Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Âm nhạc Skkn ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy âm nhạc ở trường thcs...

Tài liệu Skkn ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy âm nhạc ở trường thcs

.PDF
49
508
123

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH HƯNG YÊN PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHÙ CỪ TRƯỜNG THCS TỐNG TRÂN ----------- ***** ----------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY – HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG THCS ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN (Nhận xét, xếp loại) CẤP TRƯỜNG CẤP HUYỆN CẤP TỈNH ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. ………………………………………. ………………………………………. ……………………………………….. SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS MỤC LỤC STT Nội dung Số trang 01 LỜI MỞ ĐẦU 04 02 CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT TRONG SKKN 05 03 PHẦN THỨ NHẤT – ĐẶT VẤN ĐỀ 06 04 I- Cơ sở khoa học của sáng kiến 06 05 1- Cơ sở lý luận 06 06 2- Cơ sở thực tiễn 09 07 II- Mục đích của SKKN 11 08 III- Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 12 09 1- Đối tượng nghiên cứu 12 10 2- Phạm vi nghiên cứu 12 11 IV- Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu 12 12 1. Kế hoạch nghiên cứu: 12 13 2. Phương pháp nghiên cứu: 12 14 PHẦN THỨ HAI – NỘI DUNG 13 15 I- Nội dung nghiên cứu 13 16 II- Thực trạng việc giảng dạy môn âm nhạc. 13 17 III- Các giải pháp thực hiện (ứng dụng SKKN) 15 18 1- BĐTD – Tác dụng và kĩ thuật sử dụng trong giảng dạy – học 15 19 1.1- Bản đồ tư duy: 15 20 1.2- Tác dụng của BĐTD trong dạy - học: 16 21 1.3- Nguyên lí sử dụng BĐTD trong dạy – học 19 22 2- Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môn âm nhạc 22 23 2.1- Ứng dụng BĐTD trong các hoạt động dạy – học âm nhạc: 22 24 2.2- Ứng dụng BĐTD trong các phân môn âm nhạc. 24 25 27 26 3- Quy trình ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy - học môn ÂN: 3.1- Chuẩn bị cho việc ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn ÂN: 27 3.2- Xây dựng bài giảng âm nhạc (soạn bài) có ứng dụng BĐTD: 28 28 3.3- Quy trình dạy - học môn âm nhạc có ứng dụng BĐTD: 30 29 4- Các thiết bị, công cụ hỗ trợ dạy - học âm nhạc với BĐTD: 31 30 4.1- Các thiết bị truyền thống: 32 31 4.2- Các thiết bị, công cụ ứng dụng CNTT: 32 Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 28 2 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS 32 5- Bài soạn (dạy) thực nghiệm: 35 33 IV- Kết quả thực hiện: 43 34 1- Bảng so sánh kết quả điều tra hứng thú của học sinh: 43 35 2- Bảng so sánh kết quả áp dụng SKKN 43 36 V- Tiểu kết: 44 37 PHẦN THỨ BA - KẾT LUẬN: 45 38 I - Bài học kinh nghiệm: 45 39 II – Những vấn đề còn bỏ ngỏ và điều kiện thực hiện SKKN: 46 40 III – Đề xuất - kiến nghị: 46 41 IV – Kết luận chung: 47 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 48 3 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS LỜI MỞ ĐẦU Cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin, bản đồ tư duy cũng đang ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội hiện đại, nó hỗ trợ và giúp ích cho con người trong công việc, trong sinh hoạt hằng ngày, từ những nghiên cứu khoa học đến việc giúp các bà nội trợ khi đi siêu thị ... Trước sự phổ biến và những ưu điểm của bản đồ tư duy mang lại, đặc biệt trong tình hình cấp thiết là phải đổi mới phương pháp giáo dục, những năm gần đây ngành giáo dục nước ta đã triển khai đồng loạt việc ứng bản đồ tư duy vào giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực học tập, sáng tạo của học sinh, mang lại sự hứng thú, ham học hỏi, tìm hiểu của học sinh qua từng tiết học. Với bên ngoài không nói, nhưng ở Việt Nam thì việc hầu hết giáo viên còn coi học sinh thuần tuý là người tiếp nhận thông tin mà không hề dạy họ cách sử dụng những thông tin đó, thì đây quả thực là một lối tư duy mới, trái ngược 1800, nếu được áp dụng sẽ tạo đột phá, thậm chí tạo cuộc cách mạng (không chỉ trong giáo dục, mà trong lối tư duy của con người). Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng bản đồ tư duy vào trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn âm nhạc, từ những kiến thức đã được học trong nhà trường sư phạm, căn cứ vào các cơ sở lí luận và thực tiễn, dựa vào kinh nghiệm giảng dạy của bản thân. Tôi đã luôn tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng những phương pháp mới, những ứng dụng mới trong đó đặc biệt là việc đưa bản đồ tư duy vào quá trình giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn đồng thời cuốn hút, tạo hứng thú cho học sinh khi học môn âm nhạc trong nhà trường để từ đó học sinh có thể áp dụng trong cuộc sống của các em. Nhằm đạt hiệu quả cao trong ứng dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy môn âm nhạc tôi đã những nghiên cứu và viết lại kinh nghiệm về đề tài "Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môn âm nhạc ở trường THCS” Để thực hiện SKKN này, trước hết tôi xin cám ơn ông Tony Buzan, người đã phát triển kĩ thuật dụng BĐTD. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của ban giám hiệu trường THCS Tống Trân, tổ khoa học xã hội trường THCS Tống Trân và các ý kiến đóng góp tích cực các bạn bè đồng nghiệp trong trường THCS Tống Trân, các đồng chí giáo viên âm nhạc THCS trong huyện. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 4 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM STT Kí tự viết tắt Nghĩa của kí tự viết tắt 1 BĐTD Bản đồ tư duy 2 CNTT Công nghệ thông tin 3 SKKN Sáng kiến kinh nghiệm 4 THCS Trung học cơ sở 5 GV Giáo viên 6 HS Học sinh 7 ÂN Âm nhạc 8 TĐN Tập đọc nhạc 9 ÂNTT Âm nhạc thường thức 10 SL Số lượng 11 VD Ví dụ Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân Ghi chú 5 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS PHẦN THỨ NHẤT – ĐẶT VẤN ĐỀ I – Cơ sở khoa học của sáng kiến kinh nghiệm 1- Cơ sở lý luận: Có thể nói, nền giáo dục nước ta đã trải qua hai giai đoạn cơ bản và hiện nay đang trong giai đoạn tiến tới giai đoạn thứ ba. Nếu ở hai giai đoạn trước, với chủ trương lấy người thầy là hạt nhân, trung tâm của mô hình và quá trình giáo dục với hình thức “ thầy giáo chỉ đạo toàn diện học tập của học sinh” thì ở giai đoạn mới này chúng ta đã tiến thêm một bước và sự có thay đổi cơ bản mà trung tâm của quá trình giáo dục là đối tượng học sinh. Luật giáo dục điều 28.2 đã nêu “ phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy để đáp ứng điều này trong dạy – học, buộc các nhà giáo phải thay đổi phương pháp giáo dục sao cho phù hợp với nhu cầu và quá trình học tập của học sinh, đáp ứng được yêu cầu xu thế phát triển của thời đại, góp phần đào tạo con người theo hướng có đủ Đức - Trí - Thể - Mỹ. Chúng ta đã biết, nhiệm vụ cơ bản nhất của mọi hình thái giáo dục là truyền đạt kiến thức cho học sinh. Kiến thức được giáo viên nghiên cứu và lĩnh hội trước sau đó mới truyền tải các kiến thức này cho học sinh. Việc truyền tải đó được diễn ra như thế nào, bằng phương tiện nào, phương thức nào không phải là vấn đề mà điều quan trọng nhất là những thông tin, kiến thức phải được truyền tải một cách đầy đủ, chính xác. Trên thực tế khi truyền đạt kiến thức đến học sinh, giáo viên được phép sử dụng bất cứ phương pháp (có thể là thuyết trình, giảng giải hay kể cả là đọc – chép) và loại phương tiện giáo dục nào để có thể đạt được mục đích của mình (có thể là bảng đen, phấn, thước kẻ, các dụng cụ thí nghiệm, các vật mẫu). Nếu ở hình thái giáo dục cũ, một giáo viên lên lớp sẽ giảng giải, thuyết trình (hay đọc bài) cho một số đông học sinh (nghe và chép). Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 6 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi có thể lại chép những điều ấy vào bài làm, thường thì các em sẽ hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Tiết dạy theo phương pháp cũ (nối đọc – chép) tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt. Khắc phục tình trạng đó là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của ngành giáo dục nước nhà nói chung và của các nhà trường nói riêng. Để bỏ được phương pháp cũ trong dạy – học là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc đổi mới phương pháp dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung. Tuy nhiên, việc có phương tiện hỗ trợ tốt là chưa đủ mà để có các tiết dạy – học tốt ta cần phải có phương pháp tốt. Để tối ưu hoá các tính năng của các thiết bị dạy học hiện đại và hiện thực hoá việc chống dùng phương pháp cũ hay thuyết trình một chiều trong dạy - học thì việc lựa chọn, ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy – học như một phương pháp mới là điều tất yếu. Vậy Bản đồ tư duy là gì, tác dụng ra sao? Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp (do tác giả Tony Buzan - người Anh phát triển từ những năm 1980) được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. BĐTD đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 7 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. BĐTD khai thác cả hai khả năng này của bộ não. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn. Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều BĐTD biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ tương hỗ giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn. BĐTD thể hiện vấn đề một cách đơn giản nhưng chi tiết, chỉ cần nhìn hình đã hiểu, không cần diễn giải dài dòng, cũng không cần quan tâm đến "mục đích, yêu cầu, ý nghĩa" vốn nhiều khi chỉ mang tính công thức. BĐTD dễ hình dung, dễ áp dụng, xin hãy xem minh họa này. Với việc đơn giản nhất là shopping mà cũng có thể vẽ bản đồ thế này, nói gì những vấn đề nghiêm túc như dạy – học. Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng. BĐTD rất logic, mạch lạc mà tư duy cần nhất điều này. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 8 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS BĐTD rất trực quan, thể hiện rõ mọi liên hệ, liên kết, quan hệ... từ cái gì đến cái gì... BĐTD rất tổng thể, như sơ đồ của thành phố, nhìn là thấy ngay cái gì ở đâu, như thế nào, tương tác ra sao với những cái còn lại. Đây là ưu thế hơn hẳn so với sự diễn tả của phương pháp diễn dịch (ví dụ như: Ý I ở trang 4, ý II ở trang 13, ý III ở.... Lúc cần tìm các ý quả là một thách đố. Mà tìm liên hệ giữa chúng thì lại càng đáng nản.) 2- Cơ sở thực tiễn: Như chúng ta biết, Âm nhạc trong nhà trường phổ thông là một môn học, là sư phạm nghệ thuật chứ không nhằm mục đích đào tạo năng khiếu ca hát, mà điều quan trọng hơn cả là qua bộ môn, giúp học sinh có hứng thú tìm hiểu những kiến thức căn bản về âm nhạc, phần nào có được khả năng cảm thụ âm nhạc. Muốn thực hiện điều đó các em phải được đào tạo có bài bản và đảm bảo về nội dung kiến thức cơ bản, đặc biệt là kiến thức về lí thuyết và lịch sử âm Âm nhạc. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay môn âm nhạc ở trường phổ thông chưa thực sự làm được điều đó vì hầu hết giáo viên chưa thực sự dạy âm nhạc một cách bài bản, hầu hết vẫn chỉ dạy theo hướng truyền khẩu (theo phương pháp cũ) với quan điểm: việc giáo dục âm nhạc trong nhà trường phổ thông chưa thực sự cần thiết, nhất là các trường ở khu vực nông thôn - chỉ cần dạy cho các em các bài hát, hát thuộc lời ca, hát to, hát rõ lời là được. Bên cạnh đó lại còn nhiều học sinh chưa hứng thú với học và tìm hiểu về môn âm nhạc nói chung hay các phân môn Nhạc lí; Âm nhạc thường thức nói riêng trong khi đó hầu hết các giáo viên lại cho rằng do các em không tập chung, không chú ý khi học mà không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu tôi thấy, không phải các em không thể chú ý mà hầu hết là do giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc thu hút sự chú ý của học sinh khi dạy và học các nội dung lí thuyết hay nói cách khác là giáo viên chưa làm được điều đó. Qua khảo sát thực trạng nhằm ứng dụng BĐTD vào dạy – học ở trường THCS Tống Trân tôi nhận thấy một số ưu nhược điểm sau: * Về ưu điểm (thuận lợi): Trường THCS Tống Trân (từ ban giám hiệu đến giáo viên) có lòng yêu nghề, có phong trào tích cực tìm hiểu học tập và áp dụng phương pháp mời vào giảng dạy. Các em học sinh chăm học, hiếu học bên cạnh đó còn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của địa phương cũng như của phòng giáo dục huyện. Theo luật giáo dục điều 28.2 đã nêu “ phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 9 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Với chủ trương đó, những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và đạo tạo tỉnh Hưng Yên, Phòng giáo dục và đạo tạo huyện Phù cừ cũng như trường THCS Tống Trân thường xuyên tổ chức triển khai, tập huấn và áp dụng những phương pháp mới vào dạy học. Nhằm đổi mới phương pháp dạy học bắt kịp với yêu cầu của thời đại, từ năm học 2011 – 2012 ngành giáo dục các cấp đã triển khai đồng loạt việc ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học ở các trường phổ thông. Hưởng ứng phong trào đó, toàn trường THCS Tống Trân đã đẩy mạnh việc ứng dụng BĐTD trong công tác và giảng dạy. Thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên đề về BĐTD, bên cạnh đó các giáo viên còn tự học, tự nghiên cứu qua các tài liệu, sách tham khảo và tích cực ứng dụng BĐTD trong các tiết dạy của mình, đây cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm, là tiêu chí thi đua của mỗi giáo viên trong nhà trường. Về cơ sở vật chất, trong những năm gần đây nhà trường đã ngày càng được trang bị đầy đủ về trang thiết bị dạy - học: Có nhiều máy tình với cấu hình khá mạnh và được nối mạng internet, có máy chiếu projector… Học sinh rất hứng thú với các môn học có áp dụng các phương pháp mới đặc biệt là ứng dụng BĐTD vào dạy học trong đó có môn âm nhạc. Đó thực sự là những điều kiện thuận lợi để thực hiện đề tài SKKN ứng dung BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS. * Về nhược điểm (khó khăn): Trực tiếp giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS Tống Trân và được thâm nhập ở một số trường THCS khác về môn học âm nhạc. Bản thân tôi thấy rõ thực trạng của việc dạy môn âm nhạc còn hạn chế và có nhiều bất cập đặc biệt là các phân môn mang tính lí thuyết trong giảng dạy. Quy trình soạn giảng một tiết âm nhạc có ứng dụng BĐTD còn phức tạp vì đặc thù bộ môn hầu hết là thực hành, các nội dung lí thuyết thường được chia nhỏ trong các tiết học. Việc ứng dụng BĐTD trong học tập của học sinh mới chỉ là bước đầu, do vậy các em còn chưa thực sự lắm vững kĩ thuật thiết lập BĐTD và chưa hình thành được thói quen học tập, ghi chép thông tin bằng BĐTD, hơn thế nữa ứng dụng BĐTD đôi khi còn mất nhiều thời gian trong tiết học vì học sinh thường lúng túng, thiếu tự tin trong việc triển khai ý tưởng. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 10 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS Tống Trân là một xã nằm xa trung tâm đô thị nên đời sống kinh tế còn khó khăn, cơ sở vật chất trang thiết bị đặc biệt là thiết bị tin học còn thiếu thốn. Nhu cầu và hiểu biết về nhạc lí hay khả năng thường thức âm nhạc của học sinh chưa cao. Do vậy khi triển khai BĐTD các em có ít sự hiểu biết, ít thông tin liên quan tới nội dung bài học. * Để tăng hứng thú cho học sinh trong các giờ học âm nhạc, đặc biệt là việc học các phân môn lí thuyết, trong quá trình thực hiện giảng dạy bộ môn, tôi luôn quan tâm tìm tòi sự đổi mới trong thiết kế và phương pháp lên lớp từ đó đã phát hiện ra một trong những vấn đề cần quan tâm là phải đổi mới phương pháp theo hướng “ứng dụng bản đồ tư duy” trong soạn bài và giảng dạy trên lớp cho học sinh để phù hợp hơn với nhu cầu và môi trường giáo dục hiện đại. Định hướng chung của phương pháp giảng dạy mới này là chuyển từ mô hình “thuyết trình”; “đọc – chép” với vai trò độc diễn của giáo viên sang mô hình “cộng tác” “tư duy, sáng tạo” thân thiện giữa giáo viên và học sinh với sự trợ giúp đắc lực của kĩ thuật bản đồ tư duy, của máy tính và các phần mềm giáo dục. Để khẳng định những ưu việt của việc áp dụng phương pháp dạy học mới, từ kinh nghiệm thực tế giảng dạy tôi đã tìm hiểu, áp dụng và viết đề tài" Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môn âm nhạc ở trường THCS" II - Mục đích của SKKN: Mục đích là tìm ra phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất để dạy học cho học sinh THCS âm nhạc là nghệ thuật truyền tải âm thanh bằng thời gian nó có ý nghĩa to lớn phát huy trí tưởng tượng, óc tư duy sáng tạo. Qua nghiên cứu nội dung và chương trình sách giáo khoa môn âm nhạc đặc biệt qua việc trực tiếp giảng dạy bản thân tôi - người viết sáng kiến kinh nghiệm này có rất nhiều trăn trở trong việc dạy âm nhạc đặc biệt là khả năng cảm thụ âm nhạc cho học sinh THCS. Theo tôi, chương trình sách giáo khoa mới đã có rất nhiều điểm tích cực, qua cách dạy và học đó học sinh đã được tư duy trực quan bằng nhiều thao tác, phát huy tốt các năng lực của bản thân nhưng thực tế nếu ta chỉ dạy đơn thuần theo đúng nội dung từng bài học đương nhiên đã cung cấp được các kiến thức cơ bản cho học sinh xong để phát huy tối đa và biến những năng lực âm nhạc của học sinh thành khả năng cảm thụ và thái độ yêu thích âm nhạc thì người giáo viên cần phải tìm ra những phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp nhất với từng đối tượng học sinh của mình. Khi nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp mới trong công tác giảng dạy để tăng hứng thú cho học sinh trong học tập môn âm nhạc, tôi tự nhận thấy mình cần nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng nhiều hơn, triệt để hơn kĩ thuật sử dụng BĐTD. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 11 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS Trong đề tài này, những vấn đề đưa ra cho dù vẫn còn trong phạm vi rất nhỏ nhưng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài " Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môm âm nhạc ở trường THCS" với mong muốn cùng chia sẻ và trao đổi những kinh nghiệm giảng dạy của bản thân với các đồng nghiệp mong qua đó sẽ tìm được những lời giải hay nhất, phương pháp tốt nhất nhằm khắc phục được những vấn đề còn tồn tại trong dạy và học môn âm nhạc. Với thực trạng về kĩ năng và hứng thú học, tìm hiểu về âm nhạc của học sinh trường THCS Tống Trân nơi trực tiếp giảng dạy, qua đề tài này tôi muốn tìm ra phương pháp tối ưu nhất để phục vụ, hỗ trợ cho công việc giảng dạy của mình, nhằm giúp cho học sinh có được những kĩ năng cơ bản đặc biệt là có hứng thú với việc học âm nhạc nói chung và các phân môn lí thuyết âm nhạc nói riêng. III - Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: 1- Đối tượng nghiên cứu Đây là đề tài "Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môm âm nhạc ở trường THCS" vì vậy đối tượng nghiên cứu là học sinh và môn âm nhạc trường THCS ( từ lớp 6 đến lớp 8) 2- Phạm vi nghiên cứu: Tại trường THCS Tống Trân (gồm các lớp 6A, 6B, 7A, 7B 8A và 8B). IV - Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu: 1. Kế hoạch nghiên cứu: + Thời gian nghiên cứu và thực nghiệm đề tài kinh nghiệm "Ứng dụng BĐTD trong dạy –học môm âm nhạc ở trường THCS”: năm học 2012 - 2013 + Thời gian kiểm định, đánh giá và hoàn thiện SKKN: Tháng 4 năm 2013. 2. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp quan sát: Thu thập thông tin về các em thuộc các lớp từ khối 6 đến khối 8 bằng cách tri giác trực tiếp các nhân tố có liên quan. b. Phương pháp điều tra: Thu thập các thông tin trên cơ sở các câu trả lời về hứng thú và khả năng nhận thức của các em học sinh về môn âm nhạc. c. Phương pháp tổng hợp tài liệu: Tìm hiểu tài liệu và học hỏi những người đi trước có liên quan đến đề tài và đã giải quyết như thế nào? Hiệu quả của các biện pháp đã sử dụng... d. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 12 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS Kết hợp lý luận với thực tiễn tại trường, đem lý luận phân tích kinh nghiệm của thực tiễn rồi từ những phân tích đó rút ra kết luận những bài học thành công và thất bại, những phát hiện mới và phát triển hoàn thiện đề tài. PHẦN THỨ HAI – NỘI DUNG I- Nội dung nghiên cứu Âm nhạc là một trong những phương tiện thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho từng học sinh, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người Việt Nam do đó mỗi giáo viên dạy môn âm nhạc phải tự tìm cho mình một giải pháp, một phương pháp dạy học mới để đáp ứng được với yêu cầu của bộ môn và đáp ứng thị hiếu của chính các em học sinh. Đối với tôi một người được tiếp xúc, tìm hiểu, tập huấn khá nhiều về các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là đã được tập huấn về việc ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học (theo dự án THCS II tại Hà Nội năm học 20112012) nên tôi lựa chọn việc ứng dụng BĐTD vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn âm nhạc cho học sinh. Để thực hiện một giờ dạy học với sự hỗ trợ của BĐTD, người thầy cần thực sự hiểu về nó để thiết kế toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của mình một cách hợp lí và có hiệu quả. Tuy nhiên cái đạt được là dựa vào BĐTD giáo viên có thể tổ chức các hoạt động dạy học được thiết kế từng bước hợp lý linh hoạt trong một cấu trúc chặt chẽ, giáo viên được giảm nhẹ việc viết bảng hay việc phải thuyết giảng “chay” mà thay vào đó giáo viên có điều kiện tăng cường trao đổi, đối thoại thảo luận với học sinh, kiểm soát, thu hút và kích thích ý thức khám phá tri thức và khả năng sáng tạo của học sinh. Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm tôi nhận thầy để làm tốt việc ứng dụng BĐTD vào giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS ta cần chú ý đến một số vấn đề sau: + Một là: Bản đồ tư duy - Tác dụng và nguyên lí sử dụng trong dạy học. + Hai là: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc. + Ba là: Quy trình ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc. + Bốn là: Các thiết bị, công cụ hỗ trợ dạy - học âm nhạc với BĐTD. (Các phần mềm hỗ trợ trong ứng dụng BĐTD trong dạy học). * Bốn vấn đề nêu trên cũng chính là những nội dung nghiên cứu mà đề tài “Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môn âm nhạc ở trường THCS” đề cập đến. II - Thực trạng việc dạy học âm nhạc ở trường THCS. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 13 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS Qua tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng việc áp dụng các phương pháp mới trong dạy học âm nhạc tôi nhận thấy hầu hết các giáo viên âm nhạc trong huyện hiện nay chủ yếu vẫn áp dụng các phương pháp dạy học cũ (đặc biệt là các nội dung lí thuyết), học sinh thì tiếp nhận theo kiểu nghe, ghi chép mà có thể không hiểu và quên ngay kiến thức sau tiết học. Thực trạng này là khá phổ biến (ví dụ: trong cuộc thi Tài trí học trò cấp huyện có câu hỏi “Các em được nghe một đoạn nhạc và cho biết đó là bài hát nào, do ai sáng tác?”. Hầu hết các em không viết chính xác tên bài hát chứ nói gì đến tác giả trong khi thực tế thì bài hát đó các em mới được học tuần trước). * Cấu trúc (minh họa theo phương pháp dạy học cũ) Có thể nói phương pháp dạy học đó là phương pháp truyền tải và tiếp nhận thông tin theo kiểu một chiều, không gây được hứng thú và càng không phát huy được tính tích cực của học sinh. * Quy trình dạy và học (ví dụ minh họa với phân môn Âm nhạc thường thức) + Giới thiệu bài. - Giáo viên giới thiệu bài. - Học sinh nghe. + Chỉ định học sinh đọc - Giáo viên điều khiển - Học sinh đọc nội dung trong sách giáo khoa. + Nhận xét - Giáo viên đặt câu hỏi và chỉ định. - Học sinh tìm ý và trả lời. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 14 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS + Ghi nhớ: - Giáo viên kết luận. - Học sinh nghe – ghi nhớ - ghi chép. Tuy rằng theo quy trình dạy và học như trên không phải sai nhưng nếu cứ thực hiện một cách máy móc như vậy thì sẽ không phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo cho các em có thói quen ỷ lại vào sách giáo khoa hay vở ghi, học một cách thụ động cá biệt có những học sinh còn không hiểu tại sao lại như vậy do đó chỉ một thời gian ngắn sau, hầu hết các em không thể nhớ được những gì đã học, bên cạnh đó còn gây nhàm chán, mất hứng thú với các giờ học nhạc đặc biệt là nội dung lí thuyết cả trong giáo viên và học sinh do đó các nội dung thực hành cũng không sôi nổi, các em không cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài hát, bài TĐN được học và kết quả chung là chất lượng các giờ học âm nhạc nói riêng và chất lượng bộ môn nói chung sẽ không cao. Sự thiếu tập chung, nhanh mất hứng thú của học sinh khi học mà tôi nêu ở trên theo tôi có lẽ phần lớn là tại các bài học cứ theo một quy trình đều đều như nhau, nhàm chán khô cứng, thiếu sinh động, không linh hoạt và không sáng tạo. III- Các giải pháp thực hiện (ứng dụng SKKN): Để giải quyết các vấn đề nêu trên, mỗi giáo viên âm nhạc phải lựa chọn những phương pháp dạy học phù hợp, có hiệu quả cho từng tiết, từng nội dung học. Với bản thân tôi, qua kinh nghiệm giảng dạy, qua nghiên cứu các tài liệu thì việc ứng dụng BĐTD vào dạy học âm nhạc, đặc biệt là với các nội dung lí thuyết là một giải pháp tối ưu. Vậy BĐTD là gì? tính năng tác dụng của BĐTD và cách sử dụng, ứng dụng BĐTD trong dạy học âm nhạc là như thế nào chính là giải pháp và cũng là nội dung đề tài này nghiên cứu để giải quyết vấn đề mà tôi đã nêu. 1- Bản đồ tư duy – Tác dụng và nguyên lí sử dụng trong dạy - học: 1.1- Bản đồ tư duy: Bản đồ tư duy (BĐTD) là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 15 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS 1.2- Tác dụng của BĐTD trong dạy - học: Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài, mỗi chương. a- Tác dụng trong giảng dạy: Để giảng dạy theo BĐTD, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên chỉ cần định hướng, kết luận lại từng nội dung cho học sinh. Bản đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng dạy theo BĐTD phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập. Với BĐTD, giáo viên thực sự trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ học sinh. Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng BĐTD, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 16 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. VD: Tiết 27 lớp 7. Giảng dạy theo BĐTD mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD (khá phổ biến hiện nay). VD: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có khả năng nhìn nhận vấn đề một cách hệ thống, khoa học. b- Tác dụng trong học tập: BĐTD giúp HS có được phương pháp học tốt: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 17 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ có được phương pháp học tốt, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của các em, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả: Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. VD: * Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả bài giảng đọc - chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh. Việc vẽ, viết gì trên BĐTD, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, sẽ tăng khả năng vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 18 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS 1.3- Nguyên lí sử dụng BĐTD trong dạy – học Bản đồ tư duy là một rạng sơ đồ mở vì vây khi sử dụng hay thiết kế, người dùng có thể mặc sức sáng tạo tuy nhiên với không khổ đề tài tôi xin đưa ra một số quy trình thiết lập như sao trong quá trình dạy – học. a- Cách điển hình (thường dùng): Bước 1: Viết hay vẽ nội dung đề tài của bài học lên bảng (hoặc giữa trang giấy và vẽ một vòng bao bọc nó). Việc sử dụng màu sẽ nâng cao chất lượng và vận tốc ghi nhớ. Nếu viết chữ thì hãy cô đọng nó thành một từ khóa chính. Bước 2: Đối với mỗi ý quan trọng, vẽ một đường nhánh (cấp 1) (hay một đường có mũi tên ở đầu tùy theo quan hệ từ đối tượng trung tâm đối với ý phụ bên ngoài) đường phân nhánh xuất phát từ hình trung tâm và nối với một ý phụ. Bước 3: Từ mỗi ý quan trọng, lại vẽ các phân nhánh (cấp 2) và các ý phụ bổ sung cho ý đó. Bước 4: Từ các ý phụ này lại, mở ra các phân nhánh (cấp 3 …) chi tiết cho mỗi ý. Bước 5: Tiếp tục vẽ hình phân nhánh các ý (cấp n) cho đến khi đạt được giản đồ chi tiết nhất (hình rễ cây mà gốc chính là nội dung đề tài đang dạy và học). VD: b- Dùng bản đồ tư duy với nhóm học tập: Một nhóm có thể làm việc chung và lập nên 1 BĐTD với các bước sau: Bước 1: Mỗi cá nhân vẽ các giản đồ ý về những gì đã biết được về nội dung, chủ đề học tập. Bước 2: Kết hợp các cá nhân để thành lập một giản đồ ý chung về các nội dung, chủ đề đã biết. Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 19 SKKN: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS Bước 3: Quyết định xem nên chọn lọc và học tập những gì dựa vào cái giản đồ này của nhóm. Bước 4: Mỗi thành viên tự tìm hiểu thêm về chủ đề, nội dung. Tùy theo yêu cầu mà tất cả chú tâm vào cùng một lĩnh vực để đào sâu thêm hay chia ra mỗi người một lĩnh vực để đẩy nhanh hơn quá trình làm việc. Mỗi người tự hoàn tất trở lại giản đồ ý của mình. Bước 5: Kết hợp lần nữa và góp ý chéo gữa các thành viên trong nhóm để tạo thành BĐTD hoàn chỉnh của cả nhóm. VD: c- Khả năng diễn thuyết (trình bầy nội dung của BĐTD): Dùng BĐTD bao gồm toàn bộ các ghi chép sẽ có nhiều tiện lợi so với các kiểu ghi chép khác khi diễn thuyết là vì: - Súc tích: Chỉ cần 1 trang giấy duy nhất đã có đầy đủ thông tin cần diễn thuyết. - Người diễn thuyết không phải "đọc lại". Mỗi ý kiến đã dược thu gọn trong một từ khóa hay hình, ta sẽ không phải đọc theo những gì đã soạn thành bài văn soạn sẵn mà chỉ cần triển khai theo BĐTD và tự do diễn thuết theo khả năng và sự hiểu biết của mình về nội dung. - Linh Hoạt: Nếu như có người đặt câu hỏi ta có thể tìm ngay ra vị trí liên hệ của câu hỏi với BĐTD. Như vậy, người diễn thuyết sẽ không bị “lạc” khi tìm cho ra chỗ mà câu trả lời cần đến. VD: Giáo viên: Trần Thanh Tùng – Trường THCS Tống Trân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan