Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học c...

Tài liệu Skkn vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn thiết kế tiến trình dạy học chủ đề “vấn đề dân số lao động – việc làm ở việt nam

.PDF
18
112
88

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp Sở Tôi ghi tên dưới đây: TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi Chức Trình Tỷ lệ công tác vụ độ (%) chuyên đóng môn góp vào việc tạo ra sáng kiến 1 Tạ Thị Quỳnh Hoa 20/11/1991 THPT Giáo Cử Bình viên nhân Minh 100% Giáo dục công dân 1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến : VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHỦ ĐỀ “VẤN ĐỀ DÂN SỐ - LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM” (Dành cho học sinh lớp 11) Lĩnh vực áp dụng: Địa lý – Giáo dục công dân khối THPT. 2. Nội dung a. Giải pháp cũ thường làm Trong thực tế, các môn học được GV lên lớp giảng dạy theo đúng phân phối chương trình, đúng nội dung mà sách giáo khoa trình bày và thường bỏ qua sự liên quan về nội dung giữa các môn học. Do vậy, tình trạng giữa các môn học xảy ra sự trùng lặp về nội dung, học sinh phải học đi học lại ở môn này, môn kia cùng một nội dung là điều không thể tránh khỏi. Trong chương trình Giáo dục công dân lớp 10 có nội dung về dân số, ở bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Chương trình Giáo dục công dân lớp 11 có nội dung về dân số và việc làm, ở bài 11: Chính sách dân số và giải quyết việc làm. Chương trình Giáo dục công dân lớp 12 có nội dung của pháp luật liên quan đến dân số và việc làm, ở bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước. Trong chương trình Địa lí lớp 12 có nội dung liên quan đến dân số, lao động và việc làm, ở bài 16: Đặc điểm dân số và phân bố dân cư nước ta, bài 17: Lao động và việc làm. Thông thường, các nội dung này được các GV ở các bộ môn Giáo dục công dân, Địa lý dạy độc lập với nhau, theo đúng phân phối chương trình. Nội dung của giáo án các môn được GV trích dẫn hay giảng giải từ nội dung của SGK, khi lên lớp GV cứ việc tuân theo giáo án mà thực hiện từ đầu đến kết thúc. Thông thường giáo án soạn theo phương pháp cũ được GV xây dựng theo cấu trúc của một giờ học gồm các bước như sau: - Kiểm tra bài cũ. - Giới thiệu bài mới. - Dạy bài mới. - Luyện tập, củng cố kiến thức hình thành ở HS. - Hướng dẫn HS làm việc ở nhà. Cấu trúc một bài soạn theo phương pháp truyền thống ở trên cho thấy sự sắp xếp một cách công thức, cứng nhắc, chi tiết, đầy đủ những việc làm của GV và HS theo một trình tự nhất định. * Các phương pháp GV thường sử dụng trong bài dạy là: 1.1. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề - Là phương pháp để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu cho HS tiếp thu. Đối với HS qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu được vấn đề và học được PP trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. GV thường sử dụng PP này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài học, thể hiện mối liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình. - Tuy nhiên, đây là phương pháp độc thoại, HS rơi vào tình trạng thụ động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV. 1.2. Làm việc với sách giáo khoa - Ưu điểm: HS làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi trong học tập và phát huy năng lực tư duy của HS. - Nhược điểm: Kiến thức trong sách giáo khoa chỉ hạn chế trong lượng kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống mà HS sẽ gặp trong cuộc sống. 1.3. Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) - Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp GV đặt ra những câu hỏi để HS trả lời nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp HS tự kiểm tra việc lĩnh hội tri thức. - Ưu điểm: Nếu vận dụng khéo léo phương pháp vấn đáp sẽ có tác dụng: + Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của HS, kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức của họ. + Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học một cách chính xác, đầy đủ, xúc tích. + Giúp GV thu được tín hiệu ngược từ HS một cách nhanh, gọn, để kịp điều chỉnh hoạt động của mình và của HS. Đồng thời qua đó HS cũng thu được tín hiệu ngược để kịp thời điều chỉnh hoạt động nhận thức - học tập của mình. Đồng thời, thông qua đó, GV có khả năng chỉ đạo hoạt động nhận thức của cả lớp và của từng HS. - Nhược điểm: Nếu vận dụng không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một vài HS, không thu hút toàn lớp tham gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của HS. Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin định sẵn theo ý muốn chủ quan của GV. Để đạt được mục đích đó, GV sắp xếp một cách lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích hợp với nội dung cần truyền đạt. Nội dung cần truyền đạt này chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong SGK. Như vậy, lôgic của bài soạn chỉ dựa vào SGK và lập luận của người trình bày mà không tính đến khả năng tiếp nhận kiến thức của HS vốn là nhân vật trung tâm của hoạt động dạy - học. Hiện nay, việc thực hiện chương trình và SGK mới đã góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa HS. SGK đã được thiết kế cho GV dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập. Các tình huống có vấn đề, các câu hỏi tìm tòi cũng được đặt ra, mặc dù chưa nhiều nhưng đã mang tính gợi ý giúp cho GV định hướng phương pháp. Khi dự giờ một số GV, tôi thấy phương pháp chủ đạo của đa số GV khi giảng dạy là nêu vấn đề, thuyết trình kết hợp với đàm thoại để làm rõ từng vấn đề, cuối cùng là làm bài tập củng cố. Phương pháp dạy học trên về ưu điểm đã tạo được sự hứng thú cho HS khi bắt đầu bài học bằng cách nêu vấn đề. HS được GV giảng giải kĩ lưỡng từng vấn đề cùng với một số câu hỏi phát vấn cũng phần nào phát huy được tính tích cực của các em trong hoạt động học tập. HS nắm được một số kiến thức cơ bản của bài. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng những phương pháp như đã nêu trên thì cũng có những hạn chế nhất định như đối với PP thuyết trình, HS sẽ dễ rơi vào tình trạng thụ động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của GV. Hay PP làm việc với SGK thì kiến thức trong SGK chỉ hạn chế trong lượng kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống mà HS sẽ gặp trong cuộc sống. Đối với PP đàm thoại, nếu vận dụng không khéo sẽ dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại giữa GV và một vài HS, không thu hút toàn lớp tham gia vào hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của HS. Bên cạnh đó, việc dạy độc lập các môn học có nội dung liên quan đến nhau sẽ làm cho HS chưa thấy được sự liên hệ về nội dung giữa các môn học. Việc các em tiếp cận nội dung độc lập giữa các môn mà không có sự liên hệ sẽ làm cho các em không có cái nhìn tổng quát, sâu sắc về vấn đề mà tiếp thu một cách rời rạc, thiếu liên hệ. Vậy để HS có cái nhìn sâu sắc về vấn đề, thấy được mối liên hệ giữa nội dung các môn học với nhau, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng thêm các phương pháp dạy học khác.. Trong đó, vận dụng quan điểm dạy học tích hợp là một trong những đột phá về đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính chủ động, tích cực cũng như sự hứng thú đối với các môn học, giảm bớt sự căng thẳng cho HS theo định hướng phát triển năng lực HS b. Giải pháp mới cải tiến - Mô tả bản chất của giải pháp mới: Qua thực tế dạy học, tôi thấy rằng việc kết nối kiến thức giữa các môn học để giải quyết một vấn đề nào đó là việc làm hết sức cần thiết. Điều đó không chỉ đòi hỏi GV giảng dạy bộ môn nắm bắt nhuần nhuyễn kiến thức bộ môn mình giảng dạy mà cần phải trau dồi kiến thức của những môn học khác để giúp các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Tôi đã trình bày và thực hiện thử nghiệm một dự án dạy học về chủ đề “Hợp tác – liên kết cùng phát triển”. Chủ đề này yêu cầu GV không chỉ nắm được kiến thức môn GDCD mình giảng dạy mà phải có kiến thức của các môn Lịch sử, Địa lí để giúp HS giải quyết vấn đề một cách tỉ mỉ, chính xác. Đồng thời, tôi thấy rằng vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề sẽ giúp HS hiểu rộng hơn, sâu hơn về vấn đề đó, phát huy được tư duy, sự sáng tạo trong học tập và ứng dụng vào thực tiễn. Đối với dự án này, khi thực hiện sẽ giúp các em HS hiểu được thế nào là hợp tác, thấy rõ được lợi ích của hợp tác thông qua những minh chứng cụ thể. Từ nội dung kiến thức sẽ giúp các em vận dụng vào giải quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống để hợp tác với mọi người xung quanh,…đạt kết quả tốt. Tôi thấy khi dự án có kết hợp với kiến thức của các môn học khác sẽ giúp GV tiếp cận tốt hơn, hiểu rõ hơn, sâu hơn những vấn đề đặt ra. Từ đó bài dạy sẽ trở nên sâu sắc, sinh động hơn. HS có hứng thú học bài, được tìm tòi, khám phá nhiều kiến thức và được suy nghĩ sáng tạo nhiều hơn, từ đó vận dụng kiến thức vào thực tế tốt hơn. Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc hiểu và làm đúng quá trình tích hợp sẽ giúp nâng cao năng lực của người học, đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất, năng lực vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lý trong giải quyết các tình huống khác nhau trong cuộc sống hiện đại và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ. Đồng thời dạy học tích hợp, liên môn giúp hình thành và phát triển ở HS các năng lực cần thiết của một người lao động trong tương lai như: NL tự học; NL giải quyết vấn đề; NL sáng tạo; NL hợp tác; NL giao tiếp; NL sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông…. Giúp cho giờ học trở nên sinh động hơn, vì không chỉ có GV là người trình bày mà HS cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính tích cực của HS. Góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở HS, tạo cho HS một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo. Giúp HS hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học do việc dạy học tích hợp liên môn có tính thực tiễn. Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa: bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này, hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống. Dạy cho HS sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể: thay vì tham nhồi nhét cho HS nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng tập dượt cho HS vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, có năng lực sống tự lập. Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học: trong quá trình học tập, HS có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng phải biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống, trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp. Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: cái cốt yếu là những năng lực cơ bản cần cho HS vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo. Sau đây, tôi xin đề xuất một phương án như sau: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHỦ ĐỀ “HỢP TÁC – LIÊN KẾT CÙNG PHÁT TRIỂN” (Dành cho học sinh lớp 11) - Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp: Vấn đề dân số, lao động và việc làm luôn là bài toán lớn đối với các cấp lãnh đạo và đối với bản thân mỗi cá nhân. Bởi đây là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Vấn đề dân số có mối liên hệ mật thiết với vấn đề lao động và việc làm. Giải quyết tốt bài toán này sẽ là bàn đạp để nước ta có thể phát triển bền vững, sánh vai với các cường quốc trong khu vực và trên thế giới. Học sinh THPT – thế hệ tương lai sẽ phải làm cha, làm mẹ, phải lao động, tìm kiếm việc làm cần có cái nhìn như thế nào và sẽ làm gì để có thể giải quyết được những vấn đề này cho chính bản thân. - Trong chương trình Địa lí lớp 12 và Giáo dục công dân lớp 10, 11, 12 đều có nội dung liên quan đến vấn đề dân số, lao động, việc làm ở nước ta. Việc cấu trúc lại thành một chủ đề liên môn “Vấn đề dân số - lao động – việc làm ở Việt Nam” là cần thiết, tránh tình trạng trùng lặp nhau về nội dung, tránh việc cả 2 môn học đều tổ chức dạy học, giảm được thời gian và học tập cho HS. Như vậy, việc tích hợp để HS có nền tảng kiến thức một cách hệ thống, tổng quan, không rời rạc về vấn đề dân số, lao động, việc làm; thực trạng cũng như giải pháp giải quyết vấn đề. Qua đó, khắc phục được tình trạng thiếu sự liên hệ, tác động giữa kiến thức của môn Địa lí và GDCD. Việc xây dựng chủ đề liên môn tạo điều kiện để đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, học sinh được hoạt động, được tự học và tự nghiên cứu. Thông qua đó góp phần hướng tới hình thành các năng lực, phẩm chất cho HS. Nội dung học tập của bài được sử dụng xây dựng thành chủ đề với các hoạt động học được xây dựng nối tiếp nhau thành một chuỗi các hoạt động liên tục có gắn kết với nhau, HS được nghiên cứu trên lớp, ở nhà, từ đó góp phần làm tăng thời gian học tập của HS. Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề dân số, đồng thời góp phần vào việc nâng cao chất lượng nguồn lao động và giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động, chủ đề “Vấn đề dân số - lao động - việc làm ở Việt Nam” được xây dựng từ các môn học: - Môn Địa lí lớp 12 Bài 16: ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ NƯỚC TA Bài 17: LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM - Môn GDCD lớp 10 Bài 15: CÔNG DÂN VỚI MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CỦA NHÂN LOẠI Mục 2. Sự bùng nổ về dân số và trách nhiệm của công dân trong việc hạn chế sự bùng nổ về dân số. - Môn GDCD lớp 11 Bài 11: CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM - Môn GDCD lớp 12 Bài 9: PHÁP LUẬT VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA ĐẤT NƯỚC Mục 1. Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững của đất nước. * Trong lĩnh vực xã hội (Đọc thêm) Mục 2. Nội dung cơ bản của pháp luật về sự phát triển bền vững của đất nước c) Nội dung cơ bản của pháp luật về phát triển các lĩnh vực xã hội. Như vậy, các bài học và các mục trong bài học nêu trên sẽ được dạy ở chủ đề: “Vấn đề dân số - lao động – việc làm ở Việt Nam”. Đối với môn GDCD lớp 10: Không dạy phần kiến thức liên quan đến dân số trong bài 15 “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại” mà tách ra xây dựng thành chủ đề tích hợp liên môn. Phần nội dung còn lại của bài 15 “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại” vẫn dạy với thời lượng như cũ. Đối với môn GDCD lớp 11: Không dạy phần kiến thức bài 11 “Chính sách dân số và giải quyết việc làm” mà tách ra xây dựng thành chủ đề tích hợp liên môn. Đối với môn GDCD lớp 12: Không dạy phần kiến thức vai trò của pháp luật trong lĩnh vực xã hội (mục 1) và nội dung cơ bản của pháp luật về phát triển các lĩnh vực xã hội (mục 2). Phần nội dung còn lại của bài 9 vẫn dạy với thời lượng như cũ. Đối với môn Địa lí lớp 12: Không dạy phần kiến thức liên quan đến “bài 16: Đặc điểm dân số và phân bố dân cư nước ta”, “bài 17: Lao động và việc làm “mà tách ra xây dựng thành chủ đề tích hợp liên môn. Chủ đề này được thực hiện vào giữa học kì II của lớp 11. Thời lượng dạy học chuyên đề này là 04 tiết, được lấy từ 02 tiết dạy của môn Địa lí và 02 tiết của môn GDCD. Với việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học kết hợp với các PP, kỹ thuật dạy học tích cực, bài dạy sẽ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Những nội dung dạy học trong từng bộ môn mà cần phải sử dụng các kiến thức của các môn học khác để giải quyết sẽ kích thích sự hứng thú, chủ động của các em, đặc biệt là các em có năng khiếu, sự am hiểu về những môn học đó. HS sẽ là người chủ động tìm ra kiến thức, GV chỉ là người hỗ trợ, hướng dẫn các em. Khi vận dụng các kiến thức liên môn kết hợp với các PP dạy học tích cực, các em sẽ được tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm. Người học được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, phải biết vận dụng linh hoạt kiến thức phức hợp của các môn học để giải quyết. So sánh tính mới của giải pháp mới với giải pháp cũ Dạy học truyền thống - Lấy người thầy làm trung tâm. Dạy học tích hợp liên môn - Lấy người học làm trung tâm - Là quá trình chuyển tải thông tin - GV giao nhiệm vụ cho HS, HS sẵn một chiều từ thầy sang trò sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ. HS - HS thụ động tiếp thu kiến thức, phải huy động kiến thức từ nhiều không có sự phản biện môn học để giải quyết. - Giờ dạy dễ đơn điệu, nhàm chán, - GV là người giữ vai trò hướng dẫn, căng thẳng, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự - Ít chú ý đến kĩ năng thực hành của tìm kiếm, khám phá những tri thức người học, kiến thức thiên về lí luận. mới theo kiểu tranh luận theo nhóm. - Chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học - Đối với dạy học có vận dụng quan điểm tích hợp, liên môn thì người học đóng vai trò là trung tâm: Người học là chủ thể của hoạt động học, họ phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của GV mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn, cụ thể và sinh động rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá học để hành, hành để học, tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân. Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm, hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào giải quyết vấn đề. Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ động nỗ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Người dạy phải dạy cái mà người học cần chứ không phải dạy cái mà người dạy có. - GV giao nhiệm vụ cho HS, HS sẵn sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ: HS phải huy động kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết. GV giao cho HS một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. Nhiệm vụ giao cho HS có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: giải thích một sự kiện/ hiện tượng trong tự nhiên hay xã hội; giải quyết một tình huống trong học tập hay trong thực tiễn; tiến hành một thí nghiệm mở đầu … Dưới sự hướng dẫn của GV, HS quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện thực hiện nhiệm vụ. Từ nhiệm vụ cần giải quyết, HS huy động kiến thức, kĩ năng đã biết và nảy sinh nhu cầu về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết, nhưng hi vọng có thể tìm tòi, xây dựng được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi. Lúc này, vấn đề đối với HS xuất hiện, dưới sự hướng dẫn của GV, vấn đề đó được chính thức diễn đạt. Nhiệm vụ giao cho HS cần đảm bảo rằng, HS không thể giải quyết trọn vẹn với kiến thức, kĩ năng đã có mà cần phải học thêm kiến thức mới để vận dụng vào quá trình giải quyết vấn đề. - GV là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận theo nhóm: Sau khi đã phát biểu vấn đề, HS độc lập hoạt động, xoay trở để vượt qua khó khăn, tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, khi cần phải có sự định hướng của GV để HS có thể đưa ra các giải pháp theo suy nghĩ của HS. Thông qua trao đổi, thảo luận dưới sự định hướng của GV, HS xác định được các giải pháp khả thi, bao gồm cả việc học kiến thức mới phục vụ cho việc giải quyết vấn đề đặt ra, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề đó. Trong quá trình thực hiện giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề, HS diễn đạt, trao đổi với người khác trong nhóm về kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hoàn thiện tiếp. Trường hợp HS cần phải hình thành kiến thức mới nhằm giải quyết vấn đề, GV sẽ giúp HS xây dựng kiến thức mới của bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/ sắp xếp kiến thức cũ và kiến thức mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/ khái niệm/ công thức mới… Trong quá trình đó, HS cần phải học lí thuyết hoặc/ và thiết kế phương án thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm, thu lượm các dữ liệu cần thiết và xem xét, rút ra kết luận. Kiến thức, kĩ năng mới được hình thành giúp cho việc giải quyết được câu hỏi/ vấn đề đặt ra. - Chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học: Trong quá trình hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của GV, hành động của HS được định hướng phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học. GV cần hướng dẫn HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng mới học để giải quyết các tình huống có liên quan trong học tập và cuộc sống hàng ngày; tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức thông qua các nguồn tư liệu, học liệu khác nhau; tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Qua quá trình dạy học, cùng với sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của HS, sự định hướng của GV tiệm cận dần đến định hướng tìm tòi sáng tạo, nghĩa là GV chỉ đưa ra cho HS những gợi ý sao cho HS có thể tự tìm tòi, huy động hoặc xây dựng những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là dần dần bồi dưỡng cho HS khả năng tự xác định hành động thích hợp trong những tình huống không phải là quen thuộc đối với HS. 3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được 3.1. Hiệu quả kinh tế - Dạy học tích hợp, liên môn có thể áp dụng ở tất cả các trường THPT, THCS và Tiểu học. Nó không đòi hỏi đầu tư nhiều về kinh tế, bởi GV chủ động tìm hiểu tư liệu (thông qua mạng Internet), sử dụng các phương tiện dạy học hiện có của nhà trường hoặc GV tự làm. - Dạy học tích hợp liên môn có thể vận dụng được trong các điều kiện khác nhau mà ít phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. 3.2. Hiệu quả xã hội - Việc kết hợp kiến thức các môn học vào để giải quyết một vấn đề nào đó trong một môn học là việc làm cần thiết. Điều đó đòi hỏi người GV bộ môn không chỉ nắm chắc môn mình dạy mà còn phải không ngừng trau dồi kiến thức các môn học khác để tổ chức, hướng dẫn các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. - Đặc biệt trong giáo dục, tích hợp kiến thức liên môn vào giải quyết các vấn đề trong một môn học sẽ giúp HS hiểu rộng hơn, sâu hơn về vấn đề đặt ra trong môn học đó. - Dạy học tích hợp liên môn có thể vận dụng được trong các điều kiện khác nhau mà ít phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. - Giúp cho việc dạy học đảm bảo tốt việc thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ. - Tích hợp kiến thức liên môn vào bài giảng góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, sẽ giúp HS phát huy khả năng suy nghĩ, tư duy, sáng tạo trong học tập và ứng dụng vào thực tế đời sống. - Cụ thể, đối với bài học này khi thực hiện sẽ giúp các em học sinh tự tìm hiểu từ thực tế các yêu cầu của bài học như: hiểu được thế nào là hợp tác. Từ nội dung kiến thức sẽ giúp các em vận dụng vào giải quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống để hòa nhập, hợp tác với mọi người xung quanh,… - Trong thực tế tôi nhận thấy khi soạn bài có kết hợp các kiến thức của các môn học khác sẽ giúp giáo viên tiếp cận tốt hơn, hiểu rõ hơn, sâu hơn những vấn đề đặt ra. Từ đó tổ chức, hướng dẫn học sinh linh hoạt hơn, sinh động hơn. Học sinh có hứng thú học tập, tìm tòi, khám phá nhiều kiến thức và được suy nghĩ, sáng tạo nhiều hơn. Từ đó vận dụng kiến thức vào thực tế tốt hơn. - Góp phần xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh. Kết quả minh chứng: Trong 1 năm áp dụng sáng kiến ( năm học 2016 – 2017), chúng tôi đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận: - Đối với GV: Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp, liên môn giúp cho GV có được nền tảng kiến thức rộng, hiểu sâu vấn đề trong dạy học. Là quan điểm dạy học hỗ trợ GV rất nhiều trong cuộc thi dạy học tích hợp dành cho GV. Năm học 2016 – 2017, nhóm tác giả đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận trong cuộc thi dạy học tích hợp dành cho GV: Đạt giải nhì cuộc thi dạy học tích hợp dành cho GV cấp tỉnh, được gửi thi cấp quốc gia và đạt giải ba. - Đối với HS: Việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các nhiệm vụ học tập giúp HS nâng cao chất lượng học của mình, phát triển các năng lực ở các em, các em cảm thấy hứng thú hơn với môn học và nhận thức được vị trí quan trọng của môn GDCD. Việc vận dụng kiến thức liên môn trong học tập cũng là cơ sở nền tảng để các em tham gia cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn trong giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh phổ thông. Trong năm học 2016 – 2017, HS trường THPT Bình Minh đã đạt được nhiều thành tích trong cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn. Kết quả, trường THPT xếp thứ 2 trên tổng số 27 trường THPT, có 4 bài thi của HS được giải cấp quốc gia, trong đó có một bài đạt giải ba và ba bài đạt giải khuyến khích. Sau dự án, GV cho HS các lớp làm bài kiểm tra trắc nghiệm, chúng tôi đã thu được kết quả như sau: Bảng số liệu thống kê về kết quả học tập của HS sau dự án dạy học Tỉ lệ: % Xếp loại 11A 11B 11C Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Giỏi 25 71% 23 68% 22 58% Khá 9 26% 9 26% 13 34% Trung bình 1 3% 2 6% 3 8% Yếu 0 0% 0 0% 0 0% Kém 0 0% 0 0% 0 0% Dựa vào bảng thống kê trên, có thể thấy đa số HS nắm được kiến thức cơ bản khi dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn. Do đó, có thể thấy việc dạy học theo chủ đề tích hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết cho HS THPT. 4. Điều kiện và khả năng áp dụng 4.1. Điều kiện áp dụng - Đòi hỏi người GV bộ môn không chỉ nắm chắc môn mình dạy mà còn phải không ngừng trau dồi kiến thức các môn học khác để tổ chức, hướng dẫn các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. - GV cần chuẩn bị máy tính có kết nối mạng để tham khảo kiến thức từ các môn học. Nhà trường có trang bị máy chiếu. - HS phải có kiến thức nền tảng từ nhiều môn học. 4.2. Khả năng áp dụng Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT, THCS, Tiểu học, không chỉ vận dụng kiến thức liên môn để giảng dạy trong môn GDCD, mà các GV bộ môn khác có thể tham khảo cách thức vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy GDCD vào giảng dạy bộ môn của mình, có thể phát triển mở rộng hơn nữa giới hạn áp dụng của đề tài này vào nhiều các phần nội dung kiến thức ở các khối lớp. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO BM, ngày 8 tháng 5 năm 2018 ĐƠN VỊ CƠ SỞ Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng