Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn ứng dụng cntt trong giảng dạy...

Tài liệu Skkn ứng dụng cntt trong giảng dạy

.DOC
42
139
147

Mô tả:

. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “ỨNG DỤNG CNTT TRONG GIẢNG DẠY” A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 . I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI: Bước sang thế kỉ 21 Giáo dục và đào tạo nước ta đứng trước những thử thách lớn, đó là: - Xu hướng toàn cầu hóa ngày càng phát triển lan nhanh. - Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh. - Sự bùn nổ Công nghệ thông tin trên toàn cầu. - Nền kinh tế tri thức chiếm vai trò quan trọng, trong sự phát triển đất nước. Điều đó đòi hỏi giáo dục phải thay đổi, chuyển mình để hướng tới xây dựng một nền giáo dục hiện đại. II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Lý do khách quan 1.1. Tầm quan trọng của công nghệ thông tin (CNTT): Trong những năm gần đây nền giáo dục huyện Tri Tôn thực sự bước vào chặn đường "Công nghệ thông tin trong giáo dục" với biết bao gian truân và thử thách để đáp ứng yêu cầu đổi mới của thời đại. Máy vi tính với các phần mềm tin học phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng của mỗi giáo viên giảng dạy. Tuy nhiên, nếu như chúng ta biết sử dụng công dụng của máy tính thì hiệu quả rất cao. Song song với máy tính là sự ra đời của mạng Internet toàn cầu đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau và chia sẻ kinh nghiệm với nhau trên mọi miền tổ quốc. 2 . Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu, ảnh, kinh nghiệm trong giảng dạy với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người. Tóm lại: Công nghệ thông tin là một trong các thiết bị hỗ trợ đắc lực nhất của giáo viên trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. 1.2. Tầm quan trọng của Công nghệ thông tin (CNTT) trong nhà trường: Trong quá trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học trong trường tiểu học ở mọi vùng miền của đất nước với phương châm đầu tiên là: "Học sinh ham học, thích đến trường để cùng các bạn bè và thây cô tìm hiểu kiến thức". Khi công nghệ thông tin càng phát triển lang rộng thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở các trường còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên trường tiểu học "B" Cô Tô đã đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong công tác giảng dạy, Vì CNTT là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực nhất, có hiệu quả nhất cho việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả giáo dục.. 3 . 2. Lý do chủ quan Những năm học gần đây Sở GD&ĐT tỉnh An Giang, cũng như Phòng GD&ĐT huyện Tri Tôn phát động phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được nhiều CBGV hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong nhà trường. Xuất phát từ những thực trạng đó tôi cũng đã mạnh dạng ứng dụng CNTT trong giảng dạy với sự hỗ trợ của các phần mềm: PowerPoint, ViOlet... Tuy nhiên, trong quá trình ứng dụng CNTT, nhất là đối với việc thiết kế bài giảng điện tử vẫn còn gặp không ít 4 . những khó khăn như: Việc thiết kế bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các trang trình chiếu là một điều không phải dễ dàng. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị trong khi không phải giáo viên nào cũng thành thạo vi tính. Cũng như những giáo viên khác mới bước đầu làm quen với việc soạn giảng bằng bài giảng điện tử nên chưa có những kinh nghiệm xử lí sao cho bài giảng tốt nhất, tốn ít thời gian mà hiệu quả cao. Vì những khó khăn trên mà việc sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học còn hạn chế. Làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy, đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy bằng bài giảng điện tử, tôi đã thử nghiệm trong các tiết thao giảng, và một số tiết tôi dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình. III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Mục đích chọn đề tài: - Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và việc đổi mới phương pháp dạy học. - Hình thành những kĩ năng cơ bản khi thực hành trên máy tính và biết vận dụng phương pháp dạy học mới trong giảng dạy - Luôn say mê và nghiên cứu công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy. 5 . - Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp. - Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp dạy học. - Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên khi sử dụng bài giảng điện tử để dạy học. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng CNTT trong dạy học. - Tìm hiểu những khó khăn khi soạn bài giảng điện tử - Những yêu cầu cơ bản để soạn được một bài giảng điện tử. - Xây dựng quy trình soạn. - Đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong dạy học, đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học và đẩy mạnh phong trào ứng dụng CNTT trong năm học mới. 3. Phương pháp, biện pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, tôi vận dụng kết hợp các phương pháp sau: 3.1 Tình hình thực tiễn và phương pháp 6 . a/ Tình hình thực tiễn: Trường tiểu học "B" Cô Tô có trên 60% là học sinh dân tộc khmer và có rất nhiều học sinh là gia đình nghèo. Nên thiếu sự quan tâm từ phía gia đình, vì vậy người giáo viên nơi đây phải làm thế nào giúp học sinh nắm vững kiến thức ngay trong giờ học và làm thế nào để học sinh yêu thích đến trường. Chỉ có cách là "Học mà vui". Học mà vui là một tiết học nhẹ nhàng sinh động với sự chỉ đạo tìm hiểu kiến thức của người giáo viên thông qua một bài giảng có Ứng dụng CNTT giúp học sinh tích cực học tập. Đối với học sinh tiểu học giáo viên là người đóng vai trò tổ chức cả quá trình học tập của trẻ. Chính vì thế người thầy phải là người có tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, có năng lực sư phạm, vững về chuyên môn, đặc biệt phải là người có đủ bản lĩnh kiến thức, hãy là tấm gương tự học và ham học để nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ hiểu biết, nhất là trình độ Tin học của thời đại mới. Nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục b. Phương pháp điều tra: Kiểm tra, so sánh chất lượng tiếp thu bài của học sinh trong các tiết dạy có ứng dụng CNTT và các tiết dạy không ứng dụng CNTT ở lớp học của mình dạy cũng như một số lớp khác học khác. - Tổng hợp điều tra và có so sánh về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học có ứng dụng CNTT. - Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới). - Kiểm tra chất lượng sau giờ học. - Chất lượng các tiết học sau những tiết có ứng dụng CNTT. 7 . 3.2. Xây dựng tư liệu: Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm, khai thác hình ảnh tĩnh, động,… 3.3. Xây dựng bài giảng điện tử: Muốn xây dựng được một bài giảng điện tử, bước đầu chúng ta cần: - Nghiên cứu tầm quan trọng của công nghệ thông tin và các phần mềm CNTT như: PowerPoint, Violet... - Gia nhập thành viên vào các diễn đàn của Violet.vn; Thư viện tranh ảnh SGK tiểu học;... - Học và tự học nâng cao trình độ tin học. - Tích cực ứng dụng CNTT (soạn bài giảng điện tử) và vận dụng vào giảng dạy. - Thực hành trên máy. - Dự giờ, xem băng hình qua các tiết dạy mẫu trên Internet. - Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua việc nghiên cứu tình hình thực tiển và điều kiện cơ sở vật chất trong trường tôi đã tổng kết đưa ra một số kinh nghiệm để cải tiến phương pháp dạy học bằng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thông qua các bài soạn, giảng bằng bài giảng điện tử. 8 . B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Việc ứng dụng CNTT trong dạy học là một phương pháp hay nhất và hữu hiệu nhất trong giai đoạn giáo dục hiện nay nhất là đối với các vùng sâu vùng xa, vùng miền núi và những vùng có điều kiện khó khăn như huyện Tri Tôn - tỉnh An Giang. Sự ra đời của phương pháp dạy học mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, đòi hỏi phải có ý chí và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có thể đạt hiệu quả cao. Việc đổi mới phương pháp dạy học như hiện nay là bước đầu nâng cao chất lượng giáo dục để theo kịp với các nước tiên tiến, khởi đầu sự phát triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ: Chương trình, sách giáo khoa, kiểm tra đánh giá và đặc biệt là cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại. Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như máy chiếu đa năng, đầu Ptojector, băng hình, tranh ảnh vào trong giảng dạy các môn, đó là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả tiết học lên gấp đôi. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI: 1. Thuận lợi: * Nhà trường: 9 . - Nhà trường đã trang bị được đầu chiếu Projector, với những trang thiết bị trên hỗ trợ rất tốt cho công tác dạy và học bằng bài giảng điện tử . * Giáo viên: - Giáo viên tự học và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ cho công tác giảng dạy tốt hơn . - Tự học nâng cao trình độ tin học, nâng cao kĩ năng xử dụng, ứng dụng CNTT. - Hiện nay trường đã nối mạng Internet nên việc nghiên cứu tài liệu soạn giảng tương đối thuận lợi. * Học sinh: Vì được học trên các phương tiện trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học tập và rất thích đến trường. * Thế giới Internet: Là một kho tài nguyên kiến thức khổng lồ để mọi người cùng tham khảo, là một cầu nối cho tấc cả giáo viên chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn. Thế giới Internet có rất nhiều phần mềm tin học, tranh ảnh, tư liệu..., người muốn sử dụng chỉ cần Download về máy hoàn toàn miễn phí. 2. Khó khăn: - Trường chưa có phòng máy cố định riêng, vì vậy khi giảng dạy giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để lắp các thiết bị. 10 . - Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng bài giảng điện tử vì cho rằng mất nhiều thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên màn chiếu (slide) là một điều không phải dễ dàng với nhiều giáo viên. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị. - Khả năng đọc, nói Tiếng anh còn hạn chế gây khó khăn trong quá trình soạn, giảng. - Trường chưa có phòng máy cố định riêng, khi dạy giáo viên phải mất nhiều thời gian để ráp các thiết bị. 11 . 3. Thực trạng của đề tài: 3.1. Những khó khăn và trở ngại gặp phải khi sử dụng bài giảng điện tử: Mặc dù tranh ảnh, đồ dùng dạy học trong thư viện trường cũng khá đầy đủ, vì thế giáo viên chỉ dạy thông thường để khỏi phải tốn mất thời gian. Giá như những tiết dạy đó được ứng dụng CNTT, khai thác một cách triệt để các hình ảnh cũng như băng hình thì tiết dạy chắc sẽ sinh động hơn, học sinh chắc sẽ nhớ lâu hơn và giờ dạy sẽ hay hơn biết bao. (Ví dụ: tiết dạy Tự nhiên và xã hội, Luyện từ và câu,...) 12 . Muốn tạo được một bài giảng điện tử của một tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… Giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế bài giảng. Thiết kế bài giảng đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một bài giảng tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện soạn, giảng có ứng dụng CNTT. Các tổ chuyên môn trong trường đa số giáo viên vững vàng về kiến thức chuyên môn nhưng bên cạnh đó cần phải trang bị cho bản thân những kiến thức Tin học, các phần mềm ứng dụng trong soạn giảng ứng dụng CNTT. Mặc dù đã bước đầu soạn giảng nhưng kinh nghiệm xử lí còn nhiều hạn chế. Thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực, không thích hợp với phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Có một số nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên. Chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để hỗ trợ. Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc, tiếp kiến thức mới chưa biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, ViOlet. . . 13 . Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt nhưng cho làm bài có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ soạn, giảng có ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này. 3.2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện: Từ khá sớm, các trường học trên địa bàn trong huyện, tỉnh đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Tuy nhiên rất ít trường có phòng máy riêng. Nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các giáo viên cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình trong trường học. Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, và các phần mềm dạy học khác... (nên mở thường xuyên) phải được các giáo viên tham gia đông đủ. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi có rất nhiều bài soạn - giảng có ứng dụng CNTT là đạt kết quả tốt hơn rất nhiều so với soạn giảng truyền thống. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị phòng chức năng có lắp đặt đầy đủ hệ thống máy chiếu cố định, để phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính cho giáo viên, giảm bớt rất nhiều thời gian chuẩn bị máy móc trước giờ dạy. 14 . III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHI ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG VIỆC SOẠN - GIẢNG BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ (BGĐT) 1. Các giải pháp thực hiện. - Tham mưu cùng Tổ chuyên môn và Ban giám hiệu, đề nghị các cấp quản lí giáo dục tạo điều kiện trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện bài giảng điện tử (BGĐT) như máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector) - Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế BGĐT cho mình. - Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc sử dụng BGĐT, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập khác nhau. - Trường nên kết hợp với Phòng GD&ĐT tham gia các buổi thao giảng, hội thảo, tập huấn để thu nhận những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp soạn – giảng có ứng dụng CNTT - Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực chất chất lượng của các em. Tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài giảng điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, truyền đạt hết kiến thức trực tiếp lên màn chiếu, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, phù hợp với mục tiêu ứng dụng CNTT hiện nay. 2. Các biện pháp cụ thể: 15 . 2.1. Biện pháp 1: Trang bị kiến thức: Bước đầu làm quen với cách soạn một bài giảng điện tử chúng ta cần phải bỏ ra khá nhiều công sức tìm hiểu những yêu cầu cụ thể như sau: - Biết sử dụng máy tính với các phần mềm Word, Excel và phần mềm PowerPoint hoặc Violet. - Biết cách truy cập Internet để sưu tầm tư liệu. - Biết sử dụng máy chiếu Projector Những yêu cầu trên có lẽ rất mới mẻ, nhưng nếu chúng ta chịu học và ham học thì chẳng bao lâu chúng ta cũng thành thạo như mọi người. Lúc đó các bạn sẽ thấy chất lượng dạy học của mình như thế nào. Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẳn trên giấy và được trình bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành BGĐT được trình bày trên màn chiếu projector một cách sinh động, có chất lượng hơn? Điều này đòi hỏi người giáo viên trước hết phải biết sử dụng phần mềm PowerPoint dùng để tạo các trình chiếu đa dạng trên máy tính. Ngoài ra có các phần mềm PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), ViOlet...Nếu chỉ dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint và cũng như một số phần mềm kể trên lúc đó có nghĩa chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ trong một tiết Tự nhiên và xã hội (lớp 2): Bài "Các thành viên trong nhà trường" Chúng ta không thể nào truyền đạt kiến thức một chiều. Nếu có ảnh của các thanh viên trong trường cũng chỉ là ảnh nhỏ, mà học 16 . sinh khó quan sát. Nếu sử dụng BGĐT thì các hình ảnh được phóng to trên màng ảnh lớn thì học sinh dễ dàng quan sát và tiết học có hiệu quả hơn. Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẽ cảm nhận và khắc sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian tìm tranh ảnh, không mất thời gian xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh … Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản đòi hỏi người giáo viên phải nắm được, thiết lập được các hiệu ứng để làm sao cho bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các hiệu ứng đó là gì ? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh,...) được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn khi kiểm tra bài cũ, giáo viên đưa ra bài trắc nghiệm A, B, C, D (học sinh chọn câu đúng). 17 . Hoïc sinh choïn caâu ñuùng baèng caùch ñöa baûng chöõ Giáo viên kiểm nghiệm kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh. Với đặc điểm này giáo viên tiết kiện được thời gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu giáo viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn, học sinh hiểu bài sâu hơn. Đối với môn Tự nhiên và xã hội bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh họa. Nếu chỉ trình bày suông, tôi nghĩ rằng cũng không có vấn đề gì cả. Nhưng tại sao khi chúng ta đã chấp nhận làm BGĐT, bởi vì BGĐT mang lại không khí học tập nhẹ nhàn mà hiệu quả cao hơn. Hiện tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đã có mạng Internet, đa số 18 . giáo viên đã có mạng internet ở nhà, vậy thì chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì giáo viên nào cũng nên làm. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner (quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sữa ảnh …. Nói tóm lại để có được một BGĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi giáo viên cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học. Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ nét, độ lớn trên màn hình, lúc này giáo viên chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, học sinh sẽ có một tiết học thoải mái và sôi động. Điều cuối cùng tôi muốn nói đến ở biện pháp này là nhờ BGĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy không có ứng dụng CNTT. 2.2. Biện pháp 2: Những nguyên tắc khi thiết lập một bài giảng điện tử (BGĐT) a/ Thiết lập các Slide trên một bài giảng: Một số tiết dạy, tôi thấy còn mang tư tưởng áp đặt những kiến thức vào bài giảng. Có nghĩa là giáo viên nói những gì, giảng những gì, hỏi những gì điều đều thể hiện toàn bộ trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ 19 . nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài, gây cho học sinh sự nhàm chán. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các hình ảnh minh họa một cách hợp lý. Ñöa hình aûnh minh hoïa vaøo baøi giaûng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất