Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn vận dụng phương pháp trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn toán t...

Tài liệu Skkn vận dụng phương pháp trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn toán thpt

.PDF
49
151
55

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi : Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở Trường THPT Ninh Bình Bạc Liêu Chúng tôi ghi tên dưới đây: TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức vụ 1 Lê Trọng Hòa Trường THPT 10/04/1960 Ninh Bình – Bạc Liêu 2 Phạm Thị Ngát 13/06/1986 Trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu TTCM 3 Nguyễn Trần Thắng 26/05/1984 Trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu GV 4 Đoàn Ngọc Lê 13/04/1994 Trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu GV PHT Trình độ chuyên môn Thạc sỹ Toán ĐHSP Toán Thạc sỹ Toán ĐHSP Toán Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 25% 25% 25% 25% I. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng - Tên sáng kiến: “Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán THPT”. - Lĩnh vực áp dụng : Giảng dạy cho học sinh khối lớp 10, 11 và 12, ban cơ bản của trường THPT, nhằm tạo hứng thú học tập và phát triển năng lực học sinh. II. Nội dung 1. Giải pháp cũ thường làm Đã từ rất nhiều năm nay, việc dạy và học môn Toán ở Việt Nam vẫn theo phương pháp truyền thống, lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire – nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi phương pháp dạy học này là “Hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức sống”, học sinh ghi chép, ghi nhớ kiến thức, giải bài tập máy móc theo phương pháp mà giáo viên đã đưa ra sau đó viết lại những kiến thức đó trong bài kiểm tra, bài thi. Với phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo. Gần đây, theo yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, việc dạy học môn Toán cũng có một số thay đổi nhất định như chú ý tương tác hai chiều giữa giáo viên và học sinh, tăng cường thảo luận nhóm để học sinh tự tìm hiểu… Tuy 1 nhiên nhìn chung sự đổi mới đó còn nặng về hình thức, chưa thực sự hiểu quả. Đa phần các giờ học Toán vẫn rất thụ động, giáo viên dạy lí thuyết sau đó phân dạng bài tập và đưa ra phương pháp giải các dạng bài, sau đó chia nhóm để các nhóm vận dụng giải bài tập; trong các giờ dạy giáo viên đã biết ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng của mình, tuy nhiên lại chỉ dừng lại ở việc sử dụng phương tiện hiện đại này để thuyết trình bài học thay cho việc ghi bảng của giáo viên… Phương pháp dạy và học như trên có những ưu và nhược điểm như sau: 1.1. Ưu điểm - Cung cấp cho học sinh kiến thức chuẩn của từng bài, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng để phục vụ kiểm tra, thi cử. - Khi lên lớp giáo viên thực hiện chương trình theo từng tiết học đã quy định sẵn. Thời gian tổ chức các hoạt động học tập chỉ trong phạm vi tiết học, hình thức tổ chức các tiết học bám sát mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra câu hỏi dạng mở yêu cầu học sinh phải trình bày nội dung trả lời các câu hỏi trong một bài viết để giải quyết vấn đề nêu ra, hoặc phân dạng bài tập và đưa ra phương pháp giải cụ thể học sinh nắm được phương pháp của từng dạng bài để giải các bài tập. - Giúp học sinh tái hiện được kiến thức vừa học, lí giải được các khía cạnh của kiến thức, từ đó hiểu bài sâu sắc hơn. - Có thể thấy quá trình tư duy của học sinh đi đến đáp án. - Đơn giản, dễ dạy cho giáo viên, dễ nhớ cho học sinh. 1.2. Nhược điểm và những tồn tại cần khắc phục - Do khoa học phát triển nhanh chóng nên nội dung chương trình dạy học phần nào bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. - Người học càng ngày càng mất hứng thú học tập, hạn chế, thậm chí triệt tiêu sự sáng tạo, luôn thụ động ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. - Có những đơn vị kiến thức được dạy trong nhiều môn học khác nhau gây trùng lặp, nhàm chán với học sinh. - Học sinh học tập thụ động, các kiến thức đã sắp đặt sẵn nên tạo thói quen nghe, ghi chép, học thuộc, do đó chưa phát huy năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tự học, tự tìm tòi, tự xử lý thông tin ở học sinh. - Phần nhiều học sinh chưa hứng thú với môn Toán, trong suy nghĩ của hầu hết học sinh thì Toán học ngoài những phép tính đơn giản như cộng, trừ, nhân, chia, …thì hầu hết các kiến thức toán khác là rất trừu tượng đối với học sinh. Rất nhiều học sinh đặt câu hỏi: “Tại sao phải học toán, học toán để làm gì, giúp ích gì ?” Vì vậy việc học toán trở thành một áp lực nặng nề đối với học sinh. Họ nghĩ rằng toán học là mơ hồ xa xôi, học toán chỉ có một mục đích duy nhất đó là thi cử. - Học sinh học Toán đơn thuần chỉ là giải các bài tập theo các dạng bài và phương pháp giải cho sẵn mà không biết được bản chất của những bài tập đó và ứng dụng của chúng vào trong thực tiễn như thế nào, không biết được bản chất những sự vật hiện tượng nơi mình sinh sống mặc dù những sự vật, hiện tượng đó rất gần gũi, gắn bó hàng ngày với học sinh, ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân, gia đình và cộng đồng dân cư nơi mình sinh sống. 2 - Dạy học theo phương pháp truyền thống nhiều khi chưa khuyến khích được học sinh tham gia vào các hoạt động học, học sinh không có nhiều cơ hội được trải nghiệm thực tế, ít có cơ hội bộc lộ các năng lực khác, hình thức học tập còn đơn điệu, … Dó đó học sinh ít được lôi cuốn động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học sinh có học lực yếu kém. - Hình thức dạy học chưa đa dạng, phong phú, cách thức truyền đạt chưa sinh động, chưa gây hứng thú cho học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức chủ yếu còn bị động. Những kĩ năng cần thiết của việc tự học chưa được chú ý đúng mức. Do vậy việc dạy học toán ở trường phổ thông hiện nay còn bộc lộ nhiều điều cần được đổi mới. Đó là học trò chưa thật sự hoạt động một cách tích cực, chưa chủ động và sáng tạo, chưa được thảo luận để đưa ra các khám phá của mình, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn yếu, không phát triển năng lực, kĩ năng sống cho học sinh trong khi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung và việc dạy học môn Toán nói riêng. - Trước đây, học sinh chỉ học đơn môn, không biết vận dụng kiến thức môn khác phục vụ cho bài học, cho việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. - Hạn chế việc hình thành tình yêu và trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước và con người. - Kiểm tra, đánh giá nặng về tái hiện tri thức không thúc đẩy được việc dạy học, kiểm tra, đánh giá học sinh theo hướng tích cực, không phát huy được tính tích cực chủ động khai thác kiến thức của học sinh, chưa đánh giá về mặt năng lực vận dụng thực tế. - Giáo viên không chủ động phân chia được thời gian, ngại tích hợp kiến thức của các bài học khác và của các môn học khác trên một bối cảnh thực nên thường bỏ qua những kiến thức liên quan rất gần gũi, sinh động. - Giáo viên chưa dạy được cách học - Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. - Giáo viên chưa quan tâm đến việc học sinh nhớ được/học được những gì? - Giáo viên chưa quan tâm đến việc học sinh làm được gì, giải quyết được vấn đề thực tiễn gì từ những kiến thức, kĩ năng đã được học? - Hạn chế việc tìm tòi, sáng tạo của giáo viên. 2. Giải pháp mới cải tiến Sau một thời gian vận dụng phương pháp dạy học cũ, tôi và nhiều đồng nghiệp càng nhận ra những mặt hạn chế đã nêu. Do đó làm thế nào để giáo dục các em học sinh có thái độ học tập và yêu thích bộ môn Toán là điều tôi luôn suy nghĩ và trăn trở để tìm ra giải pháp tối ưu nhất nhằm phần nào khắc phục những hạn chế trên. Với mong muốn cải tiến phương pháp để hiệu quả giảng dạy được tốt hơn, tôi đã tìm hiểu và nhận thấy cần phải thiết kế, tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học; dẫn dắt học sinh vào trong các tình huống sư phạm khác nhau và để tự các em giải quyết các tình huống đó, nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, kích thích tư duy sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh, khơi dậy ý thích tìm hiểu, khả năng nhận thức của người học. Khi đó người học là khách thể của hoạt động dạy nhưng là chủ thể của hoạt động học, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập dưới vai trò tổ chức của người dạy. Từ thực trạng trên tôi nhận thấy cần phải tích cực hơn nữa trong việc vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại 3 trong dạy học môn Toán, do đó tôi mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy học bằng cách vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy môn Toán THPT, và trong đó trò chơi học tập là một hoạt động mà các em rất hứng thú. Thông qua trò chơi các em sẽ lĩnh hội các tri thức Toán học một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, do đó tôi mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy học bằng cách “Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán THPT”, từ đó giúp học sinh có thể “học mà chơi, chơi mà học”, đồng thời giúp các em giảm bớt những căng thẳng, mệt mỏi, áp lực khi học môn Toán và có thể tự mình rèn luyện, thực hành những kĩ năng hành vi trong môi trường giáo dục an toàn. 2.1. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp mới 2.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1.1.1. Ở nước ngoài Vào những năm 40 của thể kỷ XIX, một số nhà khoa học giáo dục Nga như: P.A.Bexonova, OP.Seina, E.A.Pokrovxki … đã đánh giá cao vai trò giáo dục, đặc biệt và tính hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa cho tuyển tập “Trò chơi của trẻ em Nga” đã chỉ ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt và tính hấp dẫn lạ thường của trò chơi dân gian Nga. Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho học sinh phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người Tiệp Khắc I.A.Komenxki (1592-1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi mọi khả năng của trẻ được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu biết. Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người Đức Ph.Phroebel (1782-1852). Ông là người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan điểm của ông về trò chơi phản ánh cơ sở lý luận sư phạm duy tâm thần bí. Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có sẵn của trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể chất, làm vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ. I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu trên tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với đặc điểm của người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn. Vào những năm 30-40-60 của thế kỷ XX, vấn đề sử dụng trò chơi dạy học trên tiết học được phản ánh trong công trình của R.I.Giucovxkaia, VR.Bexpalova, E.I.Udalsova … R.I.Giucovxkaia đã nâng cao vị thế của dạy học bằng trò chơi. Bà chỉ ra những tiềm năng và lợi thế của những tiết học dưới hình thức trò chơi học tập, coi trò chơi học tập như là hình thức dạy học, giúp người học lĩnh hội những tri thức mới từ những ý tưởng đó. 4 2.1.1.2. Ở trong nước Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò chơi dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau. Một số tác giả như: Phan Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích Ngọc … đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò chơi và trò chơi học tập. Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập, không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung của người học. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của người học. Gần đây trong tác phẩm “trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ. Một số luận văn, luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học. Trong giáo trình “phương pháp dạy học môn Toán ở THPT theo định hướng tích cực” (Bùi Thị Hường), tác giả đã đưa ra được khái niệm, ưu điểm, nhược điểm và một số ví dụ về trò chơi trong học tập. Tuy nhiên tác giả chưa đi sâu nghiên cứu phương pháp đó và vận dụng cụ thể của phương pháp vào trong từng hoạt động học cụ thể và từng bài cụ thể. 2.1.2. Trò chơi 2.1.2.1. Chơi và hoạt động chơi Chơi là một trong những hoạt động của con người, có mặt trong đời sống con người ở moi lứa tuổi. Khi chơi, cả người lớn lẫn trẻ em đều say mê, vui vẻ, thoải mái. Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “chơi”, có thể điểm qua một vài định nghĩa về “chơi” như: - “Chơi là hoạt động chỉ nhằm cho vui mà thôi, không có mục đích gì khác”. - “Chơi là hoạt động giải trí hoặc nghỉ ngơi”. - “Chơi là một hoạt động vô tư, người chơi không chú tâm vào một lợi ích thiết thực nào cả, trong khi chơi các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội được mô phỏng lại, nó mang đến cho người chơi một trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, dễ chịu”. - “Chơi là kiểu hành vi hoặc hoạt động tự nhiên, tự nguyện, có động cơ thúc đẩy là những yếu tố bên trong quá trình chơi và chủ thể không nhất thiết theo đuổi những mục tiêu và lợi ích thực dụng một cách tự giác trong quá trình đó. Bản thân quá trình chơi có sức cuốn hút và các yếu tố tâm lí của con người trong khi chơi nói chung mang tính chất vui đùa, ngẫu hứng, tự do, cởi mở, thư giãn, có khuynh hướng thể nghiệm những tâm trạng hoặc tạo ra sự khuây khỏa cho mình”. 2.1.2.2. Trò chơi Một số nhà tâm lý – giáo dục học theo trường phái sinh học như K.Gross, S.Hall, V.Stern … cho rằng, trò chơi là do bản năng quy định, chơi chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa. Còn G.Piagie cho rằng, trò chơi là hoạt động trí tuệ, là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ. Trên quan điểm macxit, các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định rằng, trò chơi có nguồn gốc từ lao động và mang bản chất xã hội. Trò chơi được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con đường giáo dục. 5 Tác giả Đặng Thành Hưng thì cho rằng trò chơi là một thuật ngữ có hai nghĩa khác nhau tương đối xa + Một là kiểu loại phổ biến của chơi. Nó chính là chơi có luật và có tính cạnh tranh hoặc tính thách thức đối với người tham gia. + Hai là những thứ công việc được tổ chức và tiến hành dưới hình thức chơi chẳng hạn: học bằng chơi, giao tiếp bằng chơi, rèn luyện thân thể dưới hình thức chơi … Các trò chơi đều có quy tắc, luật lệ, nhiệm vụ, yêu cầu tức là có tổ chức và thiết kế, nếu không có những thứ đó thì không có trò chơi mà chỉ có sự chơi đơn giản. Như vậy, trò chơi là tập hợp các yếu tố chơi, có hệ thống và có tổ chức, vì thế luật hay quy tắc chính là phương tiện tổ chức tập hợp đó. Tóm lại, trò chơi chính là sự chơi có luật, những hành vi chơi tùy tiện, bất giác không gọi là trò chơi. 2.1.3. Trò chơi dạy học Có những quan niệm khác nhau về trò chơi dạy học. Trong lý luận dạy học, tất cả những trò chơi gắn với việc dạy học như là phương pháp, hình thức tổ chức và luyện tập … không tính đến nội dung và tính chất của trò chơi thì đều được gọi là trò chơi dạy học. Do những lợi thế của trò chơi có luật được quy định rõ ràng, trò chơi dạy học còn được hiểu là loại trò chơi có luật có định hướng đối với sự phát triển trí tuệ của người học, thường do giáo viên nghĩ ra và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học. Trò chơi dạy học có nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian, trong những trò chơi đầu tiên của mẹ với con, trong các trò vui và những bài hát khôi hài làm cho đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó và dùng hình thức đó để dạy con, những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố dạy học. Tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về trò chơi dạy học của các nhà nghiên cứu Xô Viết, tác giả Trương Thị Xuân Huệ trong công trình nghiên cứu “Sử dụng phương pháp trò chơi trong công tác chuẩn bị trí tuệ cho trẻ em học toán lớp 1”, khẳng định rằng trò chơi dạy học được hiểu là trò chơi có nhiệm vụ giáo dục, trò chơi dạy học là trò chơi có nội dung và luật chơi do người lớn sáng tác và đưa vào cuộc sống của trẻ. Còn theo tác giả Đặng Thành Hưng thì những trò chơi giáo dục được lựa chọn và sử dụng trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các nguyên tắc và phương pháp dạy học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên trẻ hay học sinh tìm kiếm và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển các phương thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật, khoa học, ngôn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò chơi dạy học. Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy học và được định hướng vào mục tiêu, nội dung học tập. Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và được sử dụng bởi các nhà giáo và người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc biệt là của lý luận dạy học các môn học cụ 6 thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tưởng, mục tiêu của nhà giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài bản cứng nhắc như những giờ học. 2.1.4. Cấu trúc chung của trò chơi dạy học Trò chơi dạy học có mọi đặc điểm của trò chơi thông thường, nhưng về cấu trúc nó kết hợp các yếu tố chơi và các yếu tố sư phạm trong một tổ hợp hoạt động và quan hệ hiện thực. Đó là cấu trúc phức tạp, gồm những thành tố sau: + Mục đích hay chủ định chơi: nó cũng là những nhiệm vụ học tập của học sinh trong khi tham gia chơi. Mục đích này chi phối tất cả những yếu tố của trò chơi. Khi trò chơi kết thúc, mức độ đạt được của mục đích chơi được phản ánh ở kết quả hiện thực mà học sinh thu được và kết quả đó cũng là kết quả giải quyết các nhiệm vụ học tập, học sinh học được những gì cụ thể thì chính những cái đó được thể hiện trong kết quả chơi. + Các hành động hay hành động chơi: là những hoạt động thực sự mà người tham gia trò chơi tiến hành để thực hiện nhiệm vụ và vai trò của mình trong trò chơi. + Luật chơi hay quy tắc chơi: là những quy định nhằm bảo đảm sự định hướng các hoạt động và hành động chơi vào mục đích chơi hay nhiệm vụ học tập, chỉ ra các mục tiêu và kết quả của các hành động, các phương thức và tính chất của hoạt động, xác định trình tự và tiến độ của các hành động, tạo ra các tiêu chí điều chỉnh các quan hệ và hành vi của người tham gia và tiêu chí đánh giá hoạt động chơi có đáp ứng các nhiệm vụ học tập hay không. + Đối tượng hoạt động và giao tiếp là những thành tố chính của các hoạt động học, tuy nhiên để đáp ứng tốt nhất nhiệm vụ học tập thì chúng cần được xác định và thiết kế chặt chẽ, được chỉ dẫn cụ thể và rõ ràng hơn trong luật chơi. + Các quá trình, tình huống và quan hệ: là những tiến trình, biến số và khuynh hướng của các hoạt động, hành động chơi, biểu thị tác động của luật chơi, nhưng hướng vào mục đích của dạy học. 2.1.5. Phương pháp tổ chức trò chơi. - Bản chất: Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề, thực hiện một nhiệm vụ học tập hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi học tập nào đó. Trò chơi học tập là hoạt động được diễn ra theo trình tự hoạt động của một trò chơi học tập nào đó. Trò chơi học tập là hoạt động được diễn ra theo trình tự hoạt động của một trò chơi. - Trò chơi học tập có những đặc điểm sau: + Nội dung trò chơi gắn với kiến thức, kĩ năng, thái độ của một môn học hoặc một bài học cụ thể. + Thường được diễn ra trong thời gian, không gian nhất định của một giờ học. + Mọi HS đều thu nhận được những nội dung học tập chứa đựng trong trò chơi phù hợp với trình độ và lứa tuổi. + Khác với trò chơi rèn luyện sức khỏe và giải trí, trò chơi học tập nhằm hướng tới sự thông hiểu kiến thức gắn với các nội dung học tập cụ thể của môn học, bài học, lớp học. - Quy trình thực hiện: + Giáo viên (hoặc giáo viên cùng học sinh) lựa chọn trò chơi. + Chuẩn bị các phương tiện, điều kiện cần thiết cho trò chơi 7 + Phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho học sinh. + Chơi thử (nếu cần thiết). + HS tiến hành chơi. + Đánh giá sau trò chơi. + Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi. - Ưu điểm: Tạo nhiều cơ hội để học sinh tham gia vào quá trình dạy học, trò chơi học tập giải quyết tốt vấn đề này bởi lẽ: + Là phương pháp giáo dục phù hợp với lứa tuổi học sinh. + Tạo được sự thích thú, hấp dẫn, không khí vui vẻ. + Khi chơi học sinh sẽ bộc lộ, thể hiện mình một cách tự nhiên. + Giúp thay đổi hình thức hoạt động và trạng thái tình cảm với việc học. + Học sinh tiếp thu bài học một cách tích cực và tự giác. + Tạo cơ hội giúp học sinh rèn luyện kỹ năng và củng cố kiến thức. + Giúp học sinh phát triển tâm lí, thái độ đạo đức: có trách nhiệm cao với đồng đội tôn trọng kỷ luật của nhóm, đội và luật chơi, giúp đỡ đồng đội… + Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; Không khô khan nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiêm, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải tỏa được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. + Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi . Chính nhờ sự thể nghiệm này sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. + Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. + Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi. + Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh. 2.1.6. Phân loại trò chơi dạy học. Trò chơi dạy học có thể chia thành 3 nhóm sau: + Nhóm 1: Trò chơi phát triển nhận thức. Đó là loại trò chơi đòi hỏi người tham gia phải sử dụng các chức năng nhận thức, nỗ lực hoạt động nhận thức, thực hiện các hành vi và hành động nhận thức để tiến hành các nhiệm vụ chơi, hoàn thành các quy luật và quy tắc chơi, tuân thủ những yêu cầu và mục đích chơi, nhờ vậy mà cải thiện và phát triển được khả năng nhận thức, quá trình và kết quả nhận thức của mình. Trò chơi phát triển nhận thức lại được phân thành một số nhóm nhỏ: • Các trò chơi phát triển tri giác: Ví dụ các trò chơi xếp hình, ghép hình theo dạng; trò chơi nhận dạng các đồ vật … • Các trò chơi phát triển và rèn luyện trí nhớ: Ví dụ trò chơi “Ai nhanh hơn”, trò chơi nhớ lại các công thức, các dãy số sau khi quan sát … 8 • Các trò chơi phát triển tưởng tượng và tư duy: Ví dụ trò chơi xây dựng, lắp ghép mô hình; các trò chơi thi giải đố, thi tính toán … + Nhóm 2: Trò chơi phát triển các giá trị Đó là những trò chơi có nội dung văn hóa, xã hội, trong đó các quan hệ chơi phóng tác hoặc lý tưởng hóa các quan hệ đạo đức, thẩm mỹ, gia đình, xã hội … Ví dụ: Các trò chơi phân vai theo các chủ đề, các trò chơi đóng kịch … + Nhóm thứ 3: Trò chơi phát triển vận động. Dạy học dựa trên trò chơi là một phương pháp tạo nhiều hứng thú cho người học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao của người dạy. Để có thể vận dụng tối ưu phương pháp này cần phân biệt các mức độ sử dụng trò chơi trong dạy học và đáp ứng các yêu cầu của việc tổ chức thực hiện các phương pháp. 2.1.7. Các mức độ sử dụng trò chơi trong quá trình dạy học. + Mức độ 1- Sử dụng trò chơi cho hoạt động khởi động: Giáo viên tổ chức cho người học chơi để kích hoạt không khí lớp học, tạo sự hưng phấn cho họ sinh trước khi học tập. + Mức độ 2- Sử dụng trò chơi như một hình thức học tập: Giáo viên tổ chức trò chơi để người học tiếp nhận nội dung một cách sinh động, hào hứng. + Mức độ 3- Sử dụng trò chơi như nội dung học tập: Giáo viên tổ chức chơi để người học trải nghiệm tình huống trong lúc chơi, từ đó người học tự khám phá nội dung học tập. 2.1.8. Trò chơi Toán học Trò chơi Toán học là trò chơi mà trong đó chứa đựng một số yếu tố toán học. Nó có thể là trò chơi tập thể hoặc cá nhân, thường là kết hợp cả vận động lẫn trí tuệ. Trong nhà trường trò chơi Toán học có thể tổ chức như một hoạt động dạy Toán. Thực tế cho thấy hình thức tổ chức của trò chơi Toán học rất dễ được học sinh hưởng ứng và tích cực tham gia Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi Toán học có thể là: - Trò chơi khởi động, nhằm dẫn dắt hình thành tri thức mới. - Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kĩ năng. - Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ học ngoại khóa Nếu phân loại theo các mạch kiến thức của Toán học ta có thể nói tới chẳng hạn: - Trò chơi tính toán. - Trò chơi hình học. - Trò chơi về giải toán, giải đố. - Trò chơi rèn trí thông minh. Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã luôn vận dụng những phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào các tiết dạy Toán, trong đó dạy học dựa trên trò chơi là một phương pháp gây nhiều hứng thú cho người học, qua đó tôi đã thu được những kết quả tốt. Trong khuôn khổ của sáng kiến tôi xin trình bày một số các hoạt động học tập điển hình trong quá trình giảng dạy môn Toán mà tôi đã áp dụng thành công (Phụ lục 1, phụ lục 2). 2.2. Tính mới và tính sáng tạo của giải pháp. Có thể thấy rõ tính ưu việt của giải pháp mới so với phương pháp truyền thống dựa vào các bảng so sánh sau: 9 Bảng 1: So sánh phương pháp dạy học sử dụng trò chơi và phương pháp truyền thống. Dạy học truyền thống. Dạy học sử dụng phương pháp trò chơi. Học là quá trình kiến tạo; học sinh tìm Học là quá trình tiếp thu và lĩnh tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai Quan niệm hội, qua đó hình thành kiến thức, thác và xử lý thông tin,… tự hình thành kĩ năng, tư tưởng, tình cảm. hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học Truyền thụ tri thức, truyền thụ và Bản chất sinh dưới dạng các trò chơi học tập. Dạy chứng minh chân lí của giáo viên. học sinh cách tìm ra tri thức mới. Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ Chú trọng hình thành các năng lực (sáng năng, kĩ xảo. Học để đối phó với tạo, hợp tác,…) dạy phương pháp và kĩ thi cử. Sau khi thi xong những thuật lao động khoa học, dạy cách học. Mục tiêu điều đã học thường bị bỏ quên Học để đáp ứng những yêu cầu của cuộc hoặc ít dùng đến. sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho sự phát triển xã hội. - Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, - Từ sách giáo khoa + giáo viên. các trò chơi tạo hứng thú cho học sinh. - Ít có tính liên môn + Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu cầu - Giáo viên là trung tâm, tổ chức của HS. kiến thức thành nhiệm vụ giao cho Nội dung + Tình huống thực tế, bối cảnh và môi học sinh. trường địa phương. + Những vấn đề học sinh quan tâm. - Học sinh là trung tâm, thực hiện nhiệm vụ với sự trợ giúp của giáo viên để tự xây dựng kiến thức. - Các phương pháp diễn giảng, - Các phương pháp tìm tòi, điều tra, giải truyền thụ kiến thức một chiều. quyết vấn đề; dạy học tương tác. - Người dạy là trung tâm, tổ chức - Người học là trung tâm, thực hiện các kiến thức thành các nhệm vụ giao nhiệm vụ dưới sự hỗ trợ của giáo viên để cho học sinh. xây dựng kiến thức cho mình. Phương pháp - Giáo viên đưa ra phương pháp - Học sinh tự lựa chọn phương pháp làm việc. làm việc. - Không gian làm việc: Trong hoặc ngoài - Không gian làm việc: Trong lớp học. nhà trường. - Hiểu biết mới dẫn đến thành - Thành công mới dẫn đến hiểu biết. Sai công. Sai lầm là không tốt lầm là bình thường. Cố định: Giới hạn trong 4 bức Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở hiện Hình thức tổ tường của lớp học, giáo viên đối trường, trong thực tế…, học cá nhân, học chức diện với cả lớp. đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên. 10 Phấn, bảng đen, sách giáo khoa. Phấn, bảng đen, sách giáo khoa. Phát huy Phương tiện Kênh truyền tin chủ yếu là lời nói. nhiều kênh thông tin: nói, hình, với sự hỗ dạy học. trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại: tivi, máy tính, máy chiếu, … Không có, nếu có thì sau quá trình Học sinh dự tính trước về sản phẩm và Sản phẩm học tập. Học sinh không có dự hiện thực hóa nó trong quá trình học tập. tính trước về sản phẩm. Rất ít. Học sinh tự thành lập nhóm, việc học chủ Học nhóm yếu dựa trên hoạt động nhóm. - Sự đánh giá chỉ tập trung ở kết - Sự đánh giá được thể hiện trong suốt quả cuối cùng. quá trình học tập. - Đánh giá sau khi học, sau khi kết - Đánh giá ngay trong khi học và cả sau Đánh giá thúc một môđun kiến thức. khi kết thúc một môđun kiến thức. - Là việc của giáo viên. - Là việc của giáo viên. - Đánh giá thông qua điểm số. - Bao gồm đánh giá của giáo viên, học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Tập trung vào hoạt động của giáo Tập trung vào hoạt động của học sinh. viên Soạn giáo án Hoạt động dạy → Hoạt động học. Hoạt động dạy → Hoạt động học. Hoạt động học → Hoạt động học. Bảng 2: So sánh về tổ chức dạy học. GIẢI PHÁP CŨ GIẢI PHÁP MỚI * Nơi tổ chức: Trong lớp học. * Nơi tổ chức: Trong và ngoài lớp học. * Cách thức: * Cách thức: - Giáo viên: Đóng vai trò trung - Giáo viên: Có vai trò định hướng, giám sát hoạt động tâm, truyền thụ kiến thức áp đặt học tập. một chiều. Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự - Học sinh: lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển + Học sinh thảo luận trong giới khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp. hạn lớp học để không ảnh hưởng Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ lớp bên cạnh. thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy học thí + Hoạt động chủ yếu của học nghiệm, thực hành. sinh là nghe, ghi chép và vận Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các họat động dụng máy móc công thức vào xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm giải bài tập. sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học của giáo viên và học sinh. 11 - Học sinh: + Bước 1: Học sinh được cùng giáo viên đề xuất ý tưởng, + Trong giờ học chỉ tổ chức xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên được 1, 2 hoạt động nhóm từ 3-5 đề. phút, chỉ có những học sinh tích + Bước 2: Tìm hiểu thực tế, trong quá trình này các em cực tham gia, không huy động được đóng vai nhà báo, chuyên gia về cán bộ y tế, các được cả nhóm. nhà thiên văn học…để khảo sát, thu thập, phỏng vấn người dân những thông tin cần thiết. + Bước 3: Lựa chọn, xử lý thông tin và đánh giá thông tin đó dựa trên sự tham khảo ý kiến của giáo viên, các chuyên gia và kết hợp với tìm hiểu thông tin trên mạng internet. + Bước 4: Hoạt động theo nhóm, mỗi nhóm có nhóm trưởng, có thư ký, triển khai theo kế hoạch, có sổ theo dõi; mỗi nhóm trao đổi, thảo luận, khi gặp khó khăn được * Đánh giá: Khi đánh giá chỉ có giáo viên hỗ trợ kịp thời. giáo viên, học sinh không được + Bước 5: Báo cáo sản phẩm của nhóm mình trước lớp, tham gia. trước toàn trường trong buổi ngoại khóa. - Phương pháp dạy học này đã đặt học sinh vào vai trò tích cực như: người giải quyết vấn đề, người ra quyết định, điều tra viên hay người viết báo cáo. Học sinh sẽ làm việc theo nhóm và hợp tác với các chuyên gia bên ngoài và cộng đồng để trả lời các câu hỏi và hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Phương pháp này đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của mình thông qua các sản phẩm và phương thức thực hiện. Bảng 3: Phân biệt ba loại trò chơi trong dạy học. Loại trò chơi Khởi động Kích thích học tập Khám phá tri thức Mục tiêu Tạo hưng phấn trước khi học Kích thích tính tích cực học tập Khám phá tri thức Tác dụng Thư giãn, kích hoạt tâm thế học tập Học hào hứng, sôi động Trải nghiệm, tạo tình huống có vấn đề Đặc điểm Chơi ra chơi, học ra học Thao tác chơi là hình thức học tập Thao tác chơi là nội dung học tập Yêu cầu Trò chơi đa dạng Sử dụng kĩ thuật, công nghệ Sáng tạo 12 Bảng 3: So sánh về hiệu quả dạy học. NỘI DUNG GIẢI PHÁP CŨ GIẢI PHÁP MỚI - Kết quả kiểm tra đánh giá: Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá giỏi chiếm tỉ lệ thấp và không ổn định, học sinh đạt điểm yếu kém cao . - Kết quả kiểm tra đánh giá: Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá giỏi chiếm tỉ lệ cao (56,5%) và có xu hướng tăng dần qua các lần kiểm tra, điểm dưới trung bình chiếm tỉ lệ thấp (3,5%) và có xu hướng giảm dần. - Năng lực giải quyết các vấn đề thực tế: Năng lực giải quyết và vận dụng kiến thức vào thực tế còn hạn chế - Năng lực giải quyết các vấn đề thực tế: Học sinh đạt được các kỹ năng, năng lực đã đề ra, tự tin trình bày ý kiến trước đám đông; biết vận dụng kiến thức khoa học vào thực tế phục vụ cho đời sống. - Không khí lớp học: Học sinh chủ động, say - Không khí lớp học: trầm, mê tìm hiểu kiến thức, thảo luận sôi nổi, đồng học sinh chưa thực hứng thời mạnh dạn trình bày kết quả. Các giờ học thú. hào hứng và hiệu quả. KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Kiểu dạy học này phát triển kiến thức và kĩ năng, năng lực của học sinh thông qua quá trình học sinh giải quyết một tình huống gắn với thực tiễn bằng những kiến thức theo nội dung môn học. Ngoài ra phương pháp tích cực còn hướng tới phát triển kĩ năng sống cho học sinh như: Hợp tác, giao tiếp, quản lí, tổ chức, điều hành, ra quyết định, tích hợp công nghệ thông tin vào giải quyết công việc và thực hiện các sản phẩm. * Đánh giá: Học sinh được tham gia cùng giáo viên đánh giá; tự đánh giá bản thân; đánh giá chéo các bạn trong nhóm và các nhóm khác. SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH Ít và không thường xuyên - Là hệ thống bài tập, các câu trả lời, các mô hình học tập … của học sinh đã giải quyết được qua các hoạt động học. 3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được 3.1. Hiệu quả kinh tế - Phương pháp dạy học sử dụng trò chơi chỉ được giới thiệu trong các quyển sách về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực được đưa ra ở nhiều sách khác nhau. Do đó để giáo 13 viên và học sinh nắm được một cách có hệ thống thường phải đọc, mua nhiều tài liệu có liên quan, giá thành cao (khoảng 300.000 đồng - 500.000 đồng). - Sáng kiến này sẽ là tài liệu súc tích, ngắn gọn, khá đầy đủ về phương pháp trò chơi trong dạy học môn Toán, giúp tiết kiệm được nhiều chi phí, giảm thiểu thời gian tìm tòi, nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và tạo hứng thú học tập cho học sinh, … - Sáng kiến đưa ra những trường hợp cụ thể, vận dụng hiệu quả phương pháp trò chơi vào trong quá trình dạy học. Đây có thể coi là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích đối với giáo viên, học sinh, sinh viên sư phạm mới ra trường; giá trị của nguồn tài liệu này có thể tương đương với một cuốn sách trị giá 200 000 đồng. 3.2. Hiệu quả xã hội - Giải pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học, tạo nên không khí học tập hăng say, hứng thú và hiệu quả, học sinh thấy được kiến thức thiết thực với cuộc sống và nghề nghiệp trong tương lai. - Giải pháp mới góp phần rèn luyện, phát triển các năng lực, kỹ năng làm việc nhóm của học sinh, đây là năng lực cần thiết cho sự hội nhập quốc tế. + Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập của học sinh. + Giải pháp mới góp phần giúp học sinh có niềm đam mê hứng thú trong học tập, hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan. + Giải pháp mới góp phần hình thành cho học sinh tình yêu quê hương đất nước; con người, có ý thức tương trợ nhau và cùng nhau giải quyết các vấn đề thực tiễn … góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh có chất lượng cuộc sống tốt. + Nâng cao kết quả học tập của học sinh: nâng cao tỉ lệ học sinh khá giỏi; hình thành và bồi dưỡng được đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh; tỉ lệ HS thi đỗ vào các trường Đại học - Cao đẳng. - Đối với giáo viên: + Góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, sự hợp tác với đồng nghiệp trong quá trình dạy học, tạo cơ hội xây dựng quan hệ với học sinh. Đưa ra các mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các đối tượng học sinh đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn trong dạy học. + Nâng cao hiệu quả đào tạo, chất lượng bài dạy (Phụ lục 5).. + Thiết thực góp phần đổi mới hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá chất lượng của học sinh theo hướng phát huy năng lực tự học, tự khám phá tri thức cho học sinh. + Củng cố niềm tin, sức mạnh, gắn bó với sự nghiệp trồng người. - Đối với các cơ quan quản lý giáo dục: + Góp phần nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh. + Thúc đẩy đổi mới dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở giáo dục. + Tạo ra niềm tin đối với xã hội trong sự nghiệp giáo dục. 14 4. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 4.1. Điều kiện áp dụng Sáng kiến là nguồn tư liệu hữu ích, dễ dàng sử dụng; không đòi hỏi yêu cầu kĩ thuật hỗ trợ. Những phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được ứng dụng và những bài giảng cụ thể trong một số bài học nên thuận lợi cho giáo viên và học sinh tham khảo, tra cứu; góp phần thiết thực đổi mới dạy học, kiểm tra, đánh giá, nâng cao chất lượng giáo dục. 4.2. Khả năng áp dụng - Đối với trường của tôi: Sau một năm áp dụng sáng kiến đã đạt được nhiều kết quả khả quan. - Những nội dung kiến thức được truyền tải tới học sinh bằng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực khác nhau, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Vì vậy mọi đối tượng học sinh, không phân biệt trình độ nhận thức, không phân biệt loại hình trường lớp đều dễ dàng tiếp nhận kiến thức. - Sáng kiến là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên và học sinh, có thể sử dụng thường xuyên vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đại trà; hoàn thiện nhân cách cho học sinh. - Đây là hoạt động dạy học tích cực thông qua các bài học trong chương trình Toán học THPT để phát triển năng lực học sinh. Do đó có thể áp dụng thường xuyên trên tất cả các học sinh THPT và tất cả các giáo viên bộ môn Toán học – THPT đều có thể sử dụng được giải pháp này trong điều kiện cơ sở vật chất hiện có của tất cả các nhà trường. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ninh Bình, ngày 08 tháng 5 năm 2019 XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ CƠ SỞ 15 Người nộp đơn PHỤ LỤC Phụ lục 1. Một số tiết dạy/ hoạt động học thiết kế theo phương pháp trò chơi. 1. BÀI “NHỊ THỨC NIU - TƠN” (Đại số và giải tích 11, tiết 1). Với bài “Nhị thức Niu - Tơn”, thay vì dạy học theo cách truyền thống (gọi học sinh pháp vấn và dẫn dắt vào bài mới), chúng ta có thể cho học sinh “Khởi động” và “Hình thành kiến thức mới” bằng cách sử dụng phương pháp “trò chơi”, kết hợp với phương pháp làm việc nhóm đồng thời sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi ...cho mỗi nhóm. - Mục tiêu: + Tạo sự hứng thú cho học sinh tiếp cận kiến thức mới bằng cách đưa tới cho học sinh những câu hỏi, hình ảnh liên quan tới kiến thức mới từ những kiến thức học sinh đã biết, từ đó học sinh biết quy lạ về quen và khắc sâu kiến thức. + Rèn cho học sinh tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong nhóm. + Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể. - Nội dung, phương pháp tổ chức: + Tổ chức: Giáo viên chia lớp thành 4 đội: Đội 1, đội 2, đội 3, đội 4 để tham gia trò chơi. Trò chơi của chúng ta gồm 4 vòng thi: Vòng 1 là khởi động, vòng 2 là vượt chướng ngại vật, vòng 3 là tăng tốc và vòng 4 là về đích. Các đội sẽ trải qua các vòng thi, đội nào có tổng điểm cao hơn thì đội đó dành chiến thắng và nhận được phần quà. Thể lệ trò chơi. Vòng 1: Khởi động. Cách chơi: + Có bốn câu hỏi cho bốn đội, mỗi đội trả lời một câu hỏi vào bảng phụ, sau đó cử đại diện trả lời câu hỏi của đội mình. + Thời gian cho mỗi câu là 50 giây. + Mỗi đội trả lời đúng sẽ được cộng 10 điểm, trả lời sai hoặc không đưa ra được câu trả lời thì không được điểm, điểm được dành cho đội khác có câu trả lời nhanh nhất. Câu 1 (Đội 1). Khai triển các hằng đẳng thức sau: (𝑎 + 𝑏)2 , (𝑎 + 𝑏)3 ? Câu 2 (Đội 2). Khai triển các hằng đẳng thức sau: (𝑎 + 𝑏)4 ? Câu 3 (Đội 3). Tính các giá trị: C20 ; C21 ; C22 C30 ; C31; C32 ; C33 C40 ; C41 ; C42 ; C43 ; C44 ? Câu 4 (Đội 4). Nêu công thức và tính chất của Cnk ? 16 Vòng 2: Vượt chướng ngại vật. Cách chơi: + Các đội chơi sẽ thảo luận và làm một bài tập mà giáo viên đưa ra. + Thời gian cho mỗi đội là 6 phút thảo luận, sau đó cử đại diện lên bảng trình bày + Đội nào xong trước, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 20 điểm; đội xong thứ hai, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 15 điểm; đội xong thứ ba, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 10 điểm; đội xong thứ tư, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 10 điểm; và bị trừ điểm tùy theo lỗi sai. Câu hỏi: Hãy so sánh các hệ số của các hằng đẳng thức với các tổ hợp ở trên ? Vòng 3: Tăng tốc. Cách chơi: + Các đội chơi sẽ thảo luận và làm một bài tập mà giáo viên đưa ra. + Thời gian cho mỗi đội là 8 phút thảo luận, sau đó cử đại diện lên bảng trình bày + Đội nào xong trước, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 20 điểm; đội xong thứ hai, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 15 điểm; đội xong thứ ba, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 10 điểm; đội xong thứ tư, trình bày đúng, đủ sẽ được cộng 10 điểm; và bị trừ điểm tùy theo lỗi sai. Câu hỏi: Viết lại các hằng đẳng thức trên với hệ số là các tổ hợp. Từ đó dự đoán công thức tổng quát (a +b)n ? Vòng 4: Về đích. Cách chơi: + Các đội chơi cùng theo dõi đoạn video và trả lời câu hỏi : “Ông là ai” ? + Đội nào có câu trả lời đúng trước được 10 điểm, nếu trả lời sai thì đội đó sẽ mất quyền chơi tiếp; đội trả lời thứ hai đúng được 8 điểm; đội trả lời đúng thứ 3 được 6 điểm và đội trả lời cuối cùng đúng được 4 điểm. 17 Sau khi kết thúc bốn vòng thi, giáo viên giới thiệu về “Nhị thức Niu – Tơn”, giới thiệu về lịch sử của công thức khai triển đó và tổng quát lại công thức khai triển dạng (a + b)n. 2. BÀI: ÔN TẬP CHƯƠNG: TỔ HỢP – XÁC SUẤT Để tiết học ôn tập sôi nổi, hiệu quả và không nhàm chán, tôi thiết kế tiết học bằng cách sử dụng phương pháp trò chơi Trò chơi: Đường lên đỉnh Olympia Mục tiêu: + Tạo cho học sinh hứng thú để bắt đầu tiết học. + Ôn lại một số định nghĩa, khái niệm cơ bản + Ôn lại các dạng bài tập trọng tâm. + Giới thiệu một số nhà toán học có liên quan. Nội dung và phương pháp tổ chức: Giáo viên chia lớp thành bốn nhóm. KHỞI ĐỘNG Mỗi nhóm lần lượt trả lời 4 câu hỏi trong vòng 60 giây. Trả lời đúng một câu được 10 điểm. Sai không bị trừ điểm. Nhóm 1: 1. Không gian mẫu kí hiệu là gì? 2. Nêu công thức tính xác suất của biến cố A? 3. Cho tập A gồm n phần tử. Khi sắp xếp n phần tử này theo 1 thứ tự , ta được một ..... các phần tử của tập A. 4. Có bao nhiêu số tự nhiên có hai chữ số khác nhau? Nhóm 2: 1. Tập hợp tất cả các kết quả có thể xảy ra của một phép thử gọi là gì? 2. Trên một đường tròn có 10 điểm. Hỏi có bao nhiêu tam giác được tạo thành từ 10 điểm trên? 3. Biến cố nào có xác suất bằng 1? 4. Cho tập A có n phần tử. Mỗi tập con của A có k phần tử được gọi là một … chập k của A. Nhóm 3: 1. Có bao nhiêu cách sắp xếp 4 bạn vào một bàn có 4 chỗ ngồi. 2. Cho tập A có n phần tử. Lấy ra k phần tử của tập hợp A và sắp xếp theo một thứ tự ta được một … chập k của n phần tử của A. 3. Tập con của không gian mẫu được gọi là gì? 4. Xác suất của một biến cố có giá trị thuộc tập nào? 18 Nhóm 4: 1. 2. 3. 4. Biến cố nào có xác suất bằng 0? Trong khai triển Newton, (𝑎 + 𝑏)𝑛 có bao nhiêu số hạng? Có bao nhiêu số điện thoại có 6 chữ số bất kì? Cho biến cố A. Khi đó biến cố “Không xảy ra A” được gọi là biến cố gì? VƯỢT CHƯỚNG NGẠI VẬT Các nhóm lần lượt chọn các câu hỏi hàng ngang và trả lời. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm. Nhóm nào phát hiện ra từ chìa khóa trước sẽ được 50 điểm. Câu hỏi: 1. Ai là tác giả của cuốn sách “Nghệ thuật phỏng đoán”, xuất bản năm 1713, cuốn sách mở đầu cho của lí thuyết xác suất. 2. Pascal và nhà toán học nào là hai người đầu tiên đặt nền móng cho lí thuyết xác suất. 3. Tên viết tắt của tổ chức y tế thế giới. 4. Chọn 4 viên bi bất kì trong 10 viên bi thì số cách chọn là … chập 4 của 10 phần tử. 5. Bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông là định lí nổi tiếng của nhà toán học nào? 6. Lớp 11A có 35 học sinh. Chọn 3 học sinh trong lớp vào các vị trí lớp trưởng, lớp phó, bí thư thì số cách chọn là … chập 3 của 35 phần tử. B P Y T E R N O U L L F E R M A T W H O T Ổ H Ợ P H A G O R A S C H Ỉ N H H Ợ I P TĂNG TỐC Giáo viên đưa ra bài tập cho các nhóm. Yêu cầu: trình bày bài vào bảng phụ trong 10 phút. Sau thời gian trên, giáo viên cho các nhóm treo bảng phụ và nhận xét chéo. Cuối cùng, dựa trên kết quả nhận xét, giáo viên cho điểm của các nhóm. Lớp 11E có 36 học sinh trong đó có 15 nam và 21 nữ. Giáo viên chủ nhiệm muốn thực hiện các công việc sau: 1. Sắp xếp lớp thành 2 hàng dọc độc lập (một hàng nam, 1 hàng nữ). Hỏi GVCN có bao nhiêu cách xếp? 19 2. Chọn ra 3 học sinh đi trực nhật. Hỏi GVCN có bao nhiêu cách chọn? 3. Chọn ra 3 học sinh phân vào 3 vị trí lớp trưởng, lớp phó, bí thư. Hỏi GVCN có bao nhiêu cách phân công? 4. Tính xác suất khi chọn ra 3 học sinh đi trực nhật thì có ít nhất 1 học sinh nữ? VỀ ĐÍCH Trong thời gian 60s mỗi đội trả lời 2 câu hỏi bất kì trong số 10 câu hỏi được đánh số từ 1 đến 10, mỗi câu đúng được 20 điểm với hình thức trả lời nhanh. Nếu trả lời sai các đội còn lại có quyền trả lời, nếu trả lời đúng được 20 điểm, nếu sai bị trừ 5 điểm. Mỗi đội được 1 lần sử dụng ngôi sao hy vọng trả lời đúng sẽ được 40 điểm còn nếu sai thì bị trừ 10 điểm. 1. Một đội xây dựng gồm 10 công nhân, 3 kĩ sư. Để thành lập một tổ công tác, cần 1 kĩ sư làm tổ trưởng, 1 công nhân làm tổ phó, và 5 công nhân làm tổ viên. Hỏi có bao nhiêu cách lập một tổ công tác như trên? 2. Gieo một con súc sắc trong 2 lần. Tính xác suất khi gieo xuất hiện mặt chấm 6 lần đầu tiên? 3. Có thể lập được bao nhiêu số tự nhiên có 4 chữ số khác nhau được lấy từ các số 0, 1, 2, 3, 4, 5 ? 4. Một bạn muốn mua 1 cây bút chì, 1 cây bút mực trong 1 cửa hàng có 8 cây bút mực khác nhau và 7 cây bút chì khác nhau. Hỏi bạn đó có bao nhiêu cách chọn mua? 5. Một đợt xổ số phát hành 100 vé, trong đó có 1 giải nhất, 2 giải nhì, 3 giải ba và 10 giải khuyến khích. Tính xác suất để 1 người mua 3 vé trúng 1 giải nhì và 2 giải khuyến khích? 6. Lớp 11E có 36 học sinh. Giáo viên chủ nhiệm có bao nhiêu cách phân công một nhóm gồm 2 học sinh trực nhật trong đó có 1 người làm nhóm trưởng? 7. Có 5 cuốn sách toán khác nhau, 4 cuốn sách văn khác nhau. Có bao nhiêu cách xếp chúng lên một giá sách sao cho các cuốn sách cùng môn xếp cạnh nhau? 8. Có 2 thùng sữa mỗi thùng đựng 20 hộp. Trong mỗi thùng có 16 hộp sữa tốt. Lấy ngẫu nhiên mỗi thùng 1 hộp. Tính xác suất để 2 hộp sữa lấy ra có chất lượng tốt? 9. Một thầy giáo có 20 bài toán,trong đó có 5 khó, 5 tb, 10 dễ. Có bao nhiêu để thầy giáo đó xây dựng đề kiểm tra gồm 5 câu trong đó có 2 câu dễ, 2 câu trung bình và 1 câu khó? 10. Một ngân hàng đề thi gồm 100 câu hỏi. Mỗi đề thi có 5 câu, một học sinh học thuộc 80 câu. Tính xác suất để học sinh đó rút ngẫu nhiên được 1 đề thi có 4 câu học thuộc? Sản phẩm: + Câu trả lời của các nhóm. + Phiếu thu hoạch của các nhóm sau giờ học. 3. BÀI “CẤP SỐ CỘNG”. Với bài “Cấp sộ cộng”, để tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập và hình thành kiến thức về cấp số cộng tôi sử dụng phương pháp trò chơi vào để khởi động. Hoạt động: Khởi động 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng