Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn – vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng...

Tài liệu Skkn – vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng

.DOC
17
188
98

Mô tả:

SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận Mối quan hệ trong quá trình dạy học đó là một nghệ thuật “ cho” và “nhận”, truyền thụ và lĩnh hội. Vì thế câu hỏi lớn cần đặt ra ở đây là: Người “cho” truyền thụ như thế nào, bằng cách nào để người “nhận” có thể lĩnh hội với tất cả lòng say mê, tính tự giác, chủ động tích cực và có hiệu quả. Để đạt được điều đó đòi hỏi giáo viên- người truyền thụ phải có sự suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng được các phương pháp phù hợp với nội dung, đặc thù của từng bài học. Người giáo viên lên lớp cũng giống như người nghệ sĩ khi lên sân khấu để cuốn hút được khán giả thì ngoài năng khiếu ra còn đòi hỏi cả một nghệ thuật. Người giáo viên cũng vậy, để giờ giảng của mình thực sự sinh động và học sinh có thể tiếp thu bài một cách có hiệu quả thì ngoài những tri thức vốn có của mình một yếu tố không thể thiếu được là năng lực sư phạm- hay nói cách khác là phương pháp, kĩ năng truyền thụ. Theo phương châm của giáo dục đào tạo hiện nay “ lấy học sinh làm vị trí trung tâm trong các giờ học”, học sinh phải là chủ thể tích cực thì việc lựa chọn phương pháp phù hợp bài giảng, phát huy được tính chủ động, tích cưc, sáng tạo của học sinh đây là một vấn đề không đơn giản. Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đòi hỏi con người có một số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác, năng lực thích ứng... Những yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn điện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân, từ học chế đào tạo, cách thiết kế chương trình, tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục thích hợp hơn. Trong một lớp học, cần coi trọng sự khám phá có trợ giúp hơn là sự tự khám phá. Từ đó cần rút ra một nguyên tắc là dạy học cần tổ chức cho HS học tập với sự trợ giúp, hỗ trợ của bạn học, học tập cùng nhau sẽ giúp HS lĩnh hội kiến thức tốt hơn Trong chương trình của trường phổ thông , môn Ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng và có thế mạnh riêng . Bởi môn Ngữ văn trước hết giúp HS tiếp xúc với vẻ đẹp kỳ diệu và phong phú của tiếng mẹ đẻ , tiếp xúc với vốn văn hóa dân 1 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng tộc và văn hoá nhân loại để bồi dưỡng tâm hồn , góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Thực tế của quá trình dạy và học trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay đòi hỏi người dạy nói chung và dạy Văn nói riêng cần phải có những đổi mới về mặt phương pháp dạy học sao cho phù hợp với yêu cầu lấy học sinh làm trung tâm. Do vậy đổi mới phương pháp giảng dạy Văn đang là yêu cầu cấp bách và nhiệm vụ nặng nề đối với người thầy không chỉ để thực hiện những chỉ thị mà là nhằm đáp ứng được nhu cầu chính đáng của người học và của công tác đào tạo trong tình hình hiện nay. Trong chương trình Ngữ văn 12 – Cơ bản, cụm văn bản nhật dụng có vai trò rất quan trọng. Văn bản nhật dụng có đặc điểm riêng của nó, tác động tới quá trình nhận thức và hành động của học sinh theo đặc điểm riêng. Nó không giống như các tác phẩm văn học, văn bản nhật dụng là những văn bản có nội dung thể hiện những vấn đề có ý nghĩa thời sự, bức thiết đối với thời đại, nhằm giúp học sinh biết chia sẻ, gắn bó với đất nước và nhân loại trong các vấn đề chung, những lo âu, những khát vọng. Văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình không phải để học như các bài học khác, không cần giới thiệu về tác giả hay hoàn cảnh sáng tác mà qua quá trình đọc, học, trao đổi thảo luận học sinh đi đến những hiểu biết và thái độ chung trước các vấn đề đặt ra với đất nước và nhân loại. Vậy làm thế nào để lôi cuốn học sinh vào những bài học khô khan, đầy những triết lí, giáo huấn như vậy? Đó là một câu hỏi lớn cho người giáo viên trong quá trình giảng dạy. Vì thế cách dạy học tổ chức các dạng hoạt động học tập khác nhau cho HS, cần thay đổi phương thức cưỡng bức HS học tập bằng phương thức học tập hợp tác, làm việc cùng nhau đối với các bài học này được coi là một trong những phương pháp có nhiều lợi thế 2. Cơ sở thực tiễn Như chúng ta đã biết vai trò và chức năng của văn bản nhật dụng nói chung và cụm văn bản nhật dụng trong chương trình lớp 12 nói riêng đều có đặc điểm nổi bật là: Về đề tài (văn bản nhật dụng sử dụng có đề tài đa dạng, phong phú như: môi trường, bệnh dịch, vấn đề văn hóa dân tộc…). Về chức năng:( Có thể bàn luận, thuyết minh, tường thuật, miêu tả…). Về tính cập nhật là tính thời sự kịp thời đáp ứng nhu cầu đòi của cuộc sống hằng ngày, cuộc sống hiện tại, gắn liền với những vấn đề cơ bản của cộng đồng xã hội… 2 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng Vì thế học sinh học văn bản nhật dụng có vai trò và mục đích rất quan trọng bởi học văn bản nhật dụng thì giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng là quan trọng vì các văn bản nhật dụng đều vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất định. Học văn bản nhật dụng không để chỉ mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, rút ngăn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội. Qua kinh nghiệm những năm giảng dạy văn bản nhật dụng từ khối 6 đến khối 9 của tổ xã hội và đặc biệt trong ba năm liền tôi đều được phân công giảng dạy ngữ văn khối 9 (chương trình cải cách). Trong đó có ba bài thuộc văn bản nhật dụng, tôi đã tìm tòi và vận dụng bước đầu những kinh nghiệm này dần dần vào bài giảng và năm học này 2007-2008 tôi đã thu được kết quả khả quan trong bài dạy, gây được hứng thú cho học sinh khi học và dạy loại văn bản này. - Trước hết đối với giáo viên ngoài vận dụng nhuần nhuyễn sách giáo viên, thiết kế bài giảng…thì tôi đã căn cứ vào đặc điểm của văn bản nhật dụng là tình thực tiễn, cập nhật, lịch sử qua tài liệu, sách báo, thông tin qua mạng, từng ngày, từng năm…tình hình trong nước, thế giới, các sự kiện qua đài, báo chí… để áp dụng vào phần mở bài, và liên hệ trực tiếp vào từng phần của bài học để học sinh nắm bắt được các thông tin cập nhật, gắn với thực tế, kích thích tính tò mò, tính chân thực của tác phẩm điều đó sẽ tạo hứng thú, tạo sự ham học hơn, học sinh sẽ tích cực học môn ngữ văn hơn. Đồng thời tạo niềm tin cho giáo viên hơn khi giảng dạy và giảm bớt sự căng thẳng, khô khan, tính lí thuyết của văn bản. II. MỤC ĐÍCH Với kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và khả năng có hạn của mình, bản thân tôi muốn hướng đến những mục tiêu: * Với giáo viên: - Giúp các thầy cô giáo một ít kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học trong các bài học về tác gia văn học, từ đó mang lại hiệu quả cho tiết dạy. - Giúp các đồng nghiệp có những hiểu biết nhất định về tin học, về cách sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin để chuẩn bị một tiết dạy có hiệu quả. * Với học sinh: 3 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng - Giúp các em học sinh khi có tiết học theo phương pháp mới sẽ có sự ham thích đối với các môn ngữ văn nói chung và các bài học về tác gia văn học nói riêng. - Hiện nay, các em học sinh THPT đã rất quen với máy vi tính, các em có thể lên mạng Internet để tìm thông tin, để chơi Games trực tuyến, để xem phim, nghe nhạc…Chính sự thâm nhập của công nghệ thông tin đã làm thay đổi tận gốc rễ nhiều vấn đề của xã hội. Qua các bài học về tác giả văn học được ứng dụng CNTT, các em sẽ có cơ hội để tiếp xúc nhiều hơn với công nghệ thông tin và thấy được hiệu quả của việc ứng dụng thành tựu khoa học hiện đại trong đời sống cũng như trong lao động, học tập. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Các bài học về tác gia văn học trong chương trình 11 và 12 gồm: + Nguyễn Đình Chiểu ( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) + Nam Cao (Chí Phèo) + Hồ Chí Minh (Tuyên ngôn độc lập) + Tố Hữu ( Việt Bắc) Và một số bài đọc văn có phần tiểu dẫn khái quát về tác giả. - Các lớp được phân công giảng dạy 12A1; 12A2; 12A5; 11A1 với tổng số 175 học sinh. PHẦN THỨ HAI I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH Dạy học là dạy cho học sinh tự học. Muốn được như vậy, trước tiên phải tạo cho học sinh một hứng thú học tập. Ngày nay các em đã rất quen với máy tính trong các giờ tin học ở trường, các giờ lên mạng Internet ở nhà, ở các tụ điểm kinh doanh mạng… Hiện nay tin học đã được xem là một môn học chính thức trong nhà trường phổ thông. Tin học cũng là một môn thi của những kì thi chọn học sinh giỏi các cấp, nhiều trường đã trang bị được phòng máy tính phục vụ cho công việc học tập của học sinh, rất nhiều em ham thích môn học mới này, điều đó cho thấy tin học ngày càng trở nên phổ biến, hơn nữa việc trang bị cho mình một máy vi tính không còn là chuyện quá xa vời đối với giáo viên có tâm huyết.Việc soạn và giảng dạy bằng giáo án điện tử đã được các cấp lãnh đạo chuyên môn khuyến khích vì những ưu điểm của nó đem lại. 4 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng 1. Tình hình ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở môn Ngữ văn tại trường THPT Bất Bạt 1.1 Những thuận lợi - Ban Giám hiệu nhà trường có quyết tâm cao và tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh việc đổi mới PPDH. + Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc phục vụ cho đổi mới PPDH. Năm học 2008 – 2009 nhà trường có 02 phòng máy tính với 25 máy có nối mạng; 02 chiếu Projector và phòng chiếu hoàn thiện đảm bảo cho việc giảng dạy bằng phương pháp ứng dụng CNTT. + Tổ chức các lớp học vi tính, các buổi tập huấn sử dụng một số phần mềm thông dụng cho giáo viên... + Tổ chức phong trào thao giảng đổi mới PPDH và được đông đảo cán bộ giáo viên nhiệt tình tham gia. - Trường có một số giáo viên đã sử dụng thành thạo các phần mềm vi tính, thuận lợi cho việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học. - Được sự ủng hộ tích cực của học sinh, đa số học sinh rất mong muốn được học những giờ học ứng dụng CNTT. Qua việc điều tra đối tượng học sinh chúng tôi đã thu được kết quả cụ thể sau: Bảng 1: Số liệu điều tra mức độ thích học các giờ học có ứng dụng CNTT của học sinh Đối tượng Rất thích Thích vừa Không thích Không có ý điều tra phải kiến 175 HS khối 110 49 10 6 11 và 12 (62,9%) (28%) (5,7%) (3,4%) Tuy nhiên mức độ hứng thú và tiếp thu bài hiệu quả của học sinh trong những giờ học có ứng dụng CNTT còn phụ thuộc vào chất lượng của giờ dạy. 1.2 Những khó khăn * Về phía giáo viên: Hiện nay việc ứng dụng CNTT trong dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường vẫn còn hạn chế, đa số giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn đều chưa có tiết dạy ứng dụng CNTT. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, cả trong nhận thức lẫn hành động, cả trong khả năng và sự nhiệt tình của giáo viên: - Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ. - Nhiều giáo viên ngại sử dụng CNTT do tốn thời gian, công sức. 5 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng - Nhiều giáo viên không muốn trang bị máy tính phục vụ dạy học khi đời sống gia đình còn nhiều khó khăn. - Một số giáo viên khác chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng CNTT, chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính... Do vậy, giáo viên rất ngại làm chủ kỹ thuật phức tạp của máy tính. - Một số giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, mang nặng tính chất trình diễn. Nhiều giáo viên còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao. - Ứng dụng CNTT vào dạy học sẽ làm giảm mạnh sự giao tiếp giữa thầy và trò, giữa trò và trò nếu giáo viên không sử dụng kết hợp phong phú với các phương pháp dạy học khác. - Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số giáo viên thao tác quá nhanh, học sinh không kịp chép bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của các em không cao. Sau đây là một vài số liệu điều tra về mức độ hiểu bài của học sinh trong những giờ học có ứng dụng CNTT. Bảng 2: Số liệu điều tra về mức độ hiểu bài của học sinh Đối tượng điều tra Hiểu hoàn toàn Hiểu các ý chính Hiểu các ý chính nhưng chưa đầy đủ 14 (8 %) Hoàn toàn không hiểu 175 HS khối 113 (64,5%) 48 (27,5%) 0 (0%) 11 và 12 * Về phía học sinh: Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ học có ứng dụng CNTT. Song, bên cạnh đa số học sinh tiếp cận nhanh chóng với phương pháp học mới này vẫn còn những tồn tại cần khắc phục sau: - Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này, chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe thầy giáo giảng quên cả việc ghi bài. - Một số học sinh gặp khó khăn trong việc ghi chép bài: không biết lựa chọn thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ... 6 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng Bảng 3: Số liệu điều tra về khả năng ghi chép bài của học sinh trong giờ học ứng dụng CNTT Đối tượng điều Ghi bài đầy đủ Ghi bài chưa đầy Không ghi được tra đủ bài 175 HS khối 11 121 (69.1%) 48(27,4%) 6 (3,5%) và 12 2. Ứng dụng CNTT trong các giờ dạy về tác gia văn học Việc thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT nói cụ thể hơn là dùng những máy móc, thiết bị hiện đại sẵn có như máy tính, máy chiếu, máy scan và dùng những chương trình phần cứng, phần mềm có sẵn để trình chiếu những nội dung bài học mà ta muốn cho học sinh xem. Cũng như việc sử dụng các phương tiện cách dạy học khác thì phương tiện này cũng có những ưu, nhược điểm riêng của nó. Đặc biệt là trong việc giảng dạy môn Ngữ văn và trong các bài học về tác gia văn học. 2.1 Về ưu điểm - Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trong việc ghi bảng. Giáo viên lên lớp nhẹ nhàng, không phải ôm đồm quá nhiều đồ dùng dạy học lỉnh kỉnh như bảng phụ và những đồ dùng trực quan truyền thống. - Bài học có nhiều hình ảnh thật, đẹp mắt âm thanh sinh động gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của tác giả giúp HS có thể hiểu và khắc sâu hơn về tác giả đó. Mặt khác, ngoài việc trình chiếu thông thường, ta còn có thể dùng các hiệu ứng sẽ gây được sự thích thú, chú ý của học sinh tạo cho các em một sự kích thích hào hứng. Từ đó, tiết học sẽ sinh động hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. - Giáo án điện tử dễ bổ sung, chỉnh sửa, thay đổi cấu trúc bài dạy, dễ trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, v.v... Qua quá trình giảng dạy giáo viên có cơ hội để rút kinh nghiệm từ các tiết học cụ thể để bổ sung, sửa chữa sao cho bài giảng của mình đạt hiệu quả cao. - Thông qua việc tìm tòi tư liệu, truy cập internet và các trang web phục vụ giảng dạy giáo viên được mở rộng tầm hiểu biết, giao lưu học hỏi, tiếp cận được với thực tế xã hội nhanh chóng tích luỹ cho mình vốn hiểu biết và nhận thức. Đối với học sinh, đây cũng là một yếu tố giúp cho các em làm quen tạo hứng 7 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng thú cho các em say mê với khoa học kĩ thuật để bước đầu các em có thể sử dụng internet và các phần mềm hỗ trợ vào việc học tập của mình. 2.2 Về nhược điểm: Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Ngữ văn còn tồn tại không ít những hạn chế cần khắc phục: - Dạy các bài về tác gia văn học không đơn thuần chỉ là cung cấp kiến thức văn học sử về tác giả đó mà còn dạy cách tiếp nhận tác phẩm của tác giả, bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào, trân trọng với các giá trị nghệ thuật và người sáng tạo ra chúng. Hoạt động này đòi hỏi người thầy phải vận dụng nhiều phương pháp, phương tiện dạy học khác nhau một cách linh hoạt, phù hợp. Nếu ứng dụng CNTT không có sự chọn lọc cho đúng tính chất, nội dung, cách thức hoặc ứng dụng CNTT một cách thái quá, cả giờ dạy giáo viên chỉ click chuột và …click chuột thì sẽ làm mất hết cảm xúc tự nhiên, làm hạn chế quá trình tiếp nhận bài dạy. Như vậy, hiệu quả sẽ không như mong muốn. - Trong bài dạy nếu giáo viên còn nặng về hình thức, mang nặng tính chất trình diễn với nhiều hình ảnh, hiệu ứng rối mắt khiến cho HS có cơ hội bàn tán và chú ý quá nhiều các hiệu ứng là cho giờ học kém hiệu quả. Nhiều giờ dạy giáo viên còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao. - Một số giáo viên thao tác quá nhanh, học sinh không kịp chép bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của các em không cao. - Việc soạn giảng với các phần mềm mất rất nhiều thời gian, rồi máy hư, phần mềm bị lỗi …tất cả sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến giờ dạy của giáo viên. - Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ Văn có ứng dụng CNTT. Song, bên cạnh đa số học sinh tiếp cận nhanh chóng với phương pháp học mới này vẫn còn những tồn tại cần khắc phục sau: Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này, chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe thầy giáo giảng quên cả việc ghi bài. Một số khác gặp khó khăn trong việc ghi chép bài: không biết lựa chọn thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ... 8 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng II) MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CNTT GÓP PHẦN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN QUA CÁC BÀI HỌC VỀ TÁC GIA VĂN HỌC. 1. Xây dựng thư viên tư liệu. Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn Ngữ văn nói chung và các bài học về tác gia văn học nói riêng kho tư liệu là điều kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng. Nhưng hiện nay, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa không nhiều. Chính vì vậy bản thân giáo viên phải chú trọng xây dựng thư viện tư liệu phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. - Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu, sách, báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn. - Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước đây. Việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn: + Khai thác thông tin, tranh, ảnh, tư liệu bài giảng từ mạng Internet + Khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp chí ... Trong quá trình tham khảo sách, báo, tài liệu gặp những tranh, ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng máy Scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy. + Khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính Ví dụ: Khi tìm được các băng hình, các đĩa CD – Rom nói về cuộc đời tác giả, các tác phẩm của tác giả đó… ta lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng phần mềm cắt các đoạn phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư viện tư liệu để phục vụ giảng dạy… Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ thành từng file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. 2. Xây dựng bài giảng điện tử. - Phần mềm CNTT được giáo viên Ngữ văn sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát 9 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng nội dung bài học, mỗi slide được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, giáo viên có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (phim, ảnh, nhạc…) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn. Bên cạnh Powerpoint là phần mềm Violet, phần mềm thiết kế bài giảng điện tử của Công ty Bạch Kim, với giao diện trực quan, dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp hoàn toàn bằng tiếng Việt rất thuận lợi cho giáo viên. Phần mềm này cũng cung cấp một hệ thống các công cụ soạn thảo giúp giáo viên soạn bài giảng nhanh chóng. - Thiết kế một giáo án điện tử không thể tuỳ tiện, tuỳ hứng mà cần tuân theo những quy tắc, quy trình nhất định tương tự như quá trình soạn một giáo án truyền thống. Việc soạn giảng có thể tiến hành theo các bước sau: + Xác định rõ mục tiêu bài dạy. + Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm. + Lựa chọn tư liệu, tranh ảnh, phim…và những thông tin cần thiết phục vụ bài dạy. + Lựa chọn phầm mềm soạn giảng, lựa chọn cách trình bày, các hiệu ứng phù hợp… xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động. + Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng. 3. Đa dạng hóa các phương pháp dạy học. Bên cạnh ứng dụng CNTT được coi là phương pháp hiện đại góp phần tích cực cho đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên cần chú ý đa dạng hóa các hình thức dạy học, phải biết kết hợp với các phương pháp dạy học khác như: nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, làm việc theo nhóm, hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứu qua các phiếu học tập... Tùy theo đặc điểm của từng chương, từng bài, tùy theo đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp mới có thể đạt được hiệu quả cao trong dạy và học. Ví dụ khi dạy bài về tác gia Tố Hữu, giáo viên có thể chiếu một vài hình ảnh theo trình tự cuộc đời tác giả (quê hương xứ Huế, ảnh thủa nhỏ gắn liền với ngôi trường Quốc học Huế, ảnh tham gia kháng chiến ở chiến khu, trang bìa của một cuốn sách nói về cuộc đời thơ và sự nghiệp cách mạng...)rồi phát vấn cho HS câu hỏi, HS dựa vào phần chuẩn bị bài và SGK, làm việc cá nhân và phát biểu các câu hỏi theo gợi ý của giáo viên như slide sau: 10 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng Khi dạy về bài Nam Cao, do SGK đã trình bày khá rõ về tác giả nên giáo viên có thể kết hợp việc hướng dẫn HS chuẩn bị bài theo nhóm có ứng dụng CNTT trước, sau đó trên lớp các nhóm lần lượt trình bày về tác giả qua các mục: tiểu sử và con người, quan điểm nghệ thuật, các đề tài chính và phong cách nghệ thuật. GV nhận xét từng phần và rút kinh nghiệm cho HS. Từ đó tạo cho HS cách tự học, tự nghiên cứu, đọc và khái quát kiến thức, nâng cao năng lực trình bày trước đám đông của HS, thu hút các em vào bài học một cách tự nhiên, say mê, hứng thú. Kết thúc bài học giáo viên có thể chiếu một vài hình ảnh gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của tác giả từ đó nhấn mạnh cho HS thấy vai trò, vị trí của Nam Cao trong văn học Việt Nam. Ví dụ: Khi dạy về Hồ Chí Minh, đây là tác giả rất quen thuộc với HS trong cả bộ môn lịch sử và văn học, giáo viên có thể cho HS xem các video nói về cuộc đời hoạt động của Bác. Từ đó, yêu cầu HS dựa vào SGK tự tìm hiểu phần tiểu sử của tác giả để có thời gian nhấn mạnh vào sự nghiệp văn học của Bác. Trong phần sự nghiệp sáng tác cần chú ý nhấn mạnh quan niệm nghệ thuật và phong cách sáng tác của tác giả. Riêng phần di sản văn học SGK trình bày khá đầy đủ, GV giới thiệu khái quát bằng các slide có gắn liền với các hình ảnh, bìa sách thể hiện nhan đề các tác phẩm văn học của Bác, đồng thời yêu cầu HS 11 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng đọc SGK trả lời các câu hỏi theo phiếu học tập dưới hình thức hoạt động cá nhân Đọc SGK và điền vào các bảng sau Văn chính Truyện và kí Thơ ca luận - Các tác phẩm tiêu biểu - Nội dung chính - Đặc trưng nghệ thuật - Nhận xét chung 4. Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ học tập. Những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng CNTT của học sinh. Nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo nhiều phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là tính năng động, sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay. - Trước hết giáo viên cần phân chia nhóm học tập cụ thể, đặc biệt chí ý chia nhóm sao cho các nhóm đó đều có máy tính hoặc chia các em ở gần nhau để tiện cho việc trao đổi và làm bài tập. - Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh địa chỉ một số trang web và yêu cầu các em tìm kiếm thông tin ở mạng internet để phục vụ công việc học tập theo từng chủ đề, từng giai đoạn văn học hay một bài học về tác phẩm cụ thể. Ví dụ: Có thể hướng dẫn các em lên mạng sưu tầm tài liệu về tác gia Nguyễn Đình Chiểu, Nam Cao, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu,… - Từ các tài liệu mà các em sư tầm được, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tập thuyết trình về một tác gia văn học, một nội dung cụ thể (như: quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuật, sự nghiệp sáng tác…) … kết hợp trình chiếu bằng Powerpiont hay Violet. - Mỗi bài học về tác gia văn học giáo viên yêu cầu các tổ, nhóm xây dựng riêng cho mình kho tư liệu về tác giả đó. Tìm các tranh ảnh, video clip nói về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả, các ý kiến đánh giá về tác giả đó hoặc những 12 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng phát ngôn của chính họ trong quá trình sáng tác thể hiện cho quan niệm nghệ thuật cũng như đặc trưng phong cách của họ. - Giáo viên có thể vận dụng phương pháp dạy học theo dự án của Intel Teach to the Future (Chương trình dạy học cho Tương lai của Intel), phương pháp này đòi hỏi học sinh vừa làm việc theo nhóm vừa ứng dụng CNTT trong quá trình học tập để thiết kế ba bài tập: Bài trình diễn PowerPoint, trang web và ấn phẩm (tờ rơi) để thực hiện ý tưởng dự án của mình. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải được tập huấn các nội dung của Chương trình dạy học cho Tương lai của Intel và hướng dẫn cho học sinh ứng dụng CNTT để thực hiện các yêu cầu của chương trình phục vụ cho quá trình học tập ... III. NHỮNG KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU TỪ VIỆC ỨNG DỤNG CNTT TRONG GIẢNG DẠY NGỮ VĂN QUA CÁC BÀI HỌC VỀ TÁC GIA VĂN HỌC 1) Môn Ngữ văn ở trường phổ thông bao gồm các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Giảng văn. Trong các phân môn này không phải phân môn nào và không phải bài nào, phần nào của mỗi phân môn cũng đều có thể ứng dụng CNTT để giảng dạy được. Và đương nhiên không phải bất cứ tiết nào, bài nào cũng biến thành giáo án điện tử để trình chiếu được. Muốn ứng dụng CNTT thật sự hiệu quả phải chọn các nội dung, các vấn đề phù hợp. Các giờ học về tác gia văn học hoặc có đề cập tới việc giới thiệu tác giả thì phương pháp dạy học có ứng dụng CNTT thể hiện ưu thế của mình rõ nét trong quá trình khái quát kiến thức giúp HS nắm bắt bài học một cách hiệu quả nhanh chóng. 2) Trong dạy – học các bài về tác gia văn học, cần phải sử dụng CNTT ở mức độ vừa phải và sử dụng kết hợp với các dạng hoạt động và các phương tiện dạy học khác (như thuyết giảng, đàm thoại, thảo luận nhóm, phát vấn, nêu vấn đề …) 3) Điều cần lưu ý trong giảng dạy về tác giả văn học, giáo viên là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không đơn giản chỉ là người phát động, cung cấp thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài dạy có tính thiết thực, làm rõ nội dung bài dạy, 13 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng tránh tham lam, nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh không phù hợp làm giảm hiệu quả bài dạy. 4) Khi sử dụng các phầm mềm thiết kế giáo án điện tử phải thận trọng, cân nhắc để lựa chọn các hiệu ứng phù hợp về màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ, cách chạy chữ, thiết kế màn hình, âm thanh, tiếng động phải phù hợp, tránh lạm dụng quá mức khiến học sinh chỉ chú ý vào các cách chữ bay, hình ảnh xuất hiện và biến mất như thế nào. Từ đó chất lượng của giờ giảng dạy sẽ kém hiệu quả thậm chí đi ngược lại với mục tiêu bài học 5) Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách khoa học, để qua từng slile chi tiết, học sinh phải nhận biết được những nội dung nào là nội dung chính cần ghi chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên …Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu , lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời. 6) Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng CNTT chỉ là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo dục con người không thể “công nghệ hóa” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục không thể quy trình hóa được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ (tức mục tiêu về thái độ) cho học sinh. Xác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất. 7) Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao, giáo viên phải thường xuyên không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng CNTT. Để nâng cao khả năng sử dụng CNTT, ngoài việc đến với các lớp tin học, giáo viên có thể tự học (ví dụ: Giáo viên có thể tự học cách soạn giáo án điện tử thông qua phần mềm hướng dẫn tự học Microsoft PowerPoint...) hoặc có thể học ở bạn bè, đồng nghiệp, những giáo viên có kinh nghiệm, có chuyên môn liên quan đến ứng dụng CNTT... Thời đại CNTT phát triển mạnh mẽ, thay đổi từng ngày, từng giờ như hiện nay thì giáo viên phải đóng vai trò là người học thường xuyên để có thể sử dụng CNTT như là một công cụ dạy học có hiệu quả cao góp phần thực hiện cuộc cách mạng giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy và học nói riêng, đang được đặt ra cho các nhà giáo dục 14 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng 8) Nhà trường cần phát triển hơn nữa hệ thống máy tính, máy chiếu giúp cho các thầy giáo, cô giáo có thể tiếp cận và tìm hiểu nhiều ứng dụng của máy tính giúp cho công tác giáo dục tốt hơn đáp ứng theo sự phát triển của xã hội.Đồng thời xây dựng nhiều chương trình thi đua nghiên cứu khoa học áp dụng cho công tác giáo dục để thúc đẩy tính sáng tạo của giáo viên và đẩy nhanh khả năng tiếp cận với nền giáo dục thông qua hệ thống máy tính. KẾT LUẬN Chúng ta đang bước vào thể kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ. Sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho thời kỳ mới của đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng đại của toàn xã hội và của ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Muốn theo kịp với các nước tiên tiến, đón đầu sự phát triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ: chương trình, SGK, kiểm tra đánh giá và đặc biệt là cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại. Sự ra đời của phương pháp mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, đòi hỏi phải có ý thức và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có thể đạt hiệu quả cao. Áp dụng phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi giáo viên phải dành thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như máy chiếu đa năng, máy chiếu đa vật thể, đầu Projector, băng hình, tranh ảnh vào trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung, các bài học tác gia văn học nói riêng là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả tiết học lên gấp bội. Phương pháp là cách làm riêng vốn có của mỗi cá nhân nhưng nó được tích lũy qua quá trình lao động, sáng tạo của bản thân kết hợp với quá trình trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với đồng nghiệp, bè bạn. Vì vậy, cá nhân tôi rất mong được sự đóng góp, trao đổi kinh nghiệm để có thể nâng cao hơn nữa chuyên môn, nghiệp vụ của mình trong quá trình công tác. Trên đây là một số cách làm 15 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng và suy nghĩ của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy, hi vọng sẽ được sự ủng hộ cũng như góp ý của các bạn đồng nghiệp nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong trường THPT. Ba Vì, ngày 20 tháng 5 năm 2009 Người thực hiện Kiều Thị Loan MỤC LỤC STT Nội dung 1 Thông tin chung 2 Nội dung 3 Phần thứ nhất – Đặt vấn đề 4 5 6 Trang 1 2 2 I. Lí do lựa chọn đề tài 2 1. Cơ sở lí luận 2 2. Cơ sở thực tiễn II. Mục đích III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Phần thứ hai 3 3 4 4 I. Đặc điểm tình hình 4 1. Tình hình ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương 7 pháp dạy học ở môn Ngữ văn tại trường THPT Bất Bạt 4 2. Ứng dụng CNTT trong các giờ dạy về tác gia văn học II. Một số biện pháp ứng dụng CNTT góp phần đổi mới 6 8 phương pháp dạy học môn Ngữ văn qua các bài học về tác gia văn học 8 16 SKKN – Vận dụng phương pháp làm việ nhóm trong giảng dạy cụm bài văn nhật dụng 1. Xây dựng thư viên tư liệu. 9 2. Xây dựng giáo án điện tử 9 3. Đa dạng hóa các phương pháp dạy học 11 8 4. Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ học tập. III. Những kinh nghiệm bước đầu từ việc ứng dụng CNTT 12 9 trong giảng dạy Ngữ văn qua các bài học về tác gia văn học Kết luận 14 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng