ các em vượt qua những bỡ
ngỡ này, đó chính là cô giáo chủ nhiệm. Sau đây là những giải pháp tôi đã làm
để xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học
sinh hăng say học tập.
I. TẠO ẤN TƯỢNG TỐT ĐẸP TRONG HỌC SINH NGAY TỪ
BUỔI ĐẦU TIÊN GẶP MẶT.
Như chúng ta đã biết, trước khi vào năm học mới bao giờ giáo viên nói
chung và giáo viên lớp Một nói riêng cũng có một buổi nhận lớp, làm quen với
học sinh. Đây là lúc thích hợp nhất để tôi thể hiện sự thân thiện của mình với
học trò ngay từ buổi gặp mặt đầu tiên. Ngày hôm đó các em thường được cha
mẹ hoặc ông bà đưa đến lớp. Các em rất hào hứng cho buổi đầu tiên đến trường
này. Nhưng khi đến lớp gặp bạn mới, cô giáo mới thì các em lại rất e ngại và
không dám vào lớp một mình. Có em còn bám chặt lấy mẹ hay là bất ngờ khóc
rất to và kiên quyết đòi về nhà không chịu vào lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm
có nhiều năm trực tiếp giảng dạy học sinh lớp Một nên tôi đã rất quan tâm đến
việc này và tôi đã cố gắng tạo sự an tâm, tin tưởng vào cô giáo cho các em để
các em bớt đi phần nào sự sợ hãi đó.
Đầu tiên tôi tươi cười, nhẹ nhàng giới thiệu cho các em biết đôi điều về
bản thân mình cũng như về trường, lớp mới nơi mà các em sẽ học tập trong năm
học này. Sau đó gọi những bạn nhanh nhẹn, hoạt bát tự giới thiệu về bản thân,
về trường Mầm non, về cô giáo cũ của con và hỏi xem con có vui khi được đi
học lớp Một không?
Tiếp đến tôi bắt đầu trò chuyện với học sinh để các em nói lên suy nghĩ
của mình. Tôi giới thiệu cho các em xem một vài hình ảnh về các hoạt động học
tập, vui chơi của các anh chị lớp trên.Một số hình ảnh như sau:
6/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Học sinh tham gia chơi kéo co
Học sinh chơi rồng rắn lên mây
7/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Lễ trao phần thưởng cho học sinh tiêu biểu
Học sinh tham gia thi Hội thi giai điệu tuổi hồng cấp trường
8/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Tôi tin rằng với việc làm của mình các con sẽ cảm thấy vui thích khi đến
trường Tiểu học.Với học sinh quá nhút nhát thì buổi học đầu tiên tôi cho em đó
ngồi gần bạn cùng học ở trường Mầm non hay ngồi gần bạn cùng giới và nhanh
nhẹn hơn để giúp bạn nhanh chóng làm quen với trường lớp mới.
Từ đó làm giảm sự căng thẳng cho học sinh bằng cách cho các con vui hát
những bài hát mà con yêu thích. Việc làm này vô cùng cần thiết nó vừa động
viên khích lệ học sinh vừa tạo cho các con cảm giác yên tâm khi bước chân vào
học lớp Một.
II. TẠO SỰ GẦN GŨI, THÂN THIỆN VỚI HỌC SINH TRONG
TỪNG TIẾT HỌC.
Do đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là trí nhớ trực quan – hình
tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - logic. Các em thường nhớ và giữ gìn
chính xác những sự vật hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định
nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Học sinh lớp Một có khuynh hướng ghi
nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần một vấn đề nào đó, có khi chưa
hiểu hết những mối liên hệ, ý nghĩa của vấn đề đó. Chính vì vậy nhiệm vụ của
giáo viên là gây dựng cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn các em thủ
thuật ghi nhớ tài liệu học tập, kiến thức mà cô truyền đạt. Chỉ cho các em đâu là
điểm chính, điểm quan trọng của bài học, tránh cho học sinh ghi nhớ máy móc
hay chỉ là học vẹt.
Trong khi dạy kiến thức mới tôi luôn luôn động viên khích lệ học sinh tự
quan sát, nhận xét và tư duy để tìm ra kiến thức mới. Với câu hỏi tìm hiểu bài
mà cô đưa ra cho học sinh trả lời tôi luôn động viên học sinh: “Các con hãy
mạnh dạn lên nhé!”. Rồi hỏi học sinh ở dưới lớp: “Bạn nào muốn có câu trả
lời?”. Khi có học sinh nào đó trả lời đúng nhưng chưa đủ ý của câu hỏi thì tôi vỗ
về các con bằng câu nói: “Con trả lời tốt lắm, có ai muốn bổ sung gì cho bạn
không nhỉ?”. Còn nếu học sinh trả lời đúng, trọn ý của của câu hỏi thì tôi lập tức
khen luôn: “Đó là một câu trả lời xuất sắc, chúng mình cùng khen bạn nào.” Cứ
như vậy học sinh sẽ mạnh dạn giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, lớp học rất
sôi nổi và các em tíếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Khi gọi học sinh đọc bài cũng vậy, tôi luôn luôn yêu cầu các con đọc bài
to, rõ ràng. Cứ như thế tôi luôn vỗ về học sinh bằng những câu động viên, khích
lệ rằng con cứ yên tâm, những âm nào, tiếng nào, từ nào không nhớ, đọc sai thì
cô sẽ giúp con sửa sai,con đừng sợ. Vì vậy dần dần đã tạo cho học sinh thói
quen mạnh dạn, tự tin và đãđọc to, lưu loát ngay từ tiết học đầu tiên. Tuy nhiên
trong khi học sinh thực hành làm bài tập không thể tránh khỏi sai sót. Tuỳ vào
9/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
từng trường hợp sai của học sinh mà cô có hướng giải quyết khác nhau từ đó tạo
cho học sinh tâm lí thật thoải mái tự tin khi học bài.
Ví dụ 1: Chẳng hạn trong phần Học vần của môn Tiếng Việt, học
sinhđược học âm “b” từ bài 2. Lúc này các con đã biết đọc, viết, nhớ tên âm và
tên chữ cái của nó. Đến bài 14 các con lại được học âm mới là “d, đ”. Khi đó rất
nhiều em lúng túng không phân biệt được đâu là “b” và đâu là “d”.
Hay ở bài 3 con được học dấu thanh sắc “/” và ở bài 5 con được học dấu
thanh huyền “ \”, đến đây nhiều học sinh lại nhầm lần hai dấu này với nhau.
Còn ở bài 22 các con được học âm mới là “p, ph, nh”, đến bài 24 các con
lại được tiếp âm mới là “q, qu, gi” , lúc này các con lại lúng túng khi không
phân biệt được đâu là “q” đâu là “p”. Trước tình trạng đó tôi đã:
1. Tìm hiểu nguyên nhân.
Nguyên nhân của tình trạng học sinh có sự nhầm lẫn giữa chữ “p” với chữ
“q”; chữ “d” với chữ “b”; nhầm dấu thanh “ /” với dấu thanh “ \” … là do tri
giác của học sinh lớp một mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang
tính không chủ động, do đó các em phân biệt những đối tượng này chưa chính
xác, lúc nhớ, lúc quên.
2. Cách giải quyết
Trong từng tiết học cô giáo luôn tạo cho học sinh những định hướng mốc
tri giác. Chẳng hạn giúp học sinh phân biệt đâu là tay phải, đâu là tay trái, sau đó
phân tích cho các em thấy chữ “q” có nét sổ thẳng ở bên tay phải còn chữ “p” lại
có nét sổ thẳng ở bên trái (hai nét này đều là nét sổ thẳng được viết xuống dưới
đường kẻ ngang thứ nhất là hai ô li). Hay chữ “d” có nét sổ thẳng ở bên phải còn
chữ “b” lại có nét sổ thẳng ở bên trái (hai nét này đều là nét sổ thẳng được viết
từ đường kẻ ngang số bốn xuống dưới đường kẻ ngang thứ nhất). Tương tự như
vậy, dấu thanh “ /” được viết giống nét xiên phải còn dấu thanh “ \” lại được viết
giống nét xiên trái.Để giúp học sinh ghi nhớ một cách dễ dàng, giáo viên có thể
nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các em ghi nhớ. Nếu trong quá trình dạy có em
nào quên thì cô giáo lại nêu lại qui ước đơn giản đó để giúp các em tự phát hiện
và nhớ ra tên của các chữ cái đó.
Với học sinh tiếp thu chậm, thường xuyên nhầm lẫn giữa hai chữ cái
này với nhau, ngay cả khi tôi đã nhắc lại quy ước đó mà em vẫn không nhớ
ra thì có thể gọi bạn khác nhắc bạn rồi yêu cầu em học sinh đó đọc lại. Lần
sau khi gọi học sinh đọc bài mà bạn đó đọc đúng tên chữ cái thì giáo viên
tuyên dương ngay trước lớp để động viên khích lệ học sinh. Tôi cảm thấy
em đó rất vui khi mình được cả lớp vỗ tay cổ vũ, như vậy lần sau emđó sẽ
10/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
cố gắng vươn lên trong học tập để theo kịp các bạn trong lớp và nhận được
nhiều tràng vỗ tay của các bạn hơn.
Ví dụ 2: Học sinh lớp Một thường hay mắc lỗi chính tả, ngay cả khi cô
giáo đọc lại cho cả lớp soát lỗi mà vẫn không phát hiện ra. Hay làm sai một phép
tính nào đấy, cho dù cô nhắc là con kiểm tra lại bài đi mà vẫn không phát hiện ra
mình làm sai phép tính nào cả.Đây là chuyện thường gặp khi trực tiếp giảng dạy
học sinh lớp Một học toán. Tôi đã tìm cách khắc phục tình trạng này như sau:
1. Tìm hiểu nguyên nhân:
Đánh giá kết quả hoạt động học tập của bản thân là một việc làm rất mới
với học sinh lớp Một. Nó chưa thể trở thành kĩ năng cho các em được vì khả
năng tập trung chú ý vừa nghe, vừa nhìn, vừa viết bài còn rất kém. Khả năng ghi
nhớ các quy tắc ngữ pháp còn nhiều hạn chế, nó rất cần sự rèn luyện thông qua
các hoạt động học tập dưới sự tác động sư phạm của cô giáo.
Trong khi tính toán cũng vậy, nếu lần đầu tiên con đã tính ra kết quả thì
lần sau con cũng sẽ dễ dàng tính sai kết quả.
2. Cách giải quyết.
Với những bài học sinh viết sai chính tả, tôi viết lại từ đúng lên bảng và
cho học sinh đối chiếu từ của cô với từ con viết trong vở. So sánh như vậy các
em sẽ dễ dàng nhận ra lỗi sai của mình. Bằng kinh nghiệm giảng dạy của bản
thân để tránh trường hợp học sinh viết sai nhiều tôi hướng dẫn cho các con viết
vào bảng trước. Đến lúc viết vào vở, tôi nhắc học sinh nhẩm đọc lại từ và tự nhớ
lại quy tắc chính tả trước khi viết.
Trong quá trình dạy học sinh tôi hình thành cho các con thói quen sau khi
viết xong một chữ là con sẽ nhẩm lại xem mình viết đúng chưa, có đủ dấu thanh
chưa, nếu thiếu thì phải bổ sung ngay lập tức. Như vậy các em sẽ ít sai lỗi chính
tả hơn. Một việc làm rất quan trọng giúp học sinh phát hiện ra lỗi sai của mìnhlà
tôi cho các con đổi chéo vở để tự kiểm tra bài của nhau.
Trong môn Toán cũng vậy, ngoài việc hình thành cho các con kĩ năng tự
kiểm tra bài của mình, tôi cũng tổ chức cho đổi chéo kiểm tra như môn Tiếng
Việt. Việc làm đó cũng giúp học sinh dễ dàng phát hiện và sửa lỗi sai của bản
thân. Cũng có thể giúp học sinh sửa sai bằng cách cô chỉ vào phép tính sai, bài
toán sai và nhắc nhẹ nhàng “Con kiểm tra lại phép tính này đi!”. Khi đó học sinh
sẽ tự tính toán lại và nhận ra ngay sai sót của mình. Cần lưu ý là thấy học sinh
làm bài sai tránh quát mắng ầm ĩ làm cho các em hoảng sợ sẽ mất tập trung và
không thể học được. Khi học sinh làm sai, tôi thường chỉ cho các em thấy mình
sai ở đâu và sửa sai như thế nào. Từ đó, học sinh vừa yên tâm vì khi làm sai
không bị cô mắng lại còn biết cách sửa sai kịp thời. Vì vậy các con hoàn toàn tự
11/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
tin trong học tập và thế là tôi đã thành công trong việc dạy dỗ và giáo dục học
sinh của mình.
Với thái độ ân cần nhẹ nhàng của cô, học sinh sẽ cảm thấy rất thoải mái,
tự tin trong học tập, không phải lo ngại mình làm sai sẽ bị cô giáo mắng phạt gì
cả.Không chỉ trong môn Toán và Tiếng Việt mà trong những môn học khác tôi
cũng từng bước giảm bớt áp lực trong học tập bằng cách đưa vào cuối mỗi tiết
học các trò chơi nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức đã học cho học sinh. Chẳng
hạn như trong môn Tự nhiên và Xã hội, sau khi học bài cây hoa, tôi cho học sinh
tham gia vào trò chơi đoán tên các loài hoa như sau:
- Cách 1: Đưa hình ảnh một số loài hoa cho học sinh nêu tên loài hoa đó.
Đáp án:
Hoa Hướng Dương
Đáp án:
Hoa Hồng
12/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Đáp án:
Hoa Sen
Đáp án:
Hoa Cúc trắng
Đáp án:
Hoa Đào
13/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
- Cách 2: Đưa một số câu thơ nói về loài hoa và yêu cầu học sinh nói tên hoa:
Câu thơ
Hoa gì tươi thắm sắc vàng
Cánh dài thường nở muộn màng vào thu?
Hoa cúc
Câu thơ
Hoa màu nhung đỏ
Cánh tròn xinh xinh
Gió thổi rung rinh
Hương thơm ngan ngát?
Hoa hồng nhung
Câu thơ
Tên mua được nhiều thứ
Mà lại là loài hoa
Nép trong đám cỏ loà xoà
Cuống dài không lá, hoa mà chẳng thơm?
Hoa đồng tiền
14/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Câu thơ
Hoa đào ngoài Bắc
Hoa gì trong Nam
Cánh nhỏ màu vàng
Cùng vui đón Tết?
Hoa mai
Sau khi học sinh nêu được tên hoa tôi cho các con so sánh với đáp án của
cô xem có đúng hay không. Làm như vậy các con vừa hào hứng tham gia vào trò
chơi vừa củng cố được nội dung của tiết học.
Thêm vào đó để tạo sự hứng thú cho việc học tập tôi còn đưa các con ra
thăm vườn hoa của trường:
Học sinh thăm vườn hoa của trường
15/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
III. GẦN GŨI, THÂN THIỆN VỚI HỌC SINH TRONG CÁC HOẠT
ĐỘNG KHÁC CỦA TRƯỜNG, LỚP.
Ngoài việc tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp, học sinh còn
được tham gia vào rất nhiều các hoạt động khác như: sinh hoạt tập thể, đọc
truyện ở thư viện, múa hát tập thể, tham quan dã ngoại… Đây là lúc giáo viên
hoà mình với các con, cùng các con vui chơi khám phá những điều kì lạ ở thế
giới xung quanh.
Trong các tiết hoạt động tập thể cũng vậy, học sinh được tham gia vào rất
nhiều các hoạt động khác nhau như: văn nghệ theo chủ đề (hát, múa, đọc thơ, kể
chuyện…); chơi các trò chơi dân gian; vẽ tranh theo chủ đề; học về Quyền và
bổn phận của trẻ em; phòng tránh tai nạn thương tích và cùng các em tham gia
Hội chợ quê.
Tổ chức cho các em tham gia Hội Chợ Quê
Ngoài ra, tham quan dã ngoại là một hoạt động thu hút được rất nhiều học
sinh tham gia. Đây là cơ hội lớn để bổ sung kĩ năng sống, hiểu biết cho học sinh
và cũng là cơ hội để giáo viên thể hiện sự gần gũi, thân thiện của mình.
16/29
Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa
IV.TÍCH CỰC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM GÂY
HỨNG THÚ CHO HỌC SINH.
4.1 Đổi mới phương pháp dạy học.
Trên thực tế chúng ta thấy không có một phương pháp dạy học nào là tối
ưu. Bên cạnh những phương pháp dạy học hiện đại: thảo luận, động não, đóng
vai… Người thầy cần phát huy những phương pháp dạy học truyền thống: quan
sát, hỏi đáp, thực hành, thí nghiệm, thuyết minh… trong một tiết học nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phải nhận thức được việc “dạy học có hiệu quả” có nghĩa là dạy học
không chạy theo thành tích, mà phải dạy cho học sinh lĩnh hội kiến thức một
cách hiệu quả nhất. Dạy theo cách tiếp cận dần với việc phân hóa đối tượng
học sinh.
4.2 Tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau
* Hình thức 1: Tăng cường hoạt động nhóm trong các môn học.
Tổ chức nhiều hình thức học tập như cá nhân, lớp, nhóm đôi, nhóm lớn.
Tùy theo từng mục tiêu cần đạt, từng đặc trưng của môn học mà giáo viên lựa
chọn, phối hợp một cách hợp lí các hình thức học tập với nhau.
17/29
- Xem thêm -