Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn_vận dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng viết văn thuyết minh c...

Tài liệu Skkn_vận dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng viết văn thuyết minh cho học sinh lớp 8.

.DOC
29
1135
129

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH SƠN TRƯỜNG THCS BA CỤM BẮC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIẾT VĂN THUYẾT MINH CHO HỌC SINH LỚP 8 Giáo viên: Nguyễn Thị Mai Hoa NĂM HỌC: 2013 - 2014 1 MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề …………………………………………………………….. Trang 3 2. Giải quyết vấn đề …………………………………………………….. Trang 5 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề …………………………………………… Trang 5 2.2. Thực trạng của vấn đề……………………………………………… Trang 6 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ………………….. Trang 9 2.3.1. Phương pháp thuyết trình kết hợp giảng giải, minh họa bằng mẫu vật thật hoặc hình ảnh …..…………………………................................. Trang 10 2.3.2. Phương pháp phân tích …………………………………............... Trang 12 2.3.3. Phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu …………………… Trang 14 2.3.4. Phương pháp giao tiếp ….………………………………………... Trang 15 2.3.5. Phương pháp thảo luận nhóm và viết đoạn văn ngắn ……………. Trang 17 2.4. Hiệu quả của SKKN ………………………………….……………. Trang 20 3. Kết luận …………………………………….………………………… Trang 22 4. Kiến nghị, đề xuất ………………………………..…………………... Trang 24 2 1. Đặt vấn đề Môn Ngữ Văn trong nhà trường là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Nó là chìa khóa để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học, mọi hoạt động xã hội. Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn và trí tuệ của các em. Không chỉ có tác dụng mà Văn học còn có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, cảm xúc và nhận thức của con người. Đồng thời môn Ngữ văn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới một số môn học khác và ngược lại, học tốt các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn. Luận ngữ viết: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết việc tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, gây niềm hứng thú say mê học tập để các em có những bài viết tốt chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi giáo viên. Những thầy/cô giáo đứng lớp bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách … Xác định đúng yêu cầu của dạng đề bài để viết bài là rất cần thiết, điều này giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của dạng đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được sự dài dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy làm bài của học sinh, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Hình 3 thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Bên cạnh hình thức rõ ràng thì việc viết đúng kiến thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng bởi kiến thức cơ bản là “bột” và “có bột mới gột nên hồ”. Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân môn giáo viên phải đầu tư công sức nhiều nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói”… (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện). Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu tiên được đưa vào chương trình Tập Làm Văn mới. Đây là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rất phổ biến trong đời sống. Chính vì vậy, có thể nói đây là kiểu văn bản hoàn toàn mới, chưa có trong chương trình và sách giáo khoa Tập làm văn trước đây đối với giáo viên. MỚI là so với chương trình và sách giáo khoa chứ không MỚI so với yêu cầu thực tế của đời sống. Vậy nên để giúp học sinh viết tốt một bài văn thuyết minh là hết sức cần thiết. 4 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề Môn Ngữ văn 8 trong chương trình THCS nói riêng và trong nhà trường nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe - nói - đọc viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản, và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng đặc biệt viết đúng kiểu bài, dạng đề bài yêu cầu là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Tuy chỉ là một phân môn trong môn học Ngữ văn, xong Tập làm văn vẫn được coi là căn cứ quan trọng, nếu không nói là chủ yếu để đánh giá kết quả của cả môn học. Với mỗi học sinh trung học, nói “giỏi văn” hay “kém văn” hầu như cũng đồng nghĩa là giỏi hay kém về Tập làm văn. Thực tế việc giảng dạy trong nhà trường đặc biệt môn Ngữ Văn thường giúp học sinh giỏi về lý thuyết (có kiến thức) nhưng lại yếu về thực hành (chưa biết cách viết tốt một bài văn). Không chỉ thế, có trường hợp học sinh chưa có khả năng viết đúng kiểu bài, hoặc khi viết trình bày chưa rõ ràng, mạch lạc… Theo tinh thần hiện đại hóa nội dung chương trình, hướng tới thực tiễn đời sống, giảm bớt hàn lâm, tăng cường thực hành nói và viết cho học sinh, SGK Ngữ Văn 8 đã đưa vào giảng dạy ở phần Tập làm văn thể loại “Văn thuyết minh” với mong muốn bước đầu các em có năng lực giới thiệu khách quan, mạch lạc về đối tượng nào đó. 5 Như trên đã đề cập, Văn bản Thuyết minh là kiểu văn bản khó đối với học sinh lớp 8. Tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng lại là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng phổ biến trong đời sống. Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng, lí do phát minh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật, nhằm cung cấp tri thức, hướng dẫn cách sử dụng cho con người. Văn bản Thuyết minh được sử dụng hết sức rộng rãi. Mua một thứ đồ dùng sinh hoạt (ti vi, máy giặt, quạt điện, xe máy…) đều phải kèm theo những thuyết minh về tính năng, cấu tạo, cách sử dụng, bảo quản để người sử dụng nắm vững; mua một loại thực phẩm (hộp bánh, thùng sữa…) trên đó cũng có ghi xuất xứ, thành phần, ngày sản xuất, hạn sử dụng, trọng lượng… Ra ngoài phố gặp các biển quảng cáo giới thiệu sản phẩm; cầm quyển sách bìa sau có thể có lời giới thiệu tác giả, tóm tắt nội dung; trước một danh lam thắng cảnh có bảng ghi lời giới thiệu, lai lịch, sơ đồ… Trong sách giáo khoa, có bài trình bày một sự kiện lịch sử, tiểu sử một nhà văn, tác phẩm được trích, một thí nghiệm… Tất cả đều là các dạng văn bản thuyết minh. Loại văn bản này được dùng nhiều trong văn bản giáo khoa, khoa học, nhật dụng. Như vậy, hai chữ “thuyết minh” ở đây đã bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu. Khác với các loại văn bản tự sự, biểu cảm, miêu tả, nghị luận, điều hành, văn bản thuyết minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan, khoa học về đối tượng nhằm cung cấp những tri thức xác thực, hữu ích về đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng và sử dụng chúng vào mục đích có lợi. Tóm lại, dù ngắn hay dài, dù đơn giản hay phức tạp, văn bản thuyết minh đều đóng vai trò cung cấp thông tin để giúp người đọc, người nghe hiểu đối tượng, sự việc. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho học sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày các tri thức, nâng cao năng lực tư duy và biểu đạt cho học sinh, giúp các em làm quen với lối làm văn có tính khoa học, chính xác. Vì vậy việc viết được một bài văn thuyết minh đạt yêu cầu là một trong những vấn đề cần thiết trong dạy học môn Ngữ văn đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Bởi nếu không thì học sinh viết bài tùy tiện, tùy 6 hứng dẫn đến chất lượng bài văn kém và kéo theo các dạng văn khác các em cũng không thể làm tốt được, nếu viết tốt văn thuyết minh trong môn Ngữ văn sẽ còn giúp các em học tốt một số môn học khác… 2.2. Thực trạng của vấn đề Tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng văn bản thuyết minh lại là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng phổ biến trong đời sống. Văn bản thuyết minh không sử dụng khả năng quan sát và trí tưởng tượng phong phú để tạo dựng hình ảnh, diễn biến, cốt truyện như trong văn bản tự sự, đồng thời cũng không phụ thuộc vào cảm xúc như văn biểu cảm, không bày tỏ ý định, nguyện vọng hay thông báo tin tức như trong văn bản hành chính. Với mục đích cung cấp tri thức và nâng cao hiểu biết cho con người, văn bản thuyết minh sử dụng lối tư duy khoa học, đòi hỏi sự chính xác, rạch ròi. Muốn làm văn bản thuyết minh thì phải tiến hành quan sát, tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu, tích luỹ kiến thức. Không có sự hiểu biết để có lượng tri thức thì khó có thể trình bày, giải thích được một cách sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc trưng, tính chất của sự vật hiện tượng. Mặt khác, dù có sử dụng thao tác giải thích nhưng nó không phụ thuộc phương thức nghị luận, bởi hình thức giải thích ở đây không phải là dùng lí lẽ và dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề hay bày tỏ một quan niệm nào đó. Nói cách khác người làm văn thuyết minh không cần bộc lộ những nhận xét, đánh giá chủ quan của mình trong quá trình cung cấp tri thức, cũng không tự hư cấu, bịa đặt, tưởng tượng… Tất cả những gì được giới thiệu, trình bày đều phải phù hợp với quy luật khách quan, đúng như đặc trưng bản chất của nó; tức là đúng như hiện trạng vốn có, đúng như trình tự đã hoặc đang diễn ra… Tóm lại, khi viết văn thuyết minh phải tôn trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét mà thuyết minh sai sự thật. Văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời sống. Với mục đích cung cấp tri thức, hướng dẫn con người tiếp cận và nắm bắt sự vật, hiện tượng, 7 văn bản thuyết minh ngày càng trở nên phổ biến. Người hướng dẫn du lịch dùng văn bản thuyết minh để giới thiệu danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử. Nhà sản xuất dùng văn bản thuyết minh để giới thiệu quảng cáo về xuất xứ, thành phần, cấu tạo, tính năng, cách bảo quản sử dụng sản phẩm… Như vậy, văn bản thuyết minh có khả năng cung cấp tri thức xác thực cho con người giúp con người có hành động, thái độ, cách sử dụng, bảo quản đúng đắn với sự vật, hiện tượng xung quanh mình. Nội dung giảng dạy Văn thuyết minh ở chương trình Ngữ Văn 8 gồm: 1. Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh - Tuần 11; tiết 44 2. Phương pháp thuyết minh - Tuần 12; tiết 47 3. Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh - Tuần 13; tiết 51 4. Thuyết minh về một thứ đồ dùng (luyện nói) - Tuần 14; tiết 54 5. Thuyết minh về một thể loại văn học - Tuần 16; tiết 61 6. Viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh - Tuần 20; tiết 80 7. Thuyết minh về một phương pháp (cách làm) - Tuần 21; tiết 84 8. Thuyết minh một danh lam thắng cảnh - Tuần 22; tiết 87 9. Ôn tập về văn thuyết minh - Tuần 22; tiết 88 10. Chương trình địa phương (phần Tập làm văn) - Tuần 24; tiết 96 Giảng dạy Văn bản thuyết minh trong chương trình Ngữ Văn 8 là cung cấp cho học sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày các tri thức có tính chất khách quan, khoa học, nâng cao năng lực tư duy và biểu đạt cho học sinh. Hay nói một cách khác đưa văn bản thuyết minh vào Ngữ Văn 8 là đáp ứng yêu cầu đời sống xã hội hiện nay, đào tạo một năng lực cần thiết thể hiện qua cách diễn đạt, cách viết bài của học sinh. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn 8 với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị luận... Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết. Đặc biệt trong thực tế dạy – học Văn bản thuyết minh tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn còn hiện tượng lạc đề, lệch đề dẫn đến chưa biết cách viết đúng nội dung trọng tâm. Vì: Đây là một kiểu văn bản mới, kiểu bài lạ nên việc dạy của giáo viên và học của học sinh đều có phần lúng túng. Các bài văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8 ít có yếu tố nghệ thuật nên bài dạy của giáo viên dễ rơi vào tình trạng rời rạc, ít hấp dẫn, ít thu hút được sự chú ý theo dõi của học sinh. Muốn sản sinh văn bản thuyết minh đòi hỏi học sinh cần nhiều kiến thức thực tế, chính xác, khoa học nhưng thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh có phần mơ hồ trong vấn đề này. Khó khăn trong việc tìm tài liệu cho quá trình dạy và học, nhất là phần thuyết minh về địa phương. Giáo viên THCS được phân công giảng dạy theo từng môn học riêng biệt. Giáo viên được phân công dạy môn nào thì chỉ chuyên tâm tìm hiểu, học hỏi và trau dồi kiến thức chuyên môn của môn đó, ít tìm hiểu, quan tâm đến các môn, các lĩnh vực khác. Nhưng phần văn thuyết minh lại có mối quan hệ chặt chẽ với các môn khác trong nhà trường và các lĩnh vực trong đời sống. Trường THCS Ba Cụm Bắc là một trường vùng sâu, vùng xa, có nhiều học sinh là người dân tộc Raglai nên việc tiếp thu kiến thức còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là khả năng diễn đạt (vốn từ nghèo nàn, không phong phú do ít giao tiếp bằng tiếng phổ thông). Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi viết bài văn thuyết minh. 9 Số học sinh làm được một bài văn hay rất ít. Hầu hết khi thuyết minh các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà hoặc cộc lốc, diễn đạt ý thì lủng củng… Để viết tốt một bài Tập làm văn nói chung và dạng văn thuyết minh nói riêng đòi hỏi học sinh phải đọc nhiều, viết nhiều nhưng nhiều em chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, thờ ơ, thụ động, một bộ phận nhỏ các em có thái độ lười học Ngữ Văn và gần như dửng dưng với phân môn Tập Làm Văn, khi có đề bài là các em ngay lập tức đặt bút viết bài không cần tìm hiểu gì, không cần biết phải huy động những kiến thức nào để làm bài. Cứ viết đến đâu hay đến đó. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học của các em học sinh thời nay quả là ít ỏi, hầu như là không có bởi những thông tin hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, dịch vụ Internet tràn lan cuốn hút… Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ nghệ thuật quý giá của văn học, làm giảm khả năng hiểu biết tri thức khoa học trong mỗi học sinh. Xuất phát từ những cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên tôi nghĩ: “Vận dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng viết văn thuyết minh cho học sinh lớp 8” là một việc làm thiết thực nên làm và làm một cách cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất. Giúp các em biết cách diễn đạt, dùng câu từ chính xác, dễ hiểu, ngắn gọn mà rõ ràng, xóa đi mặc cảm ngại học văn, tự tin, phấn khởi và yêu thích văn thuyết minh trong phân môn Tập làm văn. Bên cạnh đó khơi dậy trong các em sự khám phá tri thức khoa học về thiên nhiên, đất nước, con người. Đồng thời có ý thức trong việc học tập các bộ môn khác qua thể loại văn bản thuyết minh. 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Phương pháp thuyết minh là vấn đề then chốt của bài văn thuyết minh. Nắm được các phương pháp thì học sinh sẽ biết ghi nhận thông tin, lựa chọn số liệu để viết bài một cách rõ ràng, hấp dẫn. 10 Văn bản thuyết minh phải có cách trình bày mạch lạc, ngôn ngữ chính xác, cô đọng, thông tin ngắn gọn, hàm súc. Ở loại văn bản này không chú trọng sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi như trong miêu tả hay biểu cảm. Văn bản thuyết minh thuộc lĩnh vực nào, liên quan đến ngành nghề nào thì phải sử dụng những thuật ngữ, khái niệm có tính chất chuyên ngành của lĩnh vực, ngành nghề đó. Thực tế giảng dạy ở bài “Phương pháp thuyết minh” – (Tuần 12; tiết 47) Sgk đã đưa ra một số phương pháp trong quá trình viết bài, cụ thể: Phương pháp nêu định nghĩa Phương pháp liệt kê Phương pháp nêu ví dụ Phương pháp dùng số liệu Phương pháp so sánh Phương pháp phân loại, phân tích. Muốn làm được văn bản thuyết minh không đơn thuần chỉ dừng lại ở suy nghĩ, quan sát mà phải điều tra, nghiên cứu, học hỏi thì mới làm được. Điều này học sinh gặp nhiều khó khăn bởi xuất phát từ điều kiện thực tế là học sinh ở miền núi ít được đi tham quan du lịch, tài liệu tra cứu không nhiều, lượng kiến thức học hỏi từ các bậc phụ huynh cũng rất hạn chế nên hầu như chưa biết cách để viết đúng một bài văn thuyết minh. Đây thực sự là khó khăn cho việc dạy của giáo viên và học của học sinh. Ngoài những phương pháp nêu trên tôi đã suy nghĩ và áp dụng một số phương pháp khác trong giảng dạy kiểu văn bản này nhằm nâng cao chất lượng bài viết cho các em. 2.3.1. Phương pháp thuyết trình kết hợp giảng giải, minh họa bằng mẫu vật thật hoặc hình ảnh Văn bản thuyết minh khác với các kiểu văn bản khác đó chính là trình bày kiến thức khách quan về đối tượng. Vì là kiến thức khách quan nên người 11 viết không thể hư cấu, bịa đặt tưởng tượng hay suy luận. Nghĩa là tri thức phải phù hợp với thực tế và không đòi hỏi người làm phải bộc lộ cảm xúc cá nhân của mình. Người viết phải tôn trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét của mình mà thêm thắt cho đối tượng. Xác định đối tượng thuyết minh cho đề văn thuyết minh rất đa dạng với nhiều kiểu cấu trúc diễn đạt khác nhau: có khi là một câu văn, nhiều khi là một câu đặc biệt chỉ đề cập tới đối tượng. Muốn làm bài, học sinh phải xác định đối tượng thuyết minh, phải quan sát, điều tra, phải tích lũy, hệ thống hóa mới viết được bài. Điều này nâng cao ý thức khoa học cho học sinh. Chính vì thế giáo viên cần có phương pháp thuyết trình kết hợp giảng giải minh họa bằng mẫu vật thật hoặc hình ảnh cho từng đối tượng. Cụ thể: * Khi đối tượng thuyết minh là một đồ vật thì nội dung thuyết minh thường - Cấu tạo của đối tượng - Các đặc điểm của đối tượng - Tính năng hoạt động - Cách sử dụng, cách bảo quản - Lợi ích của đối tượng * Khi thuyết minh về một loài vật, nội dung thuyết minh thường - Nguồn gốc - Đặc điểm - Hình dáng - Lợi ích * Khi thuyết minh về một thể loại văn học, nội dung thuyết minh thường - Nêu một định nghĩa chung về thể thơ - Nêu các đặc điểm của thể thơ: 12 + Số câu, chữ. + Quy luật bằng trắc. + Cách gieo vần. + Cách ngắt nhịp. + Cảm nhận về vẻ đẹp, nhạc điệu của thể thơ. *Khi đối tượng thuyết minh là một danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, thì nội dung thuyết minh thường - Vị trí địa lí. - Những cảnh quan làm nên vẻ đẹp đặc sắc của đối tượng. - Những truyền thống lịch sử, văn hoá gắn liền với đối tượng. - Cách thưởng ngoạn đối tượng. *Khi đối tượng thuyết minh là một danh nhân văn hoá thì các nội dung thuyết minh thường - Hoàn cảnh xã hội. - Thân thế và sự nghiệp (chiếm vai trò chủ yếu, có dung lượng lớn nhất trong bài viết). - Đánh giá xã hội về danh nhân. *Khi giới thiệu một đặc sản thì nội dung thuyết minh thường - Nguồn gốc, ý nghĩa tên gọi món ăn, đặc sản. - Đặc điểm riêng của món ăn, đặc sản: dáng vẻ, màu sắc, hương vị. - Cách thức chế biến, thưởng thức. 2.3.2. Phương pháp phân tích Văn bản thyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp tri thức (kiến thức) và đặc điểm, tính chất, nguyên nhân… của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội. Tri thức trong văn thuyết 13 minh đòi hỏi khách quan xác thực, hữu ích cho con người.Văn bản thuyết minh cần được trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn. Phần văn thuyết minh cần được giảng dạy, truyền thụ một cách nhẹ nhàng nhưng khắc sâu kiến thức cho học sinh, qua phương pháp phân tích giáo viên sẽ tổng hợp các dạng đề một cách cụ thể để tránh trường hợp học sinh viết bài lệch đề, lạc đề hay nghĩ gì viết nấy, giúp học sinh hiểu đặc điểm và cách làm của từng dạng bài cụ thể. Với phương pháp này giáo viên sẽ giúp học sinh định hình rõ hơn về dạng đề để tiến hành viết bài theo đúng yêu cầu. *Dạng bài: Thuyết minh về một thứ đồ dùng Cần quan sát, tìm hiểu kĩ cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng, tác dụng của đồ dùng đó. Bố cục chung của dạng bài này là: - Mở bài: Giới thiệu đồ dùng. - Thân bài: Trình bày đặc điểm cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng, tác dụng, cách sử dụng, bảo quản đồ dùng. - Kết bài: ích lợi của đồ dùng trong cuộc sống. -> Phương pháp chủ yếu: Định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, sử dụng số liệu. *Dạng bài: Thuyết minh về một thể loại văn học Cần quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành những đặc điểm (tiêu biểu và quan trọng). Bố cục chung của bài văn này là: - Mở bài: Giới thiệu khái quát về thể loại. - Thân bài: + Trình bày những đặc điểm hình thức của thể loại (Thơ: thể thơ, vần, nhịp, thanh điệu, cấu trúc…Truyện: thể loại, dung lượng, cốt truyện, tình huống, nhân vât…Tác phẩm chính luận: bố cục, luận điểm, phương pháp lập luận…) + Tác dụng của thể loại trong việc thể hiện chủ đề. 14 - Kết bài: Vai trò của thể loại trong nền văn học. Giáo viên lưu ý mở rộng cho học sinh, dạng bài này có thể gồm cả thuyết minh về một tác giả, một tác phẩm. -> Phương pháp chủ yếu: định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, phân tích. * Dạng bài: Thuyết minh về một phương pháp (cách làm) Đối tượng thuyết minh của dạng bài này không phải là sự vật, hiện tượng mà là quá trình hoạt động đề làm ra một sản phẩm hoặc đạt một kết quả nào đó nên bố cục bài viết khá linh hoạt. Song bài cũng cần theo một trình tự: - Mở bài: Giới thiệu sản phẩm. - Thân bài: Giới thiệu lần lượt: + Điều kiện (nguyên vật liệu, dụng cụ). + Cách thức, qui trình thao tác (có thể kèm theo hình vẽ). - Kết bài: Yêu cầu thành phẩm (Hình thức và chất lượng). -> Phương pháp chủ yếu là định nghĩa, giải thích, phân tích. * Dạng bài: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh Để làm được kiểu bài này, cần quan sát (tham quan), tra cứu sách vở, học hỏi để có những tri thức đáng tin cậy. Bố cục chung của dạng bài này là: - Mở bài: Giới thiệu danh lam thắng cảnh. - Thân bài: + Giới thiệu vị trí địa lí, xuất xứ (các thần thoại, truyền thuyết sự kiện lịch sử gắn liền với di tích, thắng cảnh). + Đặc điểm nổi bật (Qui mô, cấu trúc, cảnh quan) + Vai trò, tầm quan trọng của di tích, thắng cảnh (về lịch sử, văn hoá, du lịch…) đối với đời sống con người. - Kết bài: ý nghĩa giáo dục của thắng cảnh đối với hiện tại và tương lai 15 Bên cạnh cơ sở kiến thức đáng tin cậy thì việc sử dụng lời giới thiệu kèm miêu tả, bình luận, sử dụng một số biện pháp nghệ thuật một cách hợp lý giúp bài viết sinh động hơn đặc biệt là khi thuyết minh về một danh lam thắng cảnh. Thực tế cho thấy đối tượng thuyết minh là vô cùng phong phú nên giáo viên có thể phân tích cho học sinh một số mẫu, định hướng cho các em yêu cầu cơ bản khi thuyết minh một số đối tượng khác. Cụ thể là: * Thuyết minh về một cuốn sách, một tập truyện: Cần giới thiệu được tác giả, thể loại, nhà xuất bản, năm xuất bản, dung lượng, những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật, những đóng góp ảnh hưởng tích cức của cuốn sách (truyện…) với người đọc, xã hội. * Đối tượng thuyết minh là người (một tác giả, danh nhân, một gương mặt tiêu biểu…): Cần giới thiệu tên, tuổi, quê quán gia đình, ngành nghề, môi trường sinh hoạt làm việc, biểu hiện tư chất, năng khiếu, quá trình học tập, rèn luyện, thành tích nổi bật và ý nghĩa của những thành tích của nhân vật được thuyết minh. * Thuyết minh về một vật dụng (chiếc nón lá, cái cặp sách, chiếc áo dài…): Cần trình bày nguồn gốc, chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, quá trình tồn tại, vai trò, tác dụng, ưu việt, giá trị thẩm mĩ của vật dụng đối với đời sống, sinh hoạt con người. * Thuyết minh về một loài cây, một loài vật nuôi: Cần trình bày được tên, nguồn gốc, các đặc điểm nổi bật (hình dáng, màu sắc, hương vị, tập tính, thói quen…), quá trình sinh trưởng và phát triển, cách chăm sóc, nuôi dưỡng… Vai trò, quan hệ của cây (con vật) đối với đời sống con người. Dạy Tập làm văn cũng như dạy kiểu văn bản thuyết minh rất cần thiết việc hình thành lý luận một các có hệ thống. Nhưng lý thuyết chỉ thực sự được củng cố và tiêu hoá thông qua hệ thống bài tập. Rèn luyện bền bỉ, tỉ mỉ từng bước, thường xuyên thông qua hệ thống bài tập, chặt chẽ từng thao tác một cho học sinh là một yêu cầu có tính nguyên tắc, phù hợp đặc thù của giảng dạy Tập 16 làm văn. Thông qua luyện tập thực hành, lý thuyết làm văn mới được định hình và đạt đến trình độ thông hiểu thực sự. 2.3.3. Phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu Khi vận dụng phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành phân tích và sản sinh văn bản (nói, viết) theo mẫu. Qua việc tìm hiểu các ngữ liệu, học sinh đi đến những kết luận về lí thuyết rồi vận dụng linh hoạt những kiến thức này vào hoạt động luyện tập và tạo lập sáng tạo văn bản theo những yêu cầu của từng bài tập. Việc rèn luyện theo mẫu này phải là những vấn đề thực sự có ý nghĩa, gần gũi với chính học sinh. Cách dạy làm văn (trong đó có văn thuyết minh) theo phương pháp này là cách dạy có hiệu quả khá cao bởi đa số học sinh ở đây là người sở tại nên năng lực tự sáng tạo văn bản của các em còn hạn chế. Muốn làm văn bản thuyết minh thì phải tiến hành quan sát, tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu, tích luỹ kiến thức. Để có thể trình bày, giải thích được một cách sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc trưng, tính chất của sự vật hiện tượng cần có sự hiểu biết lượng tri thức về đối tượng cần thuyết minh. Mà muốn có tri thức về đối tượng thì trước hết phải biết quan sát. Quan sát không phải chỉ đơn thuần là nhìn, xem mà còn phải quan sát phát hiện đặc điểm tiêu biểu của sự vật, phân biệt cái chính, cái phụ. Đặc điểm tiêu biểu có ý nghĩa phân biệt sự vật này với sự vật khác như cao, thấp, dài, ngắn, to, bé, vuông, tròn… Hơn nữa phải biết tra cứu từ điển, sách giáo khoa. Thứ ba là biết phân tích, ví dụ đối tượng có thể chia làm mấy bộ phận, mỗi bộ phận có đặc điểm gì, quan hệ của các bộ phận ấy với nhau ra sao. * Ví dụ 1: Sau khi các em có những định hướng về cách làm một bài văn thuyết minh từ việc phân tích mẫu văn bản “Chiếc xe đạp” qua bài “Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh” - Tuần 13; tiết 51. Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập bằng bài tập: Tìm ý và lập dàn ý cho đề bài “Thuyết minh về chiếc bút bi”. 17 Để làm được bài tập trên, học sinh phải biết quan sát sau đó vận dụng những kiến thức lý thuyết để tiến hành tìm hiểu đề bài (xác định đối tượng – chiếc bút bi); tìm hiểu, tích luỹ tri thức về đối tượng (nguồn gốc, hình dáng, nguyên liệu, cách sử dụng, vai trò, ý nghĩa, công dụng của chiếc bút bi trong cuộc sống: trường học, bệnh viện, nhà máy…); lựa chọn phương pháp thuyết minh (định nghĩa, giải thích, phân tích, phân loại, nêu ví dụ); từ đó lập dàn ý cho đề bài để viết bài. * Ví dụ 2: Để củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng về kiểu bài “Thuyết minh một thể loại văn học” - Tuần 16; tiết 61, ngoài các bài tập nhận diện “Thuyết minh đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cú”, giáo viên có thể cho các em luyện tập, tập viết bài bằng bài tập sau: Lập dàn ý cho đề bài: “Thuyết minh về thể loại truyện ngắn dựa trên cơ sở các tác phẩm truyện ngắn đã học”. Căn cứ vào những kết luận về lý thuyết kiểu bài vừa tìm được từ việc thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật, kết hợp với việc quan sát tìm hiểu các truyện ngắn trong phần đọc hiểu văn bản, để tìm ra những đặc điểm của truyện ngắn về dung lượng, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, vai trò, tác dụng để tạo lập một dàn ý hợp lý. 2.3.4. Phương pháp giao tiếp Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh quan sát và rèn luyện theo mẫu thì việc đưa các em vào những tình huống giao tiếp để sản sinh văn bản cũng là một việc làm quan trọng. Điều này thể hiện ở việc giáo viên đưa ra các câu hỏi. Với phương pháp này giáo viên có thể giúp học sinh liên hệ đến nhiều phân môn khác. * Ví dụ: Môn Giáo dục công dân: Khoan dung là gì? Biểu hiện của khoan dung? Giáo viên hỏi các học sinh khác: Theo em, bạn đã trình bày đầy đủ và hợp lý về khái niệm này chưa? Vì sao? Nếu là em, em sẽ trình bày khái niệm này như thế nào? 18 Hoặc môn Sinh học: Thân là gì? Cấu tạo ngoài của thân gồm những bộ phận nào? Hoặc môn Địa lý: Sông là gì? Việc đặt ra những câu hỏi để đưa học sinh vào tình huống giao tiếp như trên chủ yếu vận dụng trong tiết dạy thực hành “Luyện nói”. Trong chương trình Ngữ văn nói chung, Ngữ văn 8 nói riêng, tiết luyện nói cũng chiếm vị trí khá quan trọng. Bởi vì nó không chỉ củng cố lý thuyết mà còn góp phần rèn luyện kĩ năng, hình thành kĩ xảo. Để giờ làm văn miệng thực sự có hiệu quả, tránh cho các em cảm giác nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt. Giáo viên cần chuẩn bị, xây dựng kế hoạch giảng dạy thật kĩ lưỡng, tạo được những tình huống sư phạm để phát huy hiệu quả đào tạo học sinh về nhiều mặt. Trong tiết luyện nói, thời gian chuẩn bị ít, đòi hỏi sự nhanh nhạy, linh hoạt, cơ động trong chọn từ, sắp ý và diễn đạt. Hơn nữa trong giờ làm văn miệng, học sinh còn phải biết vận dụng yếu tố đặc thù của lời nói kết hợp với những hoạt động hình thể. Song bên cạnh những khó khăn trên, giờ làm văn miệng lại có thế mạnh là hoạt động giao tiếp tập thể dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh. Chính vì vậy, giáo viên có thể cho cả lớp chuẩn bị một vấn đề song chỉ định một vài học sinh (không nhất thiết phải giỏi nhất) chuẩn bị kĩ hơn để trình bày trước tập thể, lớp trao đổi, giáo viên tổng kết. Trước khi tiết luyện nói diễn ra giáo viên ra đề cho học sinh chuẩn bị trong 15 – 20 phút, để luyện nói thành công học sinh cũng phải trải qua quá trình viết văn bản trong thời gian ngắn, phải biết cách sắp xếp ý, lựa chọn, chắt lọc ngôn từ… Điều này phụ thuộc vào quá trình giao tiếp hay nói cách khác phụ thuộc vào phương pháp giao tiếp ban đầu giữa giáo viên với học sinh để từ văn bản viết chuyển sang văn bản nói được sinh động hơn. Dù tổ chức theo hình thức nào thì qua cách diễn đạt, phong cách, điệu bộ của học sinh, giáo viên cần động viên hay uốn nắn kịp thời về mặt ứng xử đồng thời bổ sung, điều chỉnh kiến thức cho các em. Phương pháp giao tiếp trong tiết 19 “Luyện nói” có ý nghĩa giáo dục toàn diện, vừa rèn luyện ngôn ngữ nói, nghệ thuật giao tiếp vừa củng cố phương pháp tư duy, cách lựa chọn ngôn ngữ để viết bài. Trong chương trình Ngữ văn còn có tiết “Trả bài”. Đây cũng là tiết tập trung phương pháp giao tiếp trong giảng dạy. Giáo viên căn cứ vào dữ kiện của đề bài, tình hình làm văn của học sinh để xác định yêu cầu của tiết dạy về các mặt tư tưởng, kĩ năng, phương pháp. Giờ trả bài cần tiến hành theo một trình tự hợp lý. - Yêu cầu học sinh nhắc lại đề bài, tìm hiểu đề. - Xây dựng, định hướng cho bài viết (dàn ý). - Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh (ưu điểm và tồn tại), trả bài cho học sinh. - Học sinh tự chữa lỗi cho bài làm của mình và bạn (trên cơ sở lời nhận xét và lời phê của giáo viên). - Giáo viên chọn một số đoạn văn mắc các lỗi tiêu biểu, chữa trước lớp. - Đọc một số bài văn viết tốt. - Củng cố kiến thức bài học (lý thuyết, kĩ năng làm bài), khuyến khích, động viên học sinh làm bài sau. Giờ trả bài là giờ học được xây dựng từ sự lao động trực tiếp và vốn liếng nhiều mặt của học sinh. Điều cốt yếu là qua giờ trả bài, các em nhận ra mặt mạnh, mặt yếu của mình, để có hướng phát huy hay khắc phục. Giáo viên cần tập trung dành thời gian cho học sinh tự sửa bài để khả năng viết của các em dần dần được nâng cao. 2.3.5. Phương pháp thảo luận nhóm và viết đoạn văn ngắn Như tất cả chúng ta đều biết, để thu hút được sự chú ý của học sinh trong giờ học Văn đã khó với phân môn Tập Làm Văn lại càng khó hơn. Do vậy muốn thực hiện được người giáo viên cần phải có nghệ thuật, có sự kết hợp nhiều yếu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan